LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 3
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 3
1. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt 3
2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt 4
II. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT NAM 6
1. Thanh toán không dùng tiền mặt trước thời kỳ đổi mới. 6
2. Thanh toán không dùng tiền mặt thời kỳ đổi mới đến nay 6
III. CÁC QUY ĐỊNH TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 7
1. Qui định chung 8
2. Qui định đối với bên chi trả (bên mua) 8
3. Qui định đối với bên thụ hưởng. 9
4. Qui định đối với Ngân hàng 9
IV. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 9
1. Pháp luật 10
2. Khoa học và công nghệ 10
3. Tâm lý 10
V. NỘI DUNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 11
1. Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền 11
2. Uỷ nhiệm thu 13
3. Hình thức séc thanh toán 14
4. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) 17
5. Thanh toán bằng thẻ thanh toán 18
VI. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG 20
1. Phương thức thanh toán liên hàng 20
2. Phương thức thanh toán bù trừ 21
3. Thanh toán qua tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước 22
CHƯƠNG II 23
THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 23
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 23
1. Vài nét sơ lược về Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 23
2. Tổ chức hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 24
II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 35
1. Tình hình chung về thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 35
2. Thực trạng vận dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 39
3. Tình hình vận dụng các phương thức thanh toán giữa các Ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 46
4. Những tồn tại và nguyên nhân trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 48
CHƯƠNG III 50
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 50
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI 50
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 51
1. Đào tạo cán bộ 52
2. Giải pháp về séc 52
3. Tiếp tục triển khai chủ trương mở và sử dụng tài khoản cá nhân. 53
4. Cải tiến các phương tiện thanh toán. 53
5. Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng. 55
6. Giải pháp về hiện đại hóa công nghệ thanh toán. 55
7. Công tác Marketing 56
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 57
1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 57
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 58
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 59
KẾT LUẬN 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu của Nhà nước.
- Kết quả hoạt động kinh doanh chính vẫn là tín dụng mặc dù các sản phẩm dịch vụ của chi nhánh đã được đa dạng và chú trọng.
- Cần chú trọng và có bước đi thích hợp để thu hút khách hàng xuất khẩu nhằm tạo nguồn ngoại tệ ổn định, lâu dài để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn ngoại tệ huy động.
* Định hướng năm 2003:
Bước sang năm 2003, nền kinh tế của đất nước này đã duy trì được tốc độ tăng trưởng sau thời kỳ đổi mới, ngành Ngân hàng nói chung và Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội nói riêng đã thực hiện được vai trò của mình trong công tác phục vụ đời sống chính trị xã hội và kinh tế đất nước. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã đón nhận Huân chương độc lập và danh hiệu đơn vị Anh hùng trong thời kỳ đổi mới được Đảng và Nhà nước trao tặng đã tạo niềm tin, phấn khởi và tự hào, quyết tâm phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của mình. Với quyết tâm cao cán bộ công nhân viên cố gắng thực hiện mục tiêu đề ra năm 2003, thực hiện cơ cấu lại Ngân hàng với phương châm cơ cấu lại và phát triển vững chắc, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ, lành mạnh và nâng cao năng lực tài chính, tăng năng lực phục vụ theo cơ chế thanh toán, nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển vững chắc và đảm bảo an toàn hệ thống.
II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
1. Tình hình chung về thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Chuyển sang hoạt động như một Ngân hàng thương mại, Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội luôn coi trọng công tác thanh toán, luôn ý thức được rằng mọi khách hàng khi thực hiện thanh toán qua Ngân hàng đều mong muốn thanh toán, kịp thời, chính xác và đảm bảo an toàn tài sản cho mình. Để chất lượng phục vụ khách hàng ngày càng được nâng cao và phấn đấu thực hiện tốt vai trò là trung gian thanh toán thì Ngân hàng phải chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thanh toán viên thành thạo nghiệp vụ và nắm chắc quy trình về thanh toán.
Từ khi pháp lệnh Ngân hàng ra đời (tháng 5/1990), Ngân hàng Trung ương đã thành lập trung tâm tin học Ngân hàng và trang bị hệ thống máy vi tính từ Trung ương đến các chi nhánh Ngân hàng tỉnh, thành phố và một số quận huyện lớn. Tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội cũng đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tin học vào hệ thống thanh toán để phục vụ cho công tác thanh toán thay thế cho việc làm thủ công do đó hiệu quả thanh toán được nâng cao, thời gian thanh toán rút ngắn từ đó làm cho khách hàng yên tâm tin tưởng, nâng cao uy tín cho khách hàng. Đến nay chi nhánh liên tục trang bị thêm máy vi tính để đảm bảo phục vụ kinh doanh và chỉ đạo điều hành, đồng thời hoàn chỉnh nối mạng tại hội sở và 3 chi nhánh huyện.
Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội được thực hiện bằng các phương thức thanh toán sau:
- Trong phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử: Chi nhánh đã thực hiện thanh toán với các Ngân hàng cùng hệ thống bằng mạng vi tính. Điều này đã giải quyết được tình trạng thanh toán liên hàng chậm trễ. Mỗi món tiền nếu thanh toán bằng liên hàng phải mất từ 5 - 7 ngày (do phải chuyển tiền bằng thư) thì nay với phương thức mới đã có thể chuyển được ngay trong ngày. Theo quy trình này việc kiểm soát và xử lý của trung tâm kiểm soát diễn ra nhanh gọn và Ngân hàng có thể phát hiện kịp thời các khoản thất lạc… Nhờ vậy thanh toán chính xác, rút ngắn thời gian thanh toán, vốn chu chuyển nhanh.
- Trong phương thức thanh toán bù trừ Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã thực hiện thanh toán với các Ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Trong mỗi ngày làm việc thì thanh toán viên phụ trách khâu thanh toán bù trừ tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sẽ đi thực hiện thanh toán bù trừ và giao nhận trực tiếp 2 phiên (buổi sáng 9 giờ và buổi chiều 13 giờ 30). Tại phiên thanh toán bù trừ, thanh toán viên giao nhận chứng từ trực tiếp với các Ngân hàng thành viên, tại bàn giao dịch thanh toán viên có đủ thẩm quyền xử lý các trường hợp phát sinh ngay tại phiên giao dịch.
Ngoài ra Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội còn tham gia thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
Trong thời gian qua, doanh số thanh toán tăng lên một cách rõ rệt, nhất là doanh số thanh toán không dùng tiền mặt được thể hiện qua bảng 2.2 “Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội năm 2001 - 2002) (Xem bảng 2.2 trang sau).
Tình hình thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội tương đối cao đó là một kết quả đáng mừng. Việc thanh toán qua Ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội được mở rộng không dừng lại ở thanh toán trên địa bàn mà mở rộng thanh toán ra toàn quốc. Việc thanh toán doanh số tăng lên rõ rệt cụ thể: Năm 2002 về thanh toán không dùng tiền mặt với số món là 79316 trên tổng số 104.363 món chiếm 76% tổng số món thanh toán chung đạt doanh số 11.921.332 triệu đồng nên tổng doanh số thanh toán chung là 15.018.259 triệu đồng, đạt 79% tổng doanh số thanh toán. Trong khi đó năm 2001 tổng số món thanh toán chung là 107100 đạt doanh số 14.937.982 triệu đồng, trong đó thanh toán không dùng tiền mặt là 72828 món với doanh số là 11.670.748 triệu đồng chiếm 78% tổng doanh số thanh toán. Qua số liệu trên có thể thấy qua 2 năm, về số món thanh toán không dùng tiền mặt tăng 6488 món tương ứng tăng 250.584 triệu đồng.
Ta thấy doanh số thanh toán không dùng tiền mặt hàng năm tăng, tỉ trọng thanh toán bằng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội là hợp lý. Năm 2001 chiếm 32% tổng số món chung đạt doanh số thanh toán 3.267.234 triệu đồng, chiếm 22% tổng doanh số thanh toán. Năm 2002 với số món thanh toán bằng tiền mặt chiếm 24% tổng số món thanh toán đạt doanh số 3.096.927 triệu đồng. Qua đây , ta thấy rằng trong hai năm qua ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã có những biện pháp tích cực giảm thấp tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt đồng thời nâng cao hình thức thanh toán không dùng tiền mặt , qua đó góp phần tạo nên thói quen sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư .
Qua đó ta thấy khối lượng thanh toán qua Ngân hàng ngày càng được mở rộng, được củng cố và hoàn thiện và có vai trò quan trọng trong thanh toán.
Có được những kết quả khả quan như vậy là do Ngân hàng có sự chuyển đổi, đổi mới chủ trương chính sách của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, vận dụng kịp thời công nghệ tin học tiên tiến hiện đại trên thế giới vào qui trình thanh toán nâng cao chất lượng trong khâu thanh toán, bên cạnh đó với đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt và có tâm huyết với công việc của mình.
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thực hiện tốt một phần cũng nhờ vào công tác tiến bộ hoạt động có hiệu quả, việc chuyển tiền từ tiền mặt sang chuyển khoản diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác và kịp thời. Nhờ vậy uy tín của Ngân hàng ngày càng tăng lên tạo điều kiện tiếp tục mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong thời gian tới để nâng cao hơn doanh số thanh toán không dùng tiền mặt so với tổng doanh số thanh toán chung của Ngân hàng.
Mặt khác, nhờ thực hiện tốt công tác tiền tệ, kho quỹ nên Ngân hàng luôn duy trì được mức tồn quỹ tiền mặt, đáp ứng được nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng nên sự tin tưởng của khách hàng đối với Ngân hàng ngày càng tăng. Đây cũng là một trong những nhân tố tạo niềm tin tưởng đối với khách hàng giúp thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát huy hơn nữa vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
2. Thực trạng vận dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Hiện nay Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sử dụng hình thức thanh toán chuyển tiền điện tử giữa các Ngân hàng cùng hệ thống thanh toán bù trừ với các Ngân hàng thương mại khác, các tổ chức tín dụng đóng trên địa bàn Hà Nội và thanh toán qua tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và hiện nay đã sử dụng hình thức thanh toán điện tử liên ngân hàng với các ngân hàng khác hệ thống.
Xét về cơ cấu thanh toán không dùng tiền mặt, chủ yếu khách hàng vẫn sử dụng công cụ truyền thống như uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, các loại séc, …. đối với hình thức thanh toán thư tín dụng trong nước ít được áp dụng. Ngân hàng chỉ thanh toán được số lượng món ít chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, riêng đối với thẻ thanh toán thì tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chưa được áp dụng mà loại hình này mới được triển khai ở một số Ngân hàng như Ngoại thương, Công thương nhưng cũng chưa phải là loại hình thanh toán phổ biến. Khi có nhu cầu thanh toán thì khách hàng thường lựa chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp nhất, vừa đáp ứng tính chính xác, an toàn trong thanh toán, vừa nhanh chóng kịp thời nhằm mang lại lợi ích kinh tế. Căn cứ chủ yếu mà khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán không dùng tiền mặt là:
+ Qui định cụ thể của mỗi hình thức thanh toán.
+ Điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị hoặc cá nhân tham gia thanh toán.
+ Mức độ tín nhiệm bạn hàng.
+ Thói quen sử dụng hình thức thanh toán.
+ Trình độ cán bộ và trang thiết bị thanh toán của Ngân hàng.
Như đã thấy trong thời gian qua thì thanh toán không dùng tiền mặt có xu hướng tăng cả về số món và số tiền trên tổng số thanh toán chung, được thể hiện qua việc sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội năm 2001 - 2002 như sau: (Xem bảng 2.3 trang sau)
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy tình hình thanh toán không dùng tiền mặt trong 2 năm 2001 - 2002 Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chủ yếu tập trung vào các hình thức thanh toán như Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền, séc thanh toán. Năm 2001 doanh số hoạt động là 11.670.748 triệu đồng đến năm 2002 đạt 11.921.332 triệu đồng, tăng 250.584 triệu đồng (tăng 2,1% so với năm 2001). Trong các hình thức thanh toán trên thì uỷ nhiệm chi chiếm tỉ lệ cao nhất năm 2001 chiếm 86% tổng doanh số thanh toán và năm 2002 tỉ lệ này cao hơn chiếm tới 93,5% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Sở dĩ có được như vậy là do hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi thuận tiện, có nhiều ưu điểm hơn các hình thức khác, hơn nữa còn phụ thuộc vào độ tín nhiệm lẫn nhau của các khách hàng, tình hình trang thiết bị kỹ thuật thanh toán của Ngân hàng và một phần cũng do thói quen sử dụng các hình thức thanh toán của khách hàng.
Để phân tích một cách kỹ hơn về các hình thức thanh toán ta cần đi sâu nghiên cứu các nội dung cụ thể của mỗi hình thức thanh toán trên tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
Bảng 2.3 : Tình hình sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội năm 2001 – 2002 .
Đơn vị: Triệu đồng
Các hình thức
Năm 2001
Năm 2002
Số món
%
Số tiền
%
Số món
%
Số tiền
%
1. Uỷ nhiệm thu
10.263
16,3
61.812
0,5
11.471
16,5
105.022
0,6
2. Uỷ nhiệm chi
47.804
75,1
11.148.336
93,5
52.763
75,8
18.035.554
95,5
3. Séc thanh toán
3.805
6
454.828
3,8
5.378
7,7
742.200
3,9
- Séc chuyển khoản
2.210
3,5
210.241
1,7
3.313
4,8
461.000
2,4
- Séc bảo chi
1.595
2,5
244.587
2,1
2.065
2,9
281.200
1,5
4. Ngân phiếu thanh toán
1.782
2,8
256.356
2,2
0
0
0
0
Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt
63.654
100
11.921.332
100
69.612
100
18.882.776
100
2.1. Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền
* Uỷ nhiệm chi: Đây là hình thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất chiếm tỉ trọng rất cao trong tổng số các hình thức thanh toán tại chi nhánh Ngân hàng. Năm 2002 so với số món là 52.763 món trên tổng số 69.612 món chiếm 75,8% tương ứng với số tiền là 18.035.554 triệu đồng chiếm 95,5% tổng doanh số thanh toán. So với năm 2001 thì năm 2002 hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi tăng lên một cách rõ rệt, về số món năm 2002 tăng 4.959 món tương ứng số tiền là 6.887.218 triệu đồng.
Như vậy qua hai năm 2001 và 2002 ta thấy doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm chi ngày càng tăng lên, đạt doanh số cao nhất trong tất cả các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hình thức thanh toán này được khách hàng sử dụng phổ biến nhất là do thủ tục thanh toán của nó khá đơn giản, thuận tiện, người mua chỉ cần viết Uỷ nhiệm chi tới Ngân hàng mình mở tài khoản, nếu như trên tài khoản của người mua còn đủ số dư để thanh toán thì Ngân hàng sẽ tự làm thủ tục thanh toán cho người bán, người bán không cần thiết phải đến Ngân hàng làm thủ tục thanh toán như các hình thức khác, như vậy thanh toán bằng hình thức này sẽ thuận tiện cho cả hai bên. Hơn nữa do việc thanh toán liên hàng qua mạng vi tính và thanh toán bù trừ trên địa bàn Hà Nội rất nhanh gọn nên hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi trở nên thuận tiện và kịp thời hơn. Chỉ trong vòng từ 1 - 2 ngày thậm chí vài giờ kể từ khi người mua gửi Uỷ nhiệm chi, người bán đã nhận được tiền hàng và cũng có thể không nhận được tiền hàng vì còn phụ thuộc vào bên mua có lập Uỷ nhiệm chi để thanh toán hay không. Do vậy hình thức thanh toán này chỉ được áp dụng cho các đơn vị có quan hệ thường xuyên và có uy tín với nhau.
Ngoài việc sử dụng để thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ của khách hàng thì b bên cạnh đó Uỷ nhiệm chi còn được sử dụng để thanh toán những khoản của chính bản thân Ngân hàng như thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách, chi trả lãi điều hòa vốn… do vậy Uỷ nhiệm chi chiếm một tỉ trọng rất lớn trong tổng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
* Séc chuyển tiền:
Séc chuyển tiền là hình thức chuyển tiền cho người đại diện đơn vị xin chuyển tiền trực tiếp chuyển để nhận tiền tại Ngân hàng trả chuyển tiền.
Séc chuyển tiền được áp dụng để thanh toán giữa hai Ngân hàng cùng hệ thống. Nếu như thanh toán giữa hai Ngân hàng khác hệ thống thì phải làm thủ tục sang Ngân hàng Nhà nước phát hành séc chuyển tiền.
Để đảm bảo an toàn khi chuyển tiền thì trên tờ séc chuyển tiền phải tính và ghi ký hiệu mật. Nếu quá trình thanh toán sai sót như sai ký hiệu mật thì tra soát ngay Ngân hàng phát hành séc, nhưng nếu sai nghiêm trọng hơn và tờ séc bị trả lại cho khách hàng thì làm cho thời gian thanh toán lâu hơn rất nhiều, do vậy khách hàng có thể từ chối hình thức thanh toán này vì thời gian lâu sẽ gây chậm trễ trong thanh toán, lãng phí tốn kém cho người sử dụng và có thể mất cơ hội làm ăn của khách hàng. Bởi vậy doanh số thanh toán séc chuyển tiền qua các năm tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội luôn có xu hướng giảm.
Tóm lại, hình thức thanh toán Uỷ nhiệm chi là một hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện và kịp thời, do vậy phù hợp với mọi đối tượng khách hàng. Được sử dụng phổ biến nhất và chiếm tỉ lệ cao nhất hơn 90% trên doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, hiện nay hình thức này được sử dụng thông qua hai phương thức thanh toán là thanh toán bù trừ và thanh toán điện tử.
2.2. Hình thức thanh toán Uỷ nhiệm thu.
Trong năm 2002 khách hàng sử dụng hình thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội có tăng nhưng không đáng kể. Cụ thể như sau về số món thanh toán là 11.471 món chiếm 16,5% trên tổng số món thanh toán tăng hơn năm trước 1.208 món. Về số món thì hình thức này chiếm tỉ trọng tương đối lớn so với các hình thức khác nhưng xét về doanh số thanh toán thì lại chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 2002 doanh số thanh toán Uỷ nhiệm thu là 105.022 triệu đồng chiếm 0,5% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng doanh số thanh toán là do Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán bị động đối với người bán nên không được ưa chuộng như các hình thức khác. Do vậy sử dụng hình thức này chủ yếu là để thu tiền điện, nước, điện thoại… và với doanh số nhỏ.
Uỷ nhiệm thu đòi tiền hàng hóa của đơn vị mua mở tài khoản tại Ngân hàng thì đơn giản, khi bên bán giao hàng xong thì lập Uỷ nhiệm thu kèm hóa đơn bán hàng và nhờ Ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng, sau đó thì bên bán phải chờ đợi để Ngân hàng gửi Uỷ nhiệm thu kèm chứng từ sang Ngân hàng phục vụ bên mua đòi tiền trước và khi Uỷ nhiệm thu được chuyển về Ngân hàng phục vụ bên bán thì khi đó Ngân hàng mới ghi có vào tài khoản của người bán. Do bị động nên bên bán có khả năng bị chiếm dụng vốn nên bên bán rất ngại sử dụng hình thức này. Nó chủ yếu được áp dụng trong trường hợp thanh toán giữa khách hàng có tín nhiệm lẫn nhau.
Do hình thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu có những hạn chế nên hình thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán, nó chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội.
2.3 Hình thức thanh toán bằng séc thanh toán
Hiện nay trong các hình thức thanh toán tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thì séc thanh toán chiếm tỉ trọng nhỏ trong doanh số thanh toán không dùng tiền mặt vì mặc dù hình thức này ra đời sớm nhưng sử dụng nó còn nhiều hạn chế.
* Séc chuyển khoản:
Qua bảng 2.3 ta thấy, séc thanh toán ít được sử dụng nó chỉ chiếm 3,8% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Trong đó, doanh số thanh toán bằng séc chuyển khoản các năm đều thấp, trong năm 2001 là 210.241 triệu đồng đến năm 2002 là 461.000 triệu đồng chiếm khoảng 1,7% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt với số món tương ứng năm 2001 là 2.210 món và năm 2002 là 3.313 món chiếm 3,5% và 4,8%. Qua số liệu cho ta thấy mỗi số món thanh toán của séc chuyển khoản chỉ là một số tiền nhỏ, séc chuyển khoản chỉ thanh toán những khoản tiền nhỏ. Ta thấy thủ tục thanh toán séc chuyển khoản khá đơn giản do đó dễ bị lợi dụng, séc chuyển khoản do chủ tài khoản phát hành, sau khi đã thỏa thuận với bên bán mà không phải thông qua một thủ tục nào khác ở Ngân hàng. Do vậy chủ tài khoản (bên mua) có thể phát hành quá số dư thì quyền lợi của bên bán sẽ bị ảnh hưởng, cho nên hình thức này phải tuân theo nguyên tắc ghi “nợ” trước “có” sau. Do vậy khi người bán nộp séc chuyển khoản vào Ngân hàng phục vụ mình thì chưa được ghi “có” ngay vào tài khoản tiền gửi mà phải đợi Ngân hàng kiểm tra xem trên tài khoản của đơn vị trả tiền có đủ số dư để thanh toán không. Nếu hai bên khách hàng mở tài khoản tại hai Ngân hàng khác nhau thì quá trình luân chuyển chứng từ phải mất 2 - 3 ngày, người bán mới được ghi “có” vào tài khoản của mình. Vì vậy người bán không thích nhận séc chuyển khoản do không đảm bảo nhu cầu thanh toán kịp thời để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh và không an toàn. Do vậy đây là nguyên nhân chính làm séc chuyển khoản ít được sử dụng.
* Séc bảo chi:
Nhìn vào số liệu ở bảng 2.3 ta thấy số món thanh toán séc bả chi trong năm 2001 là 1.595 chiếm 2,5% trên tổng số món thanh toán không dùng tiền mặt, tương ứng với doanh số thanh toán là 244.587 chiếm 2,1% trên tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, và đến năm 2002 thì tính cả về số món và doanh số thanh toán của séc bảo chi có tăng nhưng vẫn chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
So với séc chuyển khoản thì séc bảo chi về mặt thủ tục phiền hà hơn, người mua muốn thanh toán phải qua nhiều khâu chứ không được ký phát trả thẳng cho người bán. Séc bảo chi đảm bảo an toàn cho người bán. Muốn sử dụng séc bảo chi thì đơn vị phát hành phải lập 3 liên Uỷ nhiệm chi kèm tờ séc đã viết đầy đủ các yếu tố cần thiết theo quy định và nộp vào Ngân hàng nơi mình mở tài khoản để trích tiền từ tài khoản tiền gửi hay xin vay Ngân hàng để lưu ký vào tài khoản “đảm bảo thanh toán séc bảo chi”. Mặc dù về mặt thủ tục thì séc bảo chi phiền hà hơn so với séc chuyển khoản, nhưng séc bảo chi luôn chứa đựng khả năng thanh toán vì nó đã được Ngân hàng đảm bảo chi trả. Vì vậy người bán thích nhận séc bảo chi hơn nhưng người mua lại không muốn thanh toán bằng séc bảo chi. Để giải quyết được mâu thuẫn này, đòi hỏi Ngân hàng phải có những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và phát huy tính ưu việt của nó. Mặt khác, nếu khách hàng muốn sử dụng séc bảo chi nhiều trong thanh toán thì sẽ tạo cho Ngân hàng có nguồn vốn từ tiền ký quỹ này để bổ sung thêm và tăng cường mở rộng hoạt động tín dụng.
Qua thực tế cho ta thấy, séc bảo chi đều phải tính và ghi ký hiệu mật và được phép ghi “có” trước, “nợ” sau nên khi khách hàng nộp séc vào Ngân hàng, sau khi kiểm tra thấy tờ séc hợp lệ và trong thời hạn thanh toán (thời hạn hiệu lực của séc bảo chi tối đa là 15 ngày, kể từ ngày bảo chi séc) sẽ thanh toán ngay cho khách hàng, nếu thanh toán khác hệ thống theo quy định hiện nay sẽ cho phép hạch toán nợ - có đồng thời tại phiên giao dịch bù trừ, do đó tốc độ thanh toán séc bảo chi khá nhanh. Vì vậy khuyến khích được khách hàng sử dụng hình thức thanh toán séc bảo chi sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ thanh toán trong nền kinh tế, tiết kiệm được nhiều chi phí phát sinh khác.
3. Tình hình vận dụng các phương thức thanh toán giữa các Ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Hiện nay, tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sử dụng hai phương thức thanh toán giữa các Ngân hàng là thanh toán bù trừ và thanh toán điện tử, tình hình thực hiện các phương thức sau hai năm hoạt động được thể hiện qua bảng 2.4.
Bảng 2.4 Tình hình áp dụng các phương thức thanh toán tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, 2001 - 2002:
Đơn vị: Triệu đồng
Các phương thức thanh toán
Năm 2001
Năm 2002
Doanh số
Tỉ trọng
Doanh số
Tỉ trọng
Thanh toán bù trừ
5.251.837
45
5.049.320
42
Thanh toán điện tử
6.418.911
55
6.872.012
58
Tổng cộng
11.670.748
100
11.921.331
100
Trước đây Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thực hiện thanh toán liên hàng nhưng hiện nay do công nghệ tin học phát triển và việc cung ứng vào hoạt động thanh toán của Ngân hàng là cần thiết, do đó Ngân hàng đã chuyển từ qui trình thanh toán thủ công sang chế độ thanh toán điện tử.
Nhìn chung doanh số thanh toán trong năm 2002 tăng lên so với năm 2001 cụ thể cho thấy tổng doanh số thanh toán năm 2001 là 11.670.748 triệu đồng và năm 2002 doanh số là 5.049.320 triệu đồng chiếm 42% tổng doanh số thanh toán giảm so với năm 2001 là 202.517 triệu đồng, trong khi đó thì phương thức thanh toán điện tử năm 2002 là 6.872.012 triệu đồng tăng hơn so với năm 2001 là 453.101 triệu đồng. Qua số liệu này ta thấy tổng doanh số thanh toán tăng, thanh toán bù trừ lại giảm và thanh toán điện tử tăng chiếm tỉ trọng cao. Sở dĩ có sự chênh lệch giữa thanh toán bù trừ và thanh toán điện tử như vậy không phải do tính ưu việt của phương thức này hay phương thức khác mà chủ yếu là để phù hợp với tình hình thanh toán và tính chất của mỗi món thanh toán, nếu thanh toán trong thành phố thì sử dụng phương thức thanh toán bù trừ. Hơn nữa hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội để tạo điều kiện thanh toán nhanh, tiện lợi cho khách hàng nên mọi khoản tiền khách hàng chuyển đi khác tỉnh, thành phố trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống nhưng trên địa bàn chuyển đến có Chi nhánh Ngân hàng đầu tư thì đều được chuyển tiền bằng điện tử, sau đó nếu như khác hệ thống với Ngân hàng Đầu tư thì sẽ đi bù trừ tiếp trên địa bàn đó.
Ví dụ: Nếu như khách hàng muốn chuyển tiền từ Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội xuống cho người có tài khoản tại Ngân hàng Công thương Hải phòng thì sẽ chuyển như sau: Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội sẽ chuyển tiền bằng phương thức chuyển tiền điện tử xuống Ngân hàng đầu tư và phát triển Hải Phòng, sau đó tới phiên bù trừ thì Ngân hàng đầu tư và phát triển Hải phòng đi bù trừ với Ngân hàng Công thương Hải Phòng.
Mặc dù không thể khẳng định được thanh toán bằng phương thức thanh toán nào là ưu việt nhất, nhưng qua thực tế cho chúng ta thấy ở mỗi phương thức thanh toán đều có những ưu nhược điểm khác nhau.
Thanh toán bù trừ là phương thức thanh toán giữa các Ngân hàng, Tổ chức tín dụng trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố. Do qui định phiên giao dịch bù trừ, thành viên tham gia thanh toán, phạm vi các đơn vị thanh toán nên nếu chứng từ về ngoài giờ của phiên giao dịch thì phải chờ đến phiên giao dịch sau mới được giải quyết. Nên trong thanh toán bù trừ vẫn còn một số hạn chế đòi hỏi Ngân hàng phải có những giải pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế đó để phù hợp với tình hình thanh toán chung.
Thanh toán điện tử là phương thức thanh toán mới thể hiện những nét cơ bản cần có trong thanh toán như thanh toán đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và chính xác. Nhưng bên cạnh đó còn tồn tại những hạn chế nhất định, qui trình thanh toán đòi hỏi phải thống nhất chặt chẽ trong cùng hệ thống, vì nếu chỉ một đơn vị thanh toán không thực hiện đối chiếu trong ngày được thì tất cả các đơn vị trong cùng hệ thống phải ngừng thanh toán.
Phương thức thanh toán nào cũng có những ưu điểm và những hạn chế nhất định, nếu như Ngân hàng có những biện pháp cụ thể để khắc phục những tồn tại, phát huy tính ưu việt của mỗi phương thức sẽ tạo đà cho thanh toán không dùng tiền mặt phát triển hơn.
4. Những tồn tại và nguyên nhân trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Qua tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội cũng như xem xét về công tác thanh toán không dùng tiền mặt ta luôn thấy có sự tăng trưởng một cách hợp lý, năm sau cao hơn năm trước, và năm 2002 doanh số thanh toán không dùng tiền mặt chiếm 78% tổng doanh số thanh toán chung của Ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn còn một cản trở trong công tác mở rộng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Đánh giá những tồn tại trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt thể hiện ở một số điểm sau:
- Cơ sở pháp lý về thanh toán không dùng tiền mặt tuy đã có nhưng vẫn còn hạn chế và chưa đồng bộ. Về qui chế phát hành và sử dụng thẻ vẫn chưa có các văn bản mang tính chất pháp lý chính thức, có nhiều nghị định, quyết định, thông tư nhưng đây là vấn đề còn phải bàn thêm.
- Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như séc, thư tín dụng… vẫn còn nhiều phức tạp trong thủ tục lập và thanh toán… nên tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội vẫn chưa được sử dụng nhiều hình thức này. Ngoài ra do thu nhập của cá nhân ở nước ta còn thấp, các nguồn thu không đồng đều, không chính thức nên số lượng cá nhân mở tài khoản tuy có tăng nhưng không đáng kể, chủ yếu là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở tài khoản tại f để thanh toán. Số tài khoản cá nhân tuy được mở tại Ngân hàng nhưng họ thường sử dụng nó như quyển sổ tiết kiệm không kỳ hạn dùng để rút tiền mặt ra để mua bán do vậy cũng không phát huy được vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt qua tài khoản cá nhân.
Mặt khác do việc duy trì quá lâu hình thức thanh toán cũ cũng chính là một yếu tố làm cản trở các hình thức khác phát triển và làm giảm doanh số thanh toán không dùng tiền mặt dẫn đến doanh số thanh toán chung cũng bị ảnh hưởng.
- Một số hình thức thanh toán mới ra đời nhưng chưa được áp dụng phổ biến và rộng rãi. Nhìn chung các thể thức thanh toán phổ biến ở nước ta hiện nay vẫn là các hình thức thanh toán truyền thống, khách hàng chưa có thói quen sử dụng các hình thức thanh toán hiện đại. Một phần do trình độ hiểu biết của khách hàng còn hạn chế nên việc tiếp cận và sử dụng các công cụ thanh toán mới còn chưa được phát triển.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời phục vụ tốt nhu cầu thanh toán của khách hàng, ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội nói riêng phải không ngừng nâng cao chế độ thanh toán không dùng tiền mặt, kỹ thuật thanh toán hiện đại cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế trong giai đoạn tới.
Trong điều kiện hiện nay, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt diễn ra khá nhiều, kèm theo các giao dịch về tiền mặt là chi phí in ấn vận chuyển, kiểm đếm… gây nên chi phí lớn cho Ngân hàng. Trong khi nước ta đang trong thời kỳ thiếu vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vấn đề đặt ra cho Ngân hàng là phải thu hút tối đa lượng tiền nhàn rỗi đang trôi nổi ngoài lưu thông. Để làm được những điều đó thì Ngân hàng cần phải mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt, giảm thiểu số lượng tiền mặt giao dịch từ đó tận dụng tối đa nguồn vốn trong thanh toán phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, cùng với quá trình phát triển đó thì Ngân hàng phải có những bước tiến mới cho phù hợp. Bên cạnh những khách hàng truyền thống của Ngân hàng là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân mở tài khoản, gửi tiền trong thời gian gần đây Ngân hàng đã hướng tới thu hút khách hàng bằng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư, thử nghiệm một số công cụ thanh toán hiện đại.
Bên cạnh những công cụ truyền thống thì việc tiếp tục triển khai thực hiện mở tài khoản cá nhân. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam và trên thực tế cho thấy rằng: Nguồn vốn nhàn rỗi có thể khai thác được trong dân cư còn khá tiềm tàng và lâu dài. Mở tài khoản cá nhân sẽ tạo điều kiện cho việc thanh toán không dùng tiền mặt, áp dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, áp dụng các công cụ thanh toán hiện đại. Bên cạnh đó thì phát triển tài khoản cá nhân sẽ làm tăng khả năng thu nạp vốn nhàn rỗi trong tầng lớp dân cư. Tuy nhiên việc chuyển đổi nhận thức từ thói quen lâu nay dân chúng chỉ thích sử dụng tiền mặt làm công cụ thanh toán, việc mở tài khoản cá nhân để giao dịch, thanh toán tại Ngân hàng bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, nhất thiết phải có thời gian để dân cư tiếp cận, làm quen dần và thấy được những tiện ích mới do thanh toán không dùng tiền mặt mang lại như an toàn, nhanh chóng, thuận lợi… Vì vậy, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội cần có biện pháp khuyến khích mọi người mở tài khoản cá nhân tại Ngân hàng để tập hợp những khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư. Tạo lập thói quen sử dụng dịch vụ Ngân hàng trong hoạt động giao dịch, mua bán thanh toán, thu hút khách hàng và nâng cao uy tín của chi nhánh Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng phải hoàn thiện các hình thức thanh toán cho phù hợp như séc, thẻ… để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế. Phát triển hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng, công nghệ thanh toán đã trở thành định hướng chiến lược chung, với sự tiếp cận ban đầu đã đạt được nhiều thành tích đáng trân trọng, đang được tiếp tục cụ thể hóa bằng các chương trình có khả năng thực thi theo kinh nghiệm của quốc tế. Ngày nay với việc dần dần hoàn thiện và đưa vào sử dụng rộng rãi các chương trình thanh toán mới kết hợp với công nghệ tin học đã đem lại khá nhiều thành công trong công tác thanh toán. Từ đó phát triển mạnh mẽ các dịch vụ Ngân hàng hiện đại phục vụ các tầng lớp dân cư.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Trong những năm gần đây, công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Cùng với việc đưa các hình thức thanh toán mới vào thực nghiệm như séc cá nhân, thẻ thanh toán… thì Ngân hàng còn chú trọng đến việc hoàn thiện và phát triển các hình thức thanh toán truyền thống. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt đang được tiếp tục phát huy và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Để đổi mới và hoàn thiện hơn nữa các hình thức thanh toán, khắc phục những tồn tại trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần mở rộng và hoàn thiện thêm hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng.
1. Đào tạo cán bộ
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước nói chung và của hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói riêng. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, vai trò của cán bộ Ngân hàng càng có ý nghĩa quan trọng. Khác với hoạt động khác thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đối tượng kinh doanh chủ yếu là tiền tệ.
Kiến thức hiểu biết của cán bộ Ngân hàng về hệ thống thanh toán hiện đại vẫn còn nhiều hạn chế, vì ngoại trừ một số Ngân hàng mới thành lập như Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần,.. thì họ tuyển dụng đội ngũ cán bộ trẻ, còn đại đa số các kế toán viên tại Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn là kế toán cũ chưa nắm bắt được công nghệ tin học hiện đại trên thế giới. Trước tình hình đó Ngân hàng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng nhiệm vụ chung của toàn ngành, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, phấn đấu trong thời gian tới có đội ngũ cán bộ vừa có tâm với nghề nghiệp vừa có trình độ hiểu biết nghiệp vụ để tiếp cận với công nghệ thanh toán hiện đại. Muốn vậy thì trước hết Ngân hàng cần phải thực hiện chính sách tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và sử dụng bố trí nhân lực đủ về số lượng và đảm bảo trình độ để đáp ứng nhiệm vụ cụ thể trong tình hình mới. Đảm bảo việc bố trí, sắp xếp nhân lực theo hướng phát huy tốt năng lực sở trường của từng cán bộ, đúng trình độ.
Có chính sách khuyến khích cán bộ tự liên hệ đào tạo, tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ yên tâm công tác thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao, tác phong giao dịch với khách hàng khoa học lịch sự.
2. Giải pháp về séc
Hiện nay về phương diện thanh toán thì chúng ta mới chỉ có các văn bản cao nhất là Nghị định 64/2001/NĐ-CP ban hành ngày 20/9/2001 của chính phủ về hoạt động thanh toán qua các hình thức cung ứng dịch vụ thanh toán và quyết định số 22-QĐ/NH ngày 21/2/1994 của Thống đốc Ngân hàng ban hành “thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt”. Nước ta hiện nay đang cùng hòa nhập với kinh tế khu vực và thế giới thì việc ban hành một luật séc mới cho phù hợp với luật séc kinh tế là điều cần thiết. Tuy nhiên việc ban hành phải có thời gian mà trước mắt cần phải thực hiện tốt và không ngừng cung cấp thêm các sản phẩm dịch vụ mới cho nền kinh tế. Để séc được sử dụng một cách rộng rãi và phổ biến trong nhân dân theo em cần phải nhanh chóng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và phổ biến rộng rãi.
Ngân hàng nên nghiên cứu để đề xuất sửa đổi lại qui định về thời hạn hiệu lực thanh toán của séc cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Vì hiện nay theo như qui định thì Ngân hàng không nhận bất kì tờ séc nào nộp quá thời hạn nếu không có giấy xác nhận lý do nộp trễ của Uỷ ban nhân dân ký xác nhận. Điều này gây rất nhiều phiền hà cho những người có liên quan đến séc và người phát hành séc.
3. Tiếp tục triển khai chủ trương mở và sử dụng tài khoản cá nhân.
Hiện nay, tại Ngân hàng thì việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân tuy có tăng nhưng không đáng kể, qua đó Ngân hàng cần có biện pháp kích thích mở tài khoản cá nhân và phải tuyên truyền quảng cáo và hướng dẫn cụ thể để họ biết được tiện ích của việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân. Mở và sử dụng tài khoản tại Ngân hàng đảm bảo độ an toàn về vốn và không gây lãng phí vốn đối với cá nhân và doanh nghiệp mà còn đem lại lợi nhuận và đáp ứng một phần vốn cho nền kinh tế, về phía Ngân hàng tập trung được mọi nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay, tăng sản xuất và đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết khác của xã hội, ngoài ra còn làm cho doanh số thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng một cách hợp lý.
4. Cải tiến các phương tiện thanh toán.
Trong hệ thống Ngân hàng các Ngân hàng cạnh tranh với nhau bằng các dịch vụ, phương tiện thanh toán và sự vận dụng một cách linh hoạt kịp thời các phương tiện thanh toán đó. Tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thì hình thức thanh toán thẻ có tồn tại nhưng doanh số và nhu cầu chưa cao. Hiện tại, Ngân hàng đang làm đại lý thanh toán cho Master, Visa, JCB… trong năm tới sẽ thực hiện thanh toán cho séc du lịch của hãng American Express. Để phát triển hơn nữa các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thì Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội nên đưa dịch vụ thẻ thanh toán vào, thẻ thanh toán đang được thịnh hành ở nhiều nước kể cả những nước đang phát triển.
Khi sử dụng thẻ thanh toán sẽ giúp loại bỏ được một khối lượng tiền mặt lưu chuyển trực tiếp trong lưu thông và lợi ích đối với người sử dụng thẻ là tiện lợi, gọn nhẹ, an toàn tiết kiệm, nhanh chóng. Gửi tiền vào một nơi rút tiền mặt ra ở một nơi khác thông qua hệ thống máy rút tiền tự động, vừa đơn giản, an toàn mà chi phí thấp hơn so với việc phải mang theo tiền mặt.
Trong điều kiện hiện nay có nhiều lý do làm cho việc mở rộng hình thức thanh toán thẻ gặp nhiều khó khăn và hạn chế, rất đông quần chúng vẫn còn mang tập quán quen sử dụng tiền mặt, chưa quen với việc sử dụng tài khoản cá nhân và các phương tiện thanh toán hiện đại qua Ngân hàng, hơn nữa mạng lưới máy đọc thẻ và máy rút tiền còn quá ít.
Để phát triển mạng lưới thanh toán thẻ, cần phải có nhiều biện pháp từ nhiều phía, trước hết phải trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật để phù hợp với hình thức thanh toán mới. Hiện nay, số lượng Ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán bằng thẻ chiếm tỉ lệ rất nhỏ, số lượng các điểm chấp nhận thẻ cũng như máy rút tiền tự động còn quá ít. Do thực tế như vậy nên các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng cần phải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng ngay từ đầu để phục vụ cho các giao dịch bằng thẻ trong nước.
Ngoài cơ sở vật chất ban đầu thì công tác tuyên truyền quảng cáo cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống thanh toán thẻ. Cho đến nay, chỉ có một số lượng ít người hiểu sơ lược về thẻ thanh toán nhưng cũng chỉ ở mức độ khái niệm. Vì vậy làm sao cho tất cả mọi người đều hiểu được sự tiện lợi của hình thức thanh toán bằng thẻ thay vì lâu nay họ quen sử dụng tiền mặt hay hình thức thanh toán khác. Muốn làm được điều này thì Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại nên có chủ trương tổ chức các cuộc hội thảo, tuyên truyền mạnh mẽ về hình thức thanh toán này cho mọi người biết và sử dụng nó.
Hiện nay Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đang sử dụng máy rút tiền tự động nhưng mới chỉ sử dụng trong nội bộ Ngân hàng. Ngân hàng nên triển khai rộng rãi đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân sử dụng nhằm thu hút khách hàng tăng doanh số thanh toán.
5. Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng.
Hệ thống dịch vụ Ngân hàng đa dạng phong phú làm cho Ngân hàng thu hút ngày càng nhiều khách hàng, tạo nên thế cạnh tranh của Ngân hàng.
Đây là một công cụ cạnh tranh không có giới hạn. Đối với Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội doanh thu từ hoạt động này tuy còn khiêm tốn nhưng khẳng định được sự đổi mới phong cách hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Để hoạt động dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng, tăng doanh thu cho Ngân hàng, ngoài các dịch vụ đã được áp dụng thì Ngân hàng nên tiến hành thêm các dịch vụ như:
- Dịch vụ tư vấn thông tin, dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn pháp luật…
- Mở rộng thêm loại hình dịch vụ Ngân hàng tại nhà (Home Banking)
- Thị trường chứng khoán ra đời và đi vào hoạt động, thông qua thị trường chứng khoán sẽ đáp ứng được yêu cầu về vốn - vai trò của Ngân hàng rất quan trọng, Ngân hàng có thể tham gia các hoạt động phát hành, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian môi giới, trực tiếp đầu tư vào chứng khoán.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho dịch vụ nhận bảo quản và ký gửi sẽ phát triển trong tương lai không xa.
6. Giải pháp về hiện đại hóa công nghệ thanh toán.
Thanh toán chiếm một khối lượng lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, khách hàng đến với Ngân hàng với những yêu cầu và mong muốn khác nhau, dịch vụ của Ngân hàng chưa thể đáp ứng hết tất cả những mong muốn đó, nhưng nguyên tắc hoạt động đòi hỏi dịch vụ Ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu và thỏa mãn những mong muốn đó của khách hàng. Những đòi hỏi về nâng cao tốc độ xử lý và đảm bảo chính xác, nhanh chóng trong thanh toán, do vậy hiện đại hóa công nghệ thanh toán trong Ngân hàng đã trở thành cấp thiết trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai. Để có thể tiến tới hiện đại hóa công nghệ thanh toán và từng bước hòa nhập với hệ thống thanh toán theo thông lệ các nước trong khu vực và trên thế giới, nên tập trung vào những mặt chủ yếu sau:
- Bằng việc tập trung vốn để đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, tiến hành trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực thanh toán và đầu tư nâng cấp các chương trình cài đặt, xây dựng các chương trình phần mềm cho việc xử lý, nghiệp vụ thanh toán và bảo mật trong thanh toán, xác lập hệ thống thông tin hoàn chỉnh đồng bộ để phục vụ hoạt động kinh doanh, đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả và cung cấp thông tin kịp thời chính xác giúp cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động của Ngân hàng một cách tốt nhất.
- Tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ, đồng thời không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán của Ngân hàng theo nội dung và yêu cầu mới để có thể đảm nhiệm những nhiệm vụ mới, phù hợp với công nghệ thanh toán hiện đại tăng năng suất lao động.
Với việc áp dụng công nghệ cao trong thanh toán, chi nhánh sẽ ứng dụng tự động hóa để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hiệu quả và tiện ích nhất.
7. Công tác Marketing
Công tác Marketing có vai trò quyết định đến hiệu quả thanh toán và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Ngân hàng phải xác định thị trường hiện tại và thị trường tương lai cho các dịch vụ thanh toán.
- Xác định thị trường cụ thể để phục vụ và xác định được nhu cầu của khách hàng trên đoạn thị trường đó để Ngân hàng có biện pháp phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
- Quản lý các dịch vụ cũng như thuyết phục khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán để đạt lợi nhuận và kiểm soát được kết quả hoạt động của Ngân hàng khi thực hiện các dịch vụ thanh toán đó.
- Để thực hiện thành công Marketing trong Ngân hàng nói chung và dịch vụ thanh toán nói riêng, đòi hỏi tất cả nhân viên trong Ngân hàng cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia vào hoạt động này.
Tuy nhiên cũng cần phải có một bộ phận chuyên trách phân tích, tổng hợp để hoạt động Marketing của Ngân hàng đạt hiệu quả cao. Nghiệp vụ này phải được tiến hành đến từng khách hàng. Ngân hàng thực hiện nghiên cứu chu kỳ của khách hàng về nhu cầu dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác của Ngân hàng để nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Tiếp tục nghiên cứu chu kỳ sống của các sản phẩm dịch vụ do Ngân hàng cung cấp giúp công tác kế hoạch hóa sản phẩm, nghiên cứu phát triển sản phẩm dịch vụ thích hợp với từng giai đoạn phát triển để khai thác tốt nhất thị trường với hiệu quả cao nhất. Ngoài ra tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc bằng các tờ rơi để tuyên truyền quảng cáo gây ra sự chú ý và tăng uy tín của Chi nhánh. Có chiến lược khôi phục lại những khách hàng đã mất hoặc khách hàng tốt nhưng chưa thực sự gắn bó với Ngân hàng.
Thực hiện chính sách khách hàng để duy trì được khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng mới, thực hiện phân loại khách hàng để có các hình thức ưu đãi như về phí dịch vụ thanh toán, ưu đãi về lãi suất và các ưu đãi khác.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước là nơi ban hành chính sách tiền tệ quốc gia do đó cần có chính sách tiền tệ ổn định để người dân có thể yên tâm khi gửi tiền vào Ngân hàng và thực hiện các phương thức thanh toán.
Ngân hàng Nhà nước nên ban hành các quy chế qui định cụ thể về các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó nên qui định rõ hơn về hình thức thanh toán thẻ, nhằm đảm bảo hành lang pháp luật cao hơn, khả thi hơn và thống nhất giữa các Ngân hàng phát hành để hỗ trợ cho ngành Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thị trường thanh toán, giúp cho các nhu cầu có khả năng thanh toán được thực hiện trong một nền kinh tế đang hướng tới sự năng động và có hiệu quả.
Ngân hàng Nhà nước nên có các chính sách chế độ hợp lý đối với các Ngân hàng thương mại. Thực sự trong giai đoạn hiện nay các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau rất khốc liệt. Để có thể tồn tại và phát triển được thì các Ngân hàng thương mại phải cố gắng không ngừng trong chiến lược kinh doanh của mình. Ngân hàng Nhà nước là nơi ban hành các văn bản chế độ là cơ quan quản lý các Ngân hàng thương mại cần có các chính sách khen thưởng hoặc nới lỏng chế độ quản lý đối với các Ngân hàng thương mại giúp các Ngân hàng thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, có chính sách đào tạo cán bộ công nhân viên có năng lực triển vọng, cử cán bộ nghiệp vụ đi tham quan các Ngân hàng bạn trong khu vực và trên thế giới… để Ngân hàng có thể học hỏi và tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh và đặc biệt là sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt mà các nước khác đang áp dụng.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là cơ quan quản lý trực tiếp Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội. để giúp cho Chi nhánh ngày một phát triển, có kế hoạch kinh doanh hiệu quả xứng đáng là Ngân hàng thủ đô, tôi xin đưa ra một số ý kiến sau:
Trên cơ sở những nghị định quyết định thì Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nên sớm đưa ra những văn bản chế độ hướng dẫn cụ thể về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán của toàn hệ thống cũng như của Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cần hỗ trợ chi nhánh về cơ sở vật chất kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ Ngân hàng. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cũng nên tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm với các Ngân hàng trong và ngoài nước nhằm nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn và cập nhật kịp thời những thông tin, công nghệ hiện đại.
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội
Ngân hàng cần mở rộng hơn nữa quan hệ với khách hàng. Khách hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của Ngân hàng, nên việc mở rộng quan hệ giao dịch với khách hàng là một vấn đề Ngân hàng luôn phải quan tâm và thực hiện phương châm “Khách hàng là thượng đế” - “Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi”. Muốn làm tốt công tác này thì Ngân hàng nên bố trí đội ngũ cán bộ tiếp cận với khách hàng giao dịch để phổ biến, hướng dẫn họ tận tình chu đáo về các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt và những tiện ích do các phương tiện thanh toán này mang lại, dần dần xóa bỏ tâm lý ưa chuộng tiền mặt trong người dân và giúp họ tiếp cận, làm quen với các hình thức thanh toán mới.
Ngân hàng nên phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước để thúc đẩy sự chấp nhận các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt một cách rộng rãi trong dân chúng. Đồng thời đòi hỏi luật pháp phải chặt chẽ, cụ thể công bằng và bảo vệ được quyền lợi của khách hàng khi tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Về phía Ngân hàng nếu bị phát hiện làm sai sót hay vi phạm trong quá trình thanh toán ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng thì phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng hoặc nặng hơn thì chịu trách nhiệm trước pháp luật. Có như vậy mới tạo lập được niềm tin cho khách hàng, thu hút khách hàng đến với Ngân hàng.
Đối với khách hàng đến với Ngân hàng giao dịch, cán bộ Ngân hàng tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch, tiếp đón khách hàng niềm nở, chu đáo, nhiệt tình, tác phong nhanh nhẹn, khoa học làm cho khách hàng thấy hài lòng. Khi khách hàng đã tín nhiệm Ngân hàng thì chính khách hàng là người quảng cáo tuyên truyền tốt nhất và hiệu quả nhất cho Ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, em nhận thấy rằng công tác thanh toán qua Ngân hàng đặc biệt là công tác thanh toán không dùng tiền mặt đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Một hệ thống Ngân hàng hiện đại cung cấp những dịch vụ thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đổi mới hệ thống các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp có ý nghĩa to lớn đến đổi mới nền kinh tế đất nước.
Trong thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã áp dụng nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, đã tìm cho mình những giải pháp tích cực để cải tiến công tác thanh toán, nâng cao khả năng thích ứng với nhịp độ phát triển của nền kinh tế, đạt tới yêu cầu thanh toán thông suốt, nhanh chóng, chính xác thể hiện vai trò là trung tâm thanh toán của nền kinh tế.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, em đã hoàn thành đề tài “Thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội - thực trạng và giải pháp”. Vì điều kiện và kiến thức còn hạn chế do đó bài khóa luận còn nhiều thiếu sót nhất định, em xin chân thành cám ơn và mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng để bản khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội và cán bộ tại phòng Kế toán Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi và chỉ bảo em để em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn chu đáo và tận tình của thầy cô giáo đã giúp em có phương pháp nghiên cứu khoa học để em hoàn thành đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lý thuyết Kế toán Ngân hàng - Nguyễn Đức Long.
Hạch toán kế toán và xử lý thông tin trong hệ thống Ngân hàng - Vũ Thiện Thập.
Ngân hàng thương mại - Lê Văn Tư.
Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Quyết định 22 - QĐ/NH 1 ngày 21/2/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành “Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt”.
Luật các tổ chức tín dụng.
Luật Ngân hàng Nhà nước.
Tạp chí tiền tệ Ngân hàng.
Thời báo Ngân hàng.
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại - David cox.
Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic S. Mishkin.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 61.doc