PHẦN MỞ ĐẦU
Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trong 20 năm qua đã có nhiều bước cải cách quan trọng. Đến nay Việt Nam đã hình thành được một hệ thống chính sách thu ngân sách khá toàn diện, cơ bản phù hợp với cấu trúc hệ thống động viên ngân sách của một quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, diễn biến kinh tế- xã hội giai đoạn tới dự báo sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi, theo đó hệ thống chính sách thuế cũng cần có những điều chỉnh cho phù hợp.
1. Sự cần thiết của đề tài
Thuế là công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng của nhà nước. Các lý thuyết kinh tế và thực tiễn quản lý đã khẳng định rằng, nếu chính sách thuế không phù hợp sẽ có tác động ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế cũng như thu ngân sách nhà nước. Trường hợp, thuế thu cao - số thu ngân sách nhà nước trong ngắn hạn sẽ tăng nhanh, song cũng sẽ hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng, tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong dài hạn sẽ có xu huớng giảm sút, từ đó tác động ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác như giảm đầu tư, tăng thất nghiệp, mất cân đối cung cầu hàng hoá trong xã hội, tăng lạm phát . Do vậy, hệ thống chính sách thuế được ban hành trong các giai đoạn lịch sử khác nhau luôn đòi hỏi phải phù hợp và hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện các cân đối kinh tế vĩ mô, các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Nói cách khác, với mỗi sự biến động, sự thay đổi về kinh tế, về môi trường hay điều kiện phát triển kinh tế thì nhất thiết hệ thống chính sách thuế cũng phải được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp.
2. Mục đích của tiểu luận
Trên sơ sở thu thập, xử lý số liệu về thu NSNN; tổng hợp, phân tích thực tiễn cải cách chính sách thuế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1990 đến 2010; so sánh, đánh giá kết quả của việc thực hiện cải cách chính sách thuế; từ đó nhận định xu hướng và đề xuất các vấn đề cần phải tiếp tục cải cách chính sách thuế ở Việt Nam với mục đích là nhằm tạo ra một hệ thống thuế thống nhất, các sắc thuế hỗ trợ cho nhau trong quá trình thực hiện, hạn chế trùng lặp, tạo lập sự bình đẳng, không phân biệt đối xử về thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế với nhau, nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của người nộp thuế, góp phần tích cực vào cải cách công tác quản lý của nhà nước, thức đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu tiểu luận
Với thời gian và sự hiểu biết có hạn, chúng tôi giới hạn tập trung nghiên cứu thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010 trên cơ sở số liệu, thông tin thu thập được qua các tài liệu công bố công khai của Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê và dữ liệu online của IMF, OCED, Worldbank.
4. Nội dung tiểu luận
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, chúng tôi bố cục nội dung tiểu luận gồm bốn phần với các nội dung sau:
Phần mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
Phần nội dung
1. Tổng quan về thuế và cải cách thuế
1.1 Thuế và cơ cấu hệ thống thuế
1.2 Xu hướng cải cách thuế
1.3 Sự cần thiết cải cách thuế
1.4 Khó khăn, thử thách trong cải cách thuế
1.5 Yêu cầu cải cách thuế
1.6 Mục tiêu cải cách thuế
1.7 Nội dung cải cách thuế
2. Thực tiễn cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010
2.1 Cải cách thuế bước 1, giai đoạn 1990-1995
2.2 Cải cách thuế bước 2, giai đoạn 1996-2001
2.3 Cải cách thuế bước 3, giai đoạn 2002-2010
2.3.1 Đối với thuế thu nhập
2.3.2 Đối với thuế tiêu dùng
2.3.3 Đối với thủ tục hành chính thuế
3. Kết quả cải cách thuế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2010
3.1 Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu động viên NSNN
3.2 Nhận xét và đánh giá
4. Xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian tới
5. Một số đề xuất cải cách thuế ở Việt Nam trong thời gian tới
5.1 Vấn đề cần xem xét sửa đổi
5.2 Định hướng chung đề xuất
Phần kết luận
Phần tài liệu tham khảo
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2014 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực tiễn và xu hướng cải cách thuế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i thay đổi một cách căn bản và toàn diện phương thức quản lý một hệ thống thuế mới phù hợp hơn, có tính động và hiệu quả hơn. Giảm chi phí tuân thủ thuế cũng là một mục tiêu quan trọng. Do hệ thống thuế hiện nay quá phức tạp và rườm rà trong các thủ tục hành chính đã làm tăng các chi phí tuân thủ thuế của người nộp thuế.
Các doanh nghiệp hàng năm phải mất hàng nghìn giờ công cho các thủ tục liên quan đến thuế. Nếu nhân con số này với số doanh nghiệp nộp thuế sẽ thấy được một sự lãng phí ghê gớm về mặt nguồn lực mà nền kinh tế phải bỏ ra hàng năm. Bên cạnh đó, việc giảm chi phí quản lý thu thuế cũng là một đòi hỏi cần thiết. Một phần lý do chi phí này quá cao nằm ở hệ thống quản lý thuế quá cồng kềnh lại không hiệu quả, phần khác do sự suy giảm về sức thu trong một số sắc thuế. Yêu cầu của cải cách thuế không chỉ là tái cơ cấu lại nguồn thu như đã đề cập ở trên mà còn phải tái cơ cấu lại cách thức quản lý hệ thống hành thu của các cơ quan thuế trên cơ sở giảm chi phí và tăng hiệu quả quản lý thuế.
Những khó khăn, thử thách cải cách thuế ở Việt Nam
Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, có khả năng tài trợ nhu cầu chi cần thiết của chi tiêu công. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế đóng vai trò nhạy cảm đặc biệt. Như vậy, hệ thống thuế cần: (i) gia tăng đầy đủ nguồn thu để tài trợ nhu cầu chi tiêu cần thiết mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công; (ii) gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế; (iii) gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệnh hướng đáng kể những thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Với một nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam, việc thiết lập một hệ thống thuế có hiệu quả và hiệu lực gặp phải không ít những khó khăn nhất định:
- Một là, cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những khó khăn nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP; đối với khu vực tư nhân mặc dù sự đóng góp vào GDP ngày càng tăng, song phần lớn là những cơ sở kinh doanh nhỏ và ẩn nấp nhiều hoạt động phi chính thức, không ổn định. Tất cả những đặc điểm này làm giảm đi khả năng xây dựng một hệ thống thuế dựa vào những loại thuế hiện đại như thuế thu nhập và ở chừng mực nhất định là thuế VAT.
- Hai là, hạn chế về khả năng quản lý thuế. Một phần là do cơ cấu kinh tế, một phần là do nguồn lực cán bộ quản lý thuế yếu kém, tiền lương thấp đã tạo ra rất nhiều khó khăn để tiến đến thiết lập một hệ thống quản lý thuế tốt.
- Ba là, hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công tác quản lý thuế. Sự trỗi dậy của khu vực tư nhân trong phát triển kinh tế là đáng ghi nhận, nhưng do quy mô hoạt động của khu vực này còn nhỏ và phân tán cho nên những yêu cầu về báo cáo thống kê không được thiết lập một cách có hệ thống. Hơn nữa do những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế và thống kê có gặp phải nhiều khó khăn trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu thống kê một cách chi tiết và đáng tin cậy. Thiếu số liệu tin cậy và cung cấp không kịp thời làm cho những người ra quyết định chính sách gặp phải nhiều khó khăn trong việc đánh giá sự ảnh hưởng tiềm năng của những thay đổi cơ bản đến hệ thống thuế hiện hành.
Những thử thách của việc cải cách chính sách thuế:
- Thử thách về nguồn thu: Sự hội nhập vào kinh tế thế giới yêu cầu phải gia tăng nguồn thu thuế để Nhà nước đảm nhận vai trò như chính phủ của các nền công nghiệp phát triển. Nhưng làm thế nào gia tăng được nguồn thu, đặc biệt là gia tăng nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân và không làm giảm đi những động lực kinh tế trong khi nền kinh tế sẽ phải giảm đi nhiều sự dựa vào nguồn thu thuế từ các hoạt động thương mại quốc tế. Để vượt qua những thử thách này, đòi hỏi những người ra quyết định chính sách phải đưa ra các ưu tiên chính sách đúng đắn và phải có cam kết chính trị để thực hiện cải cách cần thiết.
- Thử thách về quản lý thuế: Với sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu, hàng rào thương mại bị tháo dỡ và sự di chuyển vốn quốc tế gia tăng trong khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế và nguồn thu của nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc nhiều vào thuế thương mại quốc tế. Sự thay thế thuế thương mại quốc tế bằng hệ thống thuế nội địa và đi kèm theo đó là những chuyển hướng lợi nhuận thông qua các hoạt động chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngoài đó là những thử thách rất lớn trong quá cải cách thuế của Việt Nam. Hiện tại những điều khoản chống lạm dụng thuế trong các đạo luật thuế cũng như sự đào tạo kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ kiểm toán thuế ở Việt Nam nói chung là chưa đủ để ngăn chặn và phát hiện những thực tế như vậy.
- Về hiệu quả kinh tế và cạnh tranh thuế: Sự cạnh tranh thuế trong quá trình thu hút vốn là một thử thách không nhỏ trong bối cảnh vốn tự do chu chuyển. Nhận thức được sức ép này Việt Nam cũng sẽ tăng cường mở rộng phạm vi khuyến khích thuế để cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính điều này sẽ làm cho chính sách thuế trở nên phức tạp, không trung lập do có nhiều trường hợp miễn giảm. Một hệ thống thuế với nhiều điều khoản khuyến khích sẽ tạo ra nhiều kẽ hở và đó là mảnh đất màu mỡ cho những hoạt động trốn thuế. Hơn nữa, những khuyến khích của thuế mà thiếu đi những nền tảng hỗ trợ cần thiết khác thì hiệu lực của nó không cao. Điều quan trọng ở đây, cần phải giới hạn mục tiêu của thuế và giới hạn sự khuyến khích của thuế, đồng thời phải kết hợp với nhiều công cụ kinh tế để cạnh tranh và thu hút vốn .
Yêu cầu của cải cách thuế ở Việt Nam
- Cải cách hệ thống thuế phải phù hợp với chương trình, nội dung cải cách hệ thống thuế đã được phê duyệt trong chiến lược cải cách thuế của từng giai đoạn. Cải cách chính sách thuế cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế “…Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của Nhà nước.” (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX – Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010).
- Chính sách động viên của thuế cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không phải thế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực.
Đối với một quốc gia, mức thu của thuế bao nhiêu là hợp lý. Thật ra cho đến nay, lý thuyết thuế tối ưu cung cấp rất ít hướng dẫn thực tế để xác định mức thuế hợp lý cho một quốc gia. Nhưng thay vào đó, bằng những phương pháp thống kê, các nhà kinh tế tiến hành phân tích các dữ liệu và so sánh mức thuế của một quốc gia cụ thể với gánh nặng thuế trung bình của một số nhóm đại diện các quốc gia phát triển và đang phát triển, đồng thời quan tâm đến một vài tham số kinh tế – xã hội giống nhau và khác nhau của những quốc gia này. Kết quả là hầu hết các dữ liệu cho thấy mức thuế của các quốc OECD gấp đôi các nước đang phát triển.
- Chính sách phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời, chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới để quản lý nguồn thu và năng cao vai trò điều tiết: như thuế tài sản, thuế môi trường.
Cơ cấu của hệ thống thuế phải có những thay đổi thích hợp cho phù với sự phát triển kinh tế. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc quốc tế sẽ giảm dần, thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Đồng thời thuế GTGT cần được tăng cường và kết hợp với thuế TTĐB để điều tiết sản xuất - tiêu dùng và đảm trách tốt vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.
- Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan trọng nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhu cầu tích tụ vốn để phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì vậy, chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN.
- Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế Việt Nam phải có sự tương đồng với quốc tế về một số loại thuế có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
Mục tiêu của cải cách thuế ở Việt Nam
Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 (được Bộ Chính trị thông qua và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 201/2004/QĐ-TTg ngày 6-12-2004) là một chiến lược cải cách sâu rộng và đồng bộ, khắc phục những mặt hạn chế trong công tác quản lý thuế. Đồng thời, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện thắng lợi hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục tiêu tổng quát của cải cách hệ thống thuế của Việt Nam là: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời với hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân của Đảng và Nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội.
Một là: Chính sách thuế, phí phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, vừa động viên được các nguồn lực đồng thời thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất; khuyến khích xuất khẩu; khuyến khích đầu tư; khuyến khích đổi mới công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Hai là: Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào NSNN, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích lũy phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện tỷ lệ động viên thuế và phí vào NSNN bình quân hàng năm đạt 20-21% GDP. Trong cơ cấu thu ngân sách, thuế gián thu vẫn chiếm tỷ trọng lớn (năm 2001 là 41,4%, năm 2010 khoảng 56,6%). Thuế gián thu tăng chủ yếu là do tăng trưởng chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; Thuế trực thu tăng nhưng thấp hơn thuế gián thu (2001 là 21,6%, năm 2010 là 24,4%) do hiệu quả nền kinh tế chưa cao. Mặt khác, Nhà nước vẫn cần tiếp tục miễn, giảm thuế TNDN để khuyến khích đầu tư, khuyến khích những ngành, nghề, lĩnh vực và các địa bàn kém phát triển, có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tỷ trọng các loại phí tăng nhưng không nhiều (năm 2001 là 7,1%, năm 2010 khoảng 8,2%) do sắp xếp lại các khoản phí, lệ phí và xoá bỏ các khoản phí, lệ phí không phù hợp. Các nguồn thu khác giảm do thực hiện chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp để khoan sức dân, tạo điều kiện phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Không thu sử dụng vốn NSNN để doanh nghiệp Nhà nước có thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Ba là: Chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
Bốn là: Chính sách thuế phải từng bước tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. Áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau.
Năm là: Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế; nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong quản lý thuế; kiện toàn bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh.
1.7 Nội dung của cải cách thuế ở Việt Nam
Cải cách thuế trong giai đoạn hiện nay là ban hành một số chính sách thuế mới và tiếp tục bổ sung, sửa đổi các chính sách thuế hiện hành. Các sắc thuế mới sẽ được nghiên cứu ban hành là: Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử, thuế nhà đất, thuế tài sản. Các sắc thuế sẽ được sửa đổi, bổ sung là những sắc thuế hiện hành, bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
THỰC TIỄN CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990-2010
Kể từ đầu thập niên 1990, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã trải qua nhiều bước phát triển khác nhau. Trong giai đoạn 2001-2010, kế thừa kết quả của các giai đoạn cải cách trước đó (Cải cách thuế bước 1 từ năm 19990-1995 và Cải cách thuế bước 2 từ năm 1996-2000), hệ thống chính sách thuế của Việt Nam tiếp tục được đổi mới trên nhiều phương diện. Việc thực hiện cải cách trong giai đoạn này được gắn với các mục tiêu và yêu cầu xác định trong Chương trình cải cách thuế đến năm 2010 đã được phê duyệt, theo đó, nội dung nhiều sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế liên tục được hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung. Những sửa đổi này cùng với các biện pháp cải cách về chính sách vĩ mô và về thể chế đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình cải cách hệ thống chính sách thuế Việt Nam về cơ bản đã tuân thủ theo các nguyên tắc chung về cải cách thuế đã được thừa nhận qua thực tiễn cải cách ở nhiều nước trên thế giới, đó là thực hiện mở rộng cơ sở tính thuế, giảm thuế suất và đơn giản hóa phương thức tính thuế, kê khai thuế và nộp thuế.
Trong quá trình này, từng sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế đã được cải cách khá đồng bộ, trong đó đáng chú ý là các biện pháp cải cách về chính sách thuế thu nhập, chính sách thuế tiêu dùng.
Cải cách thuế bước 1, giai đoạn 1990-1996
Yêu cầu đặt ra đối với cải cách thuế bước 1 là: hình thành một hệ thống thuế thống nhất, áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế; hệ thống thuế mới đảm bảo huy động các nguồn thu chủ yếu đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước; hệ thống thuế phải kích thích phát triển kinh tế; chính sách thuế thực hiện công bằng, đối xử bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế; Tăng cường tính luật hóa của thuế nhằm đảm bảo tính thống nhất của chính sách thuế; Hệ thống thuế phải giản đơn, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra và phải phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
Với các yêu cầu nêu trên, từ năm 1991 đến 1996, Việt Nam đã ban hành nhiều sắc thuế dưới hình thức luật và pháp lệnh, hình thành nên một hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh về chức năng và áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế.
Tuy nhiên cải cách thuế bước 1 vẫn còn nhiều bất cập, điển hình nhất là hệ thống thuế quá chồng chéo, trùng lắp và phức tạp.
Cải cách thuế bước 2, giai đoạn 1997-2001
Mục tiêu cơ bản của giai đoạn này là: Cải cách thuế không được làm giảm nguồn thu của ngân sách nhà nước; hệ thống thuế phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa; hệ thống thuế từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế; hệ thống thuế phải đơn giản và minh bạch.
Điểm nhấn quan trọng trong cải cách thuế bước 2 là sự ra đời của thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trải qua hai bước cải cách thuế từ năm 1990-2001, hệ thống chính sách thuế Việt Nam đã có tính hệ thống và pháp lý cao. Hệ thống thuế đã đáp ứng cơ bản những nguyên tắc của lý thuyết thuế chuẩn tắc: tính hiệu quả và nguồn thu của NSNN, tính công bằng và tính hội nhập quốc tế. Hệ thống thuế đã góp phần thúc đấy kinh tế phát triển: khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất hàng hóa trong nước và cơ cấu lại nền kinh tế.
Tuy vậy về cơ bản hệ thống thuế vẫn chưa khắc phục những nhược điểm cơ bản của hệ thống thuế được tổng kết khi kết thúc cải cách bước 1. Hệ thống thuế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Thứ nhất là về cơ cấu hệ thống thuế còn nhiều bất cập. Hệ thống nguồn thu NSNN lệ thuộc nhiều vào thuế xuất nhập khẩu và bán dầu thô. Nguồn thu nghiêng hẳn về thuế gián thu. Hệ thống thuế chưa tiên liệu đầy đủ những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai là hệ thống thuế vẫn còn kém hiệu quả: tỷ lệ thuế cận biên thuế thu nhập doanh nghiệp còn cao; mức thuế lũy tiến cận biên của thuế thu nhập cá nhân cao; các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng dẫn tới việc không mang lại hiệu quả về chi phí, không thu được tỷ suất lợi nhuận cao, khuyến khích các doanh nghiệp có xu hướng chia nhỏ hay chuyển đổi thành nhiều doanh nghiệp nhỏ.
Thứ ba là hệ thống thuế còn có những quy định phức tạp và tính đa mục tiêu của hệ thống thuế.
Thứ tư là tình trạng trốn thế và tránh thuế chưa thể giải quyết một cách triệt để.
Cải cách thuế bước 3, giai đoạn từ năm 2002-2010
Sự thành công của các lần cải cách chính sách thuế trong thời gian trước đã giúp Việt Nam có nhiều kinh nghiệm, tuy nhiên cũng không ít khó khăn trong cải cách thuế bước 3, đó là: cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế, đánh thuế có những khó khăn nhất định; khả năng thu thuế còn nhiều hạn chế; hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
Cải cách hệ thống thuế bước 3 được tiến hành trong bối cảnh nền kinh tế đang bước vào giai đoạn quan trọng của hội nhập quốc tế. Yêu cầu trọng tâm của cải cách thuế bước 3 là hướng vào mục tiêu và quan điểm sau: Hệ thống thuế phải góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống thuế góp phần mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhận; nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế. Thuế phải phát huy chức năng là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả.
Đến năm 2010, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã có các sắc thuế sau: Thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế xuất nhập khẩu, thuế TNDN, thuế TNCN, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế bảo vệ môi trường, pháp lệnh thuế sử dụng đất nông nghiệp.
2. 3.1 Đối với Thuế Thu nhập
Trong chính sách thuế thu nhập, cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đều đã được sửa đổi căn bản. Cụ thể, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), Việt Nam đã thực hiện từng bước việc giảm dần mức thuế suất phổ thông từ 32% xuống 28% và từ 1/1/2009 là 25% và được áp dụng thống nhất đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bỏ thuế thu nhập bổ sung và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đồng thời, chính sách ưu đãi thuế TNDN cũng được cải cách theo hướng đơn giản hơn. Các chính sách ưu đãi không phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã được xóa bỏ.
Nhìn chung, những điều chỉnh về chính sách thuế TNDN của Việt Nam nằm trong xu hướng cải cách thuế trên thế giới thời gian qua khi mà việc giảm thuế suất, đơn giản hóa chính sách thuế TNDN đã trở thành một trào lưu chung được nhiều quốc gia thực hiện.
Năm 2000 đến nay, Úc đã giảm mức thuế suất thuế TNDN từ 34% xuống 30%, ở Đức từ 50% xuống 29%. Nhiều nước trong khu vực Châu Á cũng đã thực hiện việc điều chỉnh giảm thuế suất thuế TNDN. Cụ thể năm 2009, Hàn Quốc đã giảm thuế suất thuế thuế TNDN từ 25% xuống 22%. Singapore cũng đã thực hiện giảm dần từng bước mức thuế suất thuế TNDN, từ mức 26% năm 2000 xuống 18% năm 2009 và từ năm 2010 giảm tiếp xuống 17%. Từ năm 2008, Trung Quốc cũng giảm thuế suất thuế TNDN đối với các doanh nghiệp trong nước từ 33% xuống 25% và áp dụng thống nhất.
Hình 1. Diễn biến điều chỉnh thuế suất Thuế TNDN của một số nước (Nguồn : OECD 2010)
Đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN): Việt Nam cũng đã từng bước giảm dần mức thuế suất lũy tiến cao nhất trong biểu thuế, từ 50% xuống 40% và từ 10/10/2009 xuống còn 35% và giảm mức thuế suất khởi điểm từ 10% xuống 5%, áp dụng thống nhất với người Việt Nam và người nước ngoài. Đồng thời, phạm vi thu nhập chịu thuế cũng đã được mở rộng hơn, bao quát hơn so với trước.
Tương tự như thuế TNDN, những điều chỉnh về thuế TNCN của Việt Nam cơ bản cũng phù hợp xu hướng chung về cải cách thuế TNCN hiện nay. Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới cũng đã thực hiện giảm dần mức thuế suất lũy tiến cao nhất trong biểu thuế TNCN của mình, nhất là các nước phát triển. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng nói trên là tác động của quá trình toàn cầu hóa, các rào cản đối với sự di chuyển của vốn và lao động từng bước được dỡ bỏ. Nhiều nước đã sử dụng chính sách thuế thu nhập như là một công cụ để thu hút vốn và nguồn lao động có chất lượng cao từ bên ngoài. Cạnh tranh thuế quốc tế giữa các nước cũng được xem là một nhân tố quan trọng khác dẫn đến các điều chỉnh về chính sách thuế TNDN và TNCN.
Hình 2. Mức thuế suất thuế TNCN cao nhất trong biểu thuế TNCN ở một số nước (Nguồn OECD năm 2010).
2.3.2 Đối với thuế tiêu dùng
Trong giai đoạn 2001- 2010, Việt Nam đã thực hiện sửa đổi khá nhiều nội dung của thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB).
Về thuế GTGT, đã thực hiện thu hẹp một bước số lượng nhóm hàng hóa và dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, xóa bỏ mức thuế suất 20%.
Đối với thuế TTĐB đã bổ sung thêm 3 nhóm hàng hóa vào diện chịu thuế và điều chỉnh mức thuế suất đối với một số nhóm mặt hàng. Ngoài ra, các quy định có tính chất phân biệt đối xử áp dụng trước đây theo hướng có lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước không phù hợp các quy định của thương mại quốc tế đã được xóa bỏ hoàn toàn, ví dụ như quy định giảm thuế suất thuế TTĐB cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước, quy định phân biệt về thuế suất thuế TTĐB giữa thuốc lá điếu sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu với nguyên liệu sản xuất trong nước. Chính sách về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng đã được sửa đổi khá toàn diện vào năm 2005. Việc sửa đổi nhìn chung hướng tới việc thực hiện các cam kết quốc tế, khắc phục những bất cập, hạn chế của chính sách thuế xuất nhập khẩu trước đó và đảm bảo tính đồng bộ với các chính sách thuế khác trong hệ thống thuế.
Chính sách thuế tài nguyên cũng đã có những điều chỉnh. Với việc ban hành Luật thuế tài nguyên năm 2009, danh mục hàng hóa chịu thuế tài nguyên đã được mở rộng hơn, đồng thời đã thực hiện điều chỉnh tăng khung thuế suất áp dụng đối với nhiều nhóm tài nguyên. Những điều chỉnh này được xem là bước đi cần thiết để tăng mức điều tiết đối với hoạt động khai thác tài nguyên trước xu hướng giá tài nguyên tăng mạnh trong những năm gần đây, góp phần nâng cao tính hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia.
2.3.3 Đối với cải cách thủ tục hành chính thuế
Nhằm thống nhất, đồng bộ thủ tục hành chính (TTHC) thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan thuế trong triển khai thực hiện công tác quản lý thuế, Luật quản lý thuế được ban hành. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay, ngành Thuế đã triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính thuế ở tất cả các khâu: đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế và thủ tục mua hóa đơn… Đây cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan thuế tổ chức lại bộ máy quản lý, bảo đảm thực hiện có hiệu quả cơ chế cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế, nhằm khuyến khích sự tuân thủ, tự nguyện trong thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
Nhằm đơn giản hóa TTHC trong lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010, Bộ Tài chính đã công bố Bộ TTHC thuộc lĩnh vực thuế, phí, lệ phí, gồm 330 thủ tục và công khai trên các trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, cơ quan thuế các cấp để doanh nghiệp và người dân biết và dễ dàng thực hiện; đồng thời, kiểm soát việc thực thi theo đúng quy định, tránh sự tùy tiện gây phiền hà cho người nộp thuế. Kiến nghị đơn giản hóa 271/330 TTHC, trong đó kiển nghị sửa đổi, bổ sung 261 thủ tục, thay thế 6 thủ tục và bải bỏ 4 thủ tục, tiết kiệm cho cá nhân, tổ chức 1.921 tỷ đồng /năm. Bộ Tài chính đã kiến nghị đơn giản hóa 35 thủ tục, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp cắt giảm được 1.582 tỷ đồng/năm.
Về thủ tục hóa đơn, cho phép các doanh nghiệp tự in ấn và sử dụng hóa đơn, chỉ cần thông báo mẫu hóa đơn tự in cho cơ quan thuế trước khi sử dụng. Cơ quan thuế chỉ quy định các thông tin chính trên hóa đơn để phục vụ mục tiêu quản lý. Hồ sơ mua hóa đơn được đơn giản hóa đến mức thấp nhất; với phương án này dự kiến tiết kiệm gần 400 tỷ đồng/năm. Thủ tục đăng ký thuế được cải tiến, đẩy mạnh đăng ký thuế qua mạng và đơn giản hóa các mẫu khai đang ký thuế phù hợp. Đối với thủ tục về khai thuế, nộp thuế GTGT được cải cách theo hướng phân loại đối tượng để giảm số lần kê khai theo tháng xuống còn ba tháng hoặc sáu tháng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Riêng đối với thủ tục hoàn thuế, hồ sơ hoàn thuế được tách làm hai loại: hoàn thuế gắn liền với hồ sơ khai thuế trong các trường hợp hoàn thuế phát sinh ngay từ khâu tính thuế, quyết toán thuế và hoàn thuế cần phải làm hồ sơ đề nghị hoàn riêng như một TTHC độc lập áp dụng đối với các trường hợp hoàn thuế liên quan các số liệu lịch sử.
KẾT QUẢ CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002-2010.
Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu động viên NSNN
Quy mô thu NSNN tính theo GDP (giá hiện hành) giai đoạn 2001-2010 đã tăng cao hơn đáng kể so với giai đoạn 10 năm trước đó. Tỷ trọng động viên NSNN so với GDP đã tăng từ 21,6% năm 2001 lên mức cao kỷ lục 29,1% năm 2008. Năm 2009, quy mô thu NSNN giảm xuống so với các năm trước đó sau khi một loạt các chính sách kích thích tài khóa (chính sách về giảm, giãn và miễn thuế TNDN, TCCN và GTGT) được áp dụng để đối phó với suy thoái kinh tế toàn cầu. Năm 2010, quy mô thu NSNN bắt đầu có xu hướng khôi phục trở lại, ước đạt khoảng 26,7% GDP (giá hiện hành) (Hình 3).
Hình 3. Mức độ động viên NSNN của Việt Nam (% GDP tính theo giá hiện hành)(Nguồn: Tính toán theo số liệu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê).
Tính bình quân, giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ động viên NSNN so với GDP tính theo giá hiện hành ước đạt 26,3%, trong đó, thu từ thuế, phí và lệ phí ước đạt xấp xỉ 24% GDP (bao gồm cả thuế đối với hoạt động khai thác dầu thô). Việt Nam là một trong những nước hiện có tỷ lệ động viên ngân sách khá cao (Hình 4).
Hình 4. Tỷ lệ động viên NSNN từ thuế của một số nước so với GDP (tính theo giá thỏa thuận)(Nguồn: Tính toán theo số liệu của IMF năm 2010).
Hình 5. Quy mô tổng thu NSNN và của một số sắc thuế năm 2010 so với năm 2001 (năm 2001 = 1 lần).(Nguồn: Tính toán theo số liệu của Bộ Tài chính).
Bên cạnh sự mở rộng về quy mô, cơ cấu động viên ngân sách cũng đã có một số chuyển biến tích cực theo hướng bền vững hơn, tỷ trọng các khoản thu từ những sắc thuế có tính ổn định cao trong tổng thu NSNN đã có sự mở rộng đáng kể. Tốc độ tăng thu bình quân từ thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT và thuế TTĐB luôn cao hơn so với tốc độ tăng thu chung (Hình 5). So với năm 2001, quy mô thu ngân sách năm 2010 từ thuế GTGT tăng 7,7 lần, từ thuế TNDN (không kể dầu thô) tăng 6,14 lần, từ thuế TNCN tăng 11,35 lần, trong khi đó trong cùng gia đoạn, tổng thu cân đối NSNN tăng 5,08 lần.
Xét theo tỷ lệ động viên so với GDP (tính theo giá hiện hành) thì mức độ động viên từ những sắc thuế chủ đạo trong hệ thống thuế cũng đã có sự gia tăng đáng kể. Trong giai đoạn 2001-2010, so với GDP thu từ thuế GTGT đã tăng từ mức 4,02% lên khoảng 7,51% và của thuế TTĐB (đối với hàng hóa sản xuất trong nước) tăng từ 1,29% lên 1,8%. Mức tăng tương ứng trong cùng kỳ của thuế TNDN (không kể dầu thô) là từ 3,1% GDP lên 4,63% và của thuế TNCN là từ 0,43% GDP lên 1,18% GDP. Điều này cho thấy sự mở rộng đáng kể về cơ sở tính thuế trong các sắc thuế này. Hay nói cách khác, việc giảm thuế suất trong nhiều sắc thuế mà Việt Nam đã thực hiện trong thời gian qua đã không dẫn đến sự thu hẹp về nguồn thu.
3.2 Nhận xét và đánh giá
Phân tích về quy mô và cơ cấu thu NSNN của Việt Nam thời gian qua cho thấy một số vấn đề đáng chú ý liên quan đến tính bền vững trong dài hạn, đó là:
Thứ nhất, áp lực về việc phải duy trì được mức độ động viên NSNN ở mức như giai đoạn vừa qua sẽ là tương đối lớn, nhất là trong bối cảnh các khoản thu từ dầu thô, thu từ giao quyền sử dụng đất có xu hướng giảm dần. Thu NSNN ở mức cao đã tạo điều kiện mở rộng đáng kể nhu cầu chi cũng như phạm vi chi NSNN. Do đó, vấn đề đặt ra trong thời gian tới là làm thế nào giữ được mức độ động viên NSNN ổn định để có thể duy trì được quy mô chi NSNN ở mức như thời gian qua, nhất là đối với các khoản chi cho con người, chi cho y tế, giáo dục và cho công tác đảm bảo an sinh xã hội.
Thứ hai, cơ cấu thu NSNN từ thuế, phí tuy đã được cải thiện, song vẫn dựa vào các khoản thu từ tài nguyên, thu từ giao quyền sử dụng đất. Bình quân giai đoạn 2001-2010, riêng ba khoản thu là thu từ dầu thô và từ giao quyền sử dụng đất và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước đã chiếm khoảng 29% tổng thu NSNN. Đây là các khoản thu được xem là không tái tạo. Thực tế tỷ trọng thu từ giao quyền sử dụng đất trong tổng thu NSNN sau một số năm đầu 2001-2010 liên tục tăng nhanh thì những năm gần đây đã có xu hướng giảm dần.
Thứ ba, thu từ thuế thu nhập của Việt Nam chủ yếu là từ thuế TNDN. Thu từ thuế TNCN tuy có tăng mạnh kể từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực thi hành, trong đó có yếu tố là do việc chuyển các hộ kinh doanh cá thể từ nộp thuế TNDN sang nộp thuế TNCN, song vẫn ở mức còn thấp. Năm 2010 thu từ thuế TNCN của Việt Nam ước bằng khoảng 1,18% GDP, thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của nhiều nước, kể cả một số nước đang phát triển và mới nổi như Ấn Độ và Trung Quốc.
Ngược lại, tỷ lệ động viên ngân sách từ thuế TNDN của Việt Nam lại có mức khá cao so với nhiều nước (Hình 6). Năm 2010, thu từ thuế TNDN của Việt Nam ước bằng 4,63% GDP (không tính thu thuế TNDN từ các doanh nghiệp khai thác dầu thô). Thực tế này phản ánh nhiều hàm ý khác nhau, ví dụ như khả năng và mức độ sinh lãi của nền kinh tế, sự mở rộng về quy mô và số lượng của các doanh nghiệp trong nước, cũng như sự gia tăng về hiệu quả trong việc quản lý thu thuế. Tuy nhiên, mức độ động viên này ít hay nhiều cũng sẽ có một số ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước.
Hình 6. Gánh nặng thuế TNCN và TNDN của Việt Nam so với các nước (%GDP danh nghĩa) (Nguồn: Tính toán từ số liệu của IMF năm 2010 và Bộ Tài chính. Số liệu của Việt Nam là số liệu ước thực hiện năm 2010, không bao gồm thuế TNDN từ dầu thô, số các quốc gia khác là số năm 2007, 2008).
Bốn là, thu từ thuế nhà, đất của Việt Nam so với GDP hiện đang ở mức khá thấp. Năm 2010, thu từ thuế nhà, đất của Việt Nam ước chỉ chiếm khoảng 0,26% tổng thu ngân sách từ thuế, phí và bằng khoảng 0,065% GDP (giá hiện hành), thấp hơn nhiều lần so với mặt bằng chung trên thế giới, ngay cả với các nước đang phát triển, ví dụ thu từ thuế tài sản ở Indonexia năm 2008 chiếm 3,85% tổng thu từ thuế (tương đương khoảng 0,51% GDP) và ở Trung Quốc, tỷ lệ này của năm 2008 là 1,51% (khoảng 0,26% GDP). Theo đó, vai trò của chính sách thuế nhà, đất trong việc điều tiết, đảm bảo việc sử dụng nhà, đất có hiệu quả còn hạn chế. Bên cạnh đó, ở phần lớn các quốc gia, thu từ thuế nhà, đất là nguồn thu được phân cấp cho địa phương để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu cho dịch vụ công trên đại bàn. Mức thu quá thấp như hiện nay đã phần nào làm giảm vai trò mà những sắc thuế này có thể phát huy trong quá trình phân cấp ngân sách.
XU HƯỚNG CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2011
Cũng như các nước trên thế giới, xu hướng vận động và điều chỉnh chính sách thuế của Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập ngày càng gia tăng thể hiện những điểm sau:
Xu hướng thay đổi trong cơ cấu thu NSNN. Tỷ trọng thuế trực thu trong cơ cấu thu NSNN từ thuế sẽ tăng lên. Điều này do bởi nguyên nhân là số thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm đi theo lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết song phương hoặc đa phương (WTO). Tỷ trọng thuế gián thu trong tổng thu NSNN từ thuế sẽ giảm đi với mức độ khác nhau tùy vào tình hình nhập khẩu, nhưng nhìn chung, sự sụt giảm này không lớn vì sẽ được bù đắp bởi số thu tăng lên đánh vào giá trị gia tăng của hàng hóa- dịch vụ trong nước.
Xu hướng thay đổi trong quan điểm về chức năng của hệ thống thuế quốc gia, thể hiện ở hai điểm sau: Một là, thuế vẫn là nguồn thu chủ lực của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho bộ máy quản lý và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng. Tuy nhiên, việc tăng tốc độ thu NSNN từ thuế không thể vượt quá cao so với tỷ lệ tăng trưởng GDP mà giữa chúng có một giới hạn dừng nào đó. Giới hạn này khác nhau tùy từng tình hình phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn. Nếu tốc độ tăng thu vượt qua giới hạn này thì sẽ xảy ra tình hình tận thu và như thế, nguồn thu NSNN từ thuế trong các năm sau sẽ giảm.
Hai là, chức năng điều tiết kinh tế của nhà nước được duy trì ở tầm vĩ mô, còn việc tác động vào từng ngành sản xuất đơn lẻ dần dần bị hạn chế. Sự thay đổi này là tất yếu do những đòi hỏi khách quan về một môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Sự khác biệt về thuế suất giữa các ngành, lĩnh vực sản xuất ở một giác độ nào đó, sẽ dẫn đến các quyết định đầu tư không hiệu quả và do đó, nguồn lực kinh tế sẽ phân bổ không hợp lý. Chức năng điều tiết kinh tế ở tầm vĩ mô của chính sách thuế thể hiện bằng việc tăng hay giảm mức động viên từ thuế thu nhập hay tiêu dùng nhằm khuyến khích hay hạn chế đầu tư hay tiết kiệm tùy theo yêu cầu cụ thể của nền kinh tế trong từng thời kỳ khác nhau.
Xu hướng thay đổi trong việc sử dụng chính sách thuế làm công cụ tài chính khuyến khích đầu tư. Theo xu hướng này, các ưu đãi về thuế đối với việc đầu tư vào các ngành, khu vực cần khuyến khích đầu tư dần bị bãi bỏ. Thay vào đó, các khuyến khích về thuế đối việc đầu tư được thiết lập ở một tầm lớn hơn với tính phổ quát cao hơn, đó là: Giảm thuế suất thu nhập của doanh nghiệp. Điều này làm tăng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp và như vậy sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. Các khuyến khích trực tiếp về thuế đối với hoạt động đầu tư sở dĩ ngày càng hạn chế sử dụng do chúng làm mất đi tính trung lập của chính sách thuế và như vậy, chúng gián tiếp dẫn đến việc phân bổ sai nguồn lực kinh tế vốn đã hiếm hoi- đặc biệt là tại các nước đang phát triển như Việt Nam.
Xu hướng thay đổi mục tiêu điều tiết của chính sách thuế thu nhập sang mục tiêu tăng cường hiệu quả kinh tế. Theo xu hướng này, chính sách thuế sẽ chuyển từ việc đóng vai trò như một công cụ đảm bảo công bằng xã hội theo chiều dọc- tức là một cá nhân hay tổ chức có mức thu nhập cao hơn sẽ phải đóng thuế nhiều hơn- sang đóng vai trò như một công cụ đảm bảo công bằng xã hội theo chiều ngang- tức là những tổ chức, cá nhân có mức thu nhập như nhau sẽ phải đóng thuế như nhau.
Xu hướng thay đổi về nguyên tắc đánh thuế. Theo xu hướng này, nguyên tắc “đánh thuế theo nước cư trú” – tức là quyền đánh thuế của nhà nước được xác lập trên cơ sở các mối quan hệ về kinh tế, xã hội và sở hữu tài sản giữa đối tượng nộp thuế và quốc gia đó- đang dần thay thế cho nguyên tắc “đánh thuế dựa trên chủ quyền lãnh thổ” còn gọi là “ đánh thuế theo nguồn phát sinh”. Sự thay thế này được thực hiện tất yếu trong bối cảnh Việt Nam đang mở cửa kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài- vốn là một nguồn lực đế phát triển kinh tế và ngày càng khan hiếm hơn đối với các nước đang phát triển. Trong bối cảnh như vậy, sự đánh thuế dựa trên chủ quyền về lãnh thổ của Việt Nam dễ dẫn đến việc đánh thuế trùng lắp, hạn chế tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và ngăn cản quá trình tự dó hóa thương mại và đầu tư tại Việt Nam.
Xu hướng thống nhất thuế giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Giảm thuế nhập khẩu các dòng thuế theo các cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Xóa bỏ việc đánh thuế trùng với tài sản và thu nhập tạo ra ở nước ngoài bằng cam kết trong khuôn khổ một hiệp định trách đanh thuế trùng.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM
Cải cách chính sách thuế trong thời gian tới cần hướng tới việc nâng cao tính công bằng, hiệu quả trong thu thuế, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trung và dài hạn, đảm bảo tính bền vững cấu trúc thu, giảm dần sự phụ thuộc vào các khoản thu không tái tạo.
5.1 Vấn đề cần xem xét sửa đổi
Việc đảm bảo tính ổn định của chính sách thuế là một trong những yêu cầu quan trọng để đảm bảo sự ổn định chung về kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, sự ổn định này phải đặt trong mối tương quan với các chính sách khác cũng như những thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Phân tích về hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay cũng chỉ ra một số vấn đề đòi hỏi cần phải tiếp tục xem xét sửa đổi trong thời gian tới.
Thứ nhất, đó là yêu cầu cần phải cơ cấu của hệ thống thuế, đảm bảo sự hợp lý hơn trong cơ cấu thu của một hệ thống thu hiện đại, bền vững. Hiện nay, vai trò về thuế tài sản và thuế TNCN, thuế nhà đất trong hệ thống thu ngân sách của Việt Nam vẫn còn rất nhỏ bé. Dự báo trong thời gian tới quy mô của các khoản thu liên quan đến tàu nguyên, dầu thô, thu từ giao quyền sử dụng đất và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước sẽ giảm dần. Thu từ thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ giảm xuống khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong khuôn khổ thực hiện các hiệp định về việc thành lập các khu vực mậu dịch tự do. Theo đó, cần phải có sự cải cách về cơ cấu thu để từng bước nâng cao vai trò của thuế TNCN, thuế nhà đất trong hệ thống thuế.
Thứ hai, một số quy định trong hệ thống chính sách thuế sau một thời gian thực hiện cũng đã bắt đầu bộc lộ một số bất cập, đòi hỏi cần phải tiếp tục được điều chỉnh để đảm bảo phù hợp với những thay đổi về bối cảnh kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả của chính sách. Sửa đổi bổ sung các luật về chính sách thuế và các văn bản khác có liên quan để đảm bảo tính đơn giản, minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện tạo thuận lợi cho người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế.
Về thuế GTGT, danh mục các mặt hàng không chịu thuế tuy đã được giảm song phạm vi còn khá rộng, tạo ra sự phức tạp và làm giảm hiệu quả trong quản lý.
Thuế TTĐB đang được áp dụng đối với một số nhóm mặt hàng, sản phẩm mà gần đây trở nên thông dụng như điều hòa nhiệt độ hay các sản phẩm có giá trị thấp như bài lá, vàng mã. Điều này không phù hợp với bản chất chung của thuế TTĐB là để điều tiết, định hướng tiêu dùng và để khắc phục các tác động tiêu cực từ việc tiêu dùng một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đối với đời sống kinh tế xã hội (như tác động của việc tiêu thụ rượu, bia, hút thuốc, của các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường,..).
Trong chính sách thuế TNDN, việc quy định khấu trừ có giới hạn đối với một số loại chi phí kinh doanh như các chi phí quảng cáo, tiếp thị đã không phản ánh thực tế chi phí phát sinh của các doanh nghiệp. Hệ thống chính sách ưu đãi về thuế TNDN tuy đã được rà soát và được lược bỏ bớt song diện ưu đãi vẫn còn khá rộng trong khi đó lại rất thiếu các đánh giá đầy đủ về hiệu quả của chính sách này. Các quy định để hạn chế tình trạng chuyển giá vẫn còn thiếu đồng bộ nên chưa thực sự phát huy hiệu quả trên thực tế.
Luật thuế TNCN qua hai năm đi vào thực hiện cũng đã bộc lộ một số vấn đề. Quy định về chiết trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc của luật hiện hành khá rộng, phức tạp nên trên thực tế rất khó giám sát việc thực thi. Bên cạnh đó, biểu thuế suất thuế TNCN của Việt Nam hiện nay với 7 bậc thuế suất cũng được xem là còn nhiều. Mức thuế suất cao nhất trong biểu thuế suất thuế TNCN tuy đã được điều chỉnh giảm đáng kể, song hiện vẫn còn cao hơn so với mặt bằng chung hiện nay (Hình 7).
Hình 7. Mức thuế suất thuế TNCN cao nhất trong biểu thuế TNCN một số nước châu Á (Nguồn: Tổng hợp).
Thứ ba, việc ban hành và tổ chức Luật quản lý thuế từ năm 2007 có thể xem là một bước đột phá trong công tác cải cách công tác quản lý thuế của Việt Nam. Song, so với nhiều nước, tính minh bạch, công khai của hệ thống thuế vẫn còn hạn chế, chi phí tuân thủ pháp luật về thuế còn cao. Sự phức tạp của hệ thống thuế và những vấn đề nói trên đã làm cho Việt Nam đã trở thành một trong những nước có chi phí tuân thủ thuế cao, ngay cả so với những nước trong khu vực. Theo nghiên cứu điều tra của Ngân hàng Thế giới năm 2010, hàng năm bình quân mỗi doanh nghiệp ở Việt Nam phải dành khoảng 941 giờ làm việc để thực hiện các yêu cầu về kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế và bảo hiểm xã hội, giảm so với con số 1.050 giờ của năm trước. Sự thuận lợi trong thủ tục hành chính thuế của Việt Nam vẫn còn một khoảng cách rất xa so với nhiều nước trong khu vực như Malayxia, Philippines, Thái lan và Indonexia. (Hình 8).
Hình 8. So sánh về thời gian mà các doanh nghiệp phải dung để thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình. (Nguồn: Ngân hàng thế giới năm 2010).
5.2 Định hướng chung đề xuất
Mục tiêu của cải cách hệ thống chính sách thuế trong thời gian tới cần phải hướng tới việc khắc phục các vấn đề nói trên, đảm bảo tính ổn định và hiệu quả nguồn thu ngân sách từ thuế. Tuy nhiên, việc cải cách hệ thống chính sách thuế phải được tính toán trên nhiều mặt và phải có lộ trình thích hợp. Theo đó, định hước chung đề xuất là:
Đảm bảo duy trì mức động viên ngân sách hợp lý. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức động viên ngân sách từ thuế cũng phải có giới hạn. Trên cơ sở xác định mức độ động viên phù hợp, thực hiện cải cách cơ cấu hệ thống chính sách thuế theo định hướng đảm bảo tính hợp lý trong cơ cấu của ba loại thuế cơ bản: thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản (chủ yếu là thuế nhà đất). Trong đó, cần hướng tới việc gia tăng từng bước tỷ trọng các nguồn thu từ thuế TNCN và từ thuế nhà và đất.
Thực hiện cải cách từng sắc thuế theo hướng đảm bảo tính công bằng, hiệu quả, đơn giản, minh bạch và công khai. Mở rộng cơ sở tính thuế thông qua mở rộng phạm vi, đối tượng chịu thuế, thu hẹp diện miễn giảm thuế. Từng bước giảm dần mức thuế suất thuế TNDN và giảm mức thuế suất cao nhất và giảm số bậc trong biểu thuế suất thuế TNCN. Có lộ trình thu hẹp dần diện hàng hòa và dịch vụ không thuộc diện không chịu thuế GTGT và diện hàng hoán, dịch vụ đang được áp dụng thuế suất thuế GTGT ở mức 5%. Đồng thời thực hiện tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế để đảm bảo sự minh bạch, trung lập của hệ thống thuế (ví dụ, các vấn đề hỗ trợ cho người nghèo, gia đình chính sách nên được giải quyết thông qua cơ chế chi ngân sách hơn là cơ chế miễn, giảm thuế).
Bên cạnh đó, cần tăng cường và nâng cao hiệu quả của chính sách thuế đối với tài nguyên, đất đai, đảm bảo quản lý và sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả. Trong đó, đối với tài nguyên cần có các cơ chế để khuyến khích được việc chế biến sâu trong nước, hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
- Xác định cải cách hành chính thuế là nhiệm vụ cấp bách, khâu đột phá, có ý nghĩa quan trọng, tạo động lực cho phát triển kinh tế- xã hội và môi trường kinh doanh, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục thực hiện cải cách các quy trình, thủ tục về kê khai, nộp thuế và quản lý thuê, đảm bảo tính đơn giản, minh bạch, công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp và cơ quan quản lý thu thuế. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy cải cách về chính sách thuế thường sẽ không đạt hiệu quả cao nếu như không được thực hiện đồng bộ với việc cải cách hành chính thuế. Vì vậy, cùng với việc thiết kế và xây dựng chính sách thuế đơn giản và khả thi, cần tăng cường công tác quản lý thuế, áp dụng có hiệu quả phương thức quản lý rủi ro, đồng thời đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về pháp luật thuế.
Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, trong đó nghiên cứu, sửa đổi quy định về thời gian khai thuế, nộp thuế để giảm dần số lần kê khai, chi phí của người nộp thuế; đồng thời công khai các thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ quản lý tại trụ sở cơ quan thuế các cấp, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử của ngành thuế.
Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội nghiên cứu cơ chế phối hợp thu thuế thu nhập cá nhân, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chia sẻ thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam. Nâng cao hiệu quả nguồn thu và quản lý nguồn thu từ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; bảo vệ quyền lợi của người lao động; cắt giảm khoản 10% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho cá nhân,tổ chức. Đẩy mạnh hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế và phát triển hệ thống tin học ngành thuế theo chuẩn mực quốc tế. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc hỗ trợ người nộp thuế thực hiện thủ tục khai thuế, nộp thuế, giảm thời gian thực hành thủ tục hành chính và giảm chi phí cho người nộp thuế.
PHẦN KẾT LUẬN
Sẽ không có một hệ thống thuế nào được xem là hoàn hảo và lý tưởng duy nhất cả. Để đánh giá một hệ thống thuế mới người ta thường đặt ra ba tiêu chí: Hệ thống thuế có hiệu quả kinh tế hơn hay không? Hệ thống thuế có công bằng về mặt xã hội hơn không? Hệ thống thuế có tạo nhiều nguồn thu ngân sách ròng hơn không? Trong khi những tiêu chí đánh giá vẫn không đổi thì điều gì là tốt nhất sẽ thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào cấu trúc thu chi ngân sách của quốc gia, tức là một hệ thống thuế có tính động thay vì tĩnh.
Đứng trên phương diện hiệu quả kinh tế, việc cải cách thuế phải dựa trên nguyên tắc mức thuế suất thấp và cơ sở thuế rộng. Do mất mát xã hội vô ích tỷ lệ với bình phương thuế suất nên một mức thuế suất thấp hơn sẽ làm giảm tổn thất phúc lợi xã hội. Thuế suất giảm còn làm giảm các hành vi trốn, tránh thuế thông qua các hoạt động dịch chuyển thu nhập hay chuyển giá - những hành vi làm thất thu thuế, tăng chi phí quản lý và tuân thủ thuế. Việc giảm thuế suất phải đi đôi với định nghĩa lại cơ sở thuế trên cơ sở rộng hơn nhằm có thể tăng doanh thu thuế ròng. Bởi vì, mục đích chính của chiến lược cải cách thuế phải là tối đa hóa nguồn thu, trong khi vấn đề công bằng và phúc lợi xã hội còn được giải quyết thông qua chính sách chi tiêu của chính phủ.
Điều cũng cần lưu ý trong quá trình cải cách thuế là phải sắp xếp thứ tự ưu tiên sao cho mục tiêu thu ngân sách phải là thứ yếu trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, trong dài hạn, mục tiêu cuối cùng vẫn phải là tăng doanh thu thuế ròng. Có một số tiêu chí để đánh giá khả năng tạo nguồn thu thuế ròng. Chẳng hạn, nếu so với nền kinh tế người ta thường sử dụng các chỉ tiêu: tỷ số thuế, độ nổi thuế, độ co giãn của thuế, và tính ổn định của thuế; nếu so với tiềm năng: năng lực thuế, nỗ lực thuế; nếu so với hiệu quả hành chính: tỷ lệ thu, chi phí của tỷ lệ thu, thu nợ thuế. Bên cạnh đó, một chính sách thuế mới cũng phải trên cơ sở đơn giản hóa, từ vấn đề quy trình thủ tục đến công tác quản lý, tuân thủ và thực thi thuế.
Một số kinh nghiệm cho thấy, chiến lược cải cách thuế cần phải tính toán, cân nhắc một cách thận trọng và cụ thể. Các cuộc cải cách vội vã thường dẫn đến thất bại, gây khó khăn hơn cho những đợt cải cách trong tương lai. Các thành công bước đầu mặc dù ở một quy mô nhỏ nhưng tăng được doanh thu cũng sẽ tạo cơ sở cho việc mở rộng phạm vi cải cách thuế và làm tăng cơ hội thành công. Tăng tối đa khả năng thu tại nguồn, tức thiết kế một hệ thống thuế vững chắc, sẽ đảm bảo hạn chế tối thiểu tình trạng thất thoát nguồn thu, tăng thuyết phục cho các trách nhiệm giải trình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí Tài chính (2009, 2010, 2011). www.tapchitaichinh.vn
Bộ Tài chính. www.mof.gov.vn. Số liệu công khai ngân sách (2010).
Tổng cục Thuế www.gdt.gov.vn.
Tổng cục Thống kê. www.gso.gov.vn. Cơ sở dữ liệu online (2010).
Th.s Trương Bá Tuấn (2010). Đổi mới hệ thống chính sách thuế giai đoạn 2001-2010: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra.
Đỗ Ngọc Huỳnh (2006). Cải cách cơ cấu thu ngân sách ở Việt Nam: Thực trạng và triển vọng.
IMF (2010), Vietnam: Statistical Appendix and Backround Notes.
OCED (2007, 2010).
Worldbank (2010).
TS. Phan Hiển Minh (2005)- Thực trạng hệ thống thuế Việt Nam thời kỳ đổi mới.
IMF, “Tax Policy- Medium Term Challenges”, Vietnam Country Report (2003).
Bộ Tài chính (2005) - Kế hoạch thực hiện chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.
Bộ Tài chính (2003) - Đề án cải cách thuế bước 3.
Trần Xuân Thắng (chủ biên- 2000), Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.