1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu.
Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”, khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai.
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong định hướng phát triển tương lai”. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển Việt Nam mang trong mình những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí, khoáng sản; nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản; du lịch; Vì vậy, vấn đề tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi các nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng.
Thái Bình là một tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, thuộc vùng biển và ven biển phía Bắc, là tỉnh giàu tiềm năng, thế mạnh, phát triển toàn diện nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư nghiệp (đặc biệt là nông nghiệp và ngư nghiệp) với 49,25 km bờ biển. Vùng biển Thái Bình thuộc ngư trường đánh bắt Vịnh Bắc Bộ với hàng nghìn hecta mặt nước ở các bãi bồi cửa sông thuận lợi cho việc chăn nuôi thủy hải sản. Thái Bình với 5 cửa sông lớn đổ ra biển, tạo nên vùng bãi triều rộng trên 16 nghìn héc-ta, trong đó diện tích khoanh nuôi thủy sản khoảng 10 nghìn héc-ta và hàng nghìn héc-ta đất cấy lúa, làm muối kém hiệu quả có thể chuyển sang nuôi các loài thủy sản mặn, lợ. Vùng thềm lục địa của tỉnh rộng trên 1 vạn km2 với nguồn lợi hải sản phong phú, đa dạng, có nhiều loài có giá trị kinh tế, lại gần các ngư trường lớn giàu tôm cá. Cảng thương mại Diêm Điền được đầu tư nâng cấp tạo điều kiện cho các tàu vận tải biển. Hàng ngàn héc-ta rừng sú, vẹt phía ngoài đê biển cùng với Cồn Vành, Cồn Thủ, Cồn Đen tạo nên hệ thống phòng thủ ven biển vững chắc, kết hợp với nuôi thủy sản, trồng rừng ngập mặn, du lịch sinh thái. Nhân dân ven biển cần cù chịu khó, có nhiều kinh nghiệm trong khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vận tải biển. Bên cạnh đó, quá trình khai thác, phát triển tiềm năng kinh tế biển của Thái Bình cũng còn những hạn chế, khó khăn chủ yếu, như việc nuôi trồng thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bền vững; phương thức nuôi chủ yếu vẫn là quảng canh cải tiến; kiến thức về khoa học - kỹ thuật của phần lớn nông, ngư dân chưa theo kịp với yêu cầu của sản xuất; nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong việc phát triển kinh tế biển còn hạn chế, vẫn còn biểu hiện tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước; khai thác hải sản chủ yếu là khai thác ven bờ, số phương tiện công suất nhỏ có xu hướng tăng; dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; hệ thống giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới; du lịch biển vẫn trong tình trạng chậm phát triển. Các loại hình, tuor, tuyến, điểm du lịch chưa hình thành rõ nét, kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật chưa đồng bộ .
Từ thực tế trên, tôi quyết định chọn vấn đề “ thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Thái Bình, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế biển
Đánh giá thực trạng và hiệu quả phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng, những khó khăn thách thức đối với phát triển kinh tế biển tại địa phương.
Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển kinh tế biển ở Thái Bình.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả phát triển kinh tế biển ở Thái Bình
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển tại địa phương
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế biển ở huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình.
1.4. Phương pháp và địa điểm nghiên cứu
1.4.1 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tiểu luận còn sử dụng 1 số phương pháp chủ yếu sau :
- phương pháp phân tích hệ thống và tư duy logic học
- phương pháp thống kê, so sánh
- phương pháp điều tra chuyên sâu
1.4.2. Địa điểm nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2944 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình
Đặt vấn đề.
Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu.
Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”, khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai.
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong định hướng phát triển tương lai”. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển Việt Nam mang trong mình những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí, khoáng sản; nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản; du lịch;… Vì vậy, vấn đề tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi các nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng.
Thái Bình là một tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, thuộc vùng biển và ven biển phía Bắc, là tỉnh giàu tiềm năng, thế mạnh, phát triển toàn diện nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư nghiệp (đặc biệt là nông nghiệp và ngư nghiệp) với 49,25 km bờ biển. Vùng biển Thái Bình thuộc ngư trường đánh bắt Vịnh Bắc Bộ với hàng nghìn hecta mặt nước ở các bãi bồi cửa sông thuận lợi cho việc chăn nuôi thủy hải sản. Thái Bình với 5 cửa sông lớn đổ ra biển, tạo nên vùng bãi triều rộng trên 16 nghìn héc-ta, trong đó diện tích khoanh nuôi thủy sản khoảng 10 nghìn héc-ta và hàng nghìn héc-ta đất cấy lúa, làm muối kém hiệu quả có thể chuyển sang nuôi các loài thủy sản mặn, lợ. Vùng thềm lục địa của tỉnh rộng trên 1 vạn km2 với nguồn lợi hải sản phong phú, đa dạng, có nhiều loài có giá trị kinh tế, lại gần các ngư trường lớn giàu tôm cá. Cảng thương mại Diêm Điền được đầu tư nâng cấp tạo điều kiện cho các tàu vận tải biển. Hàng ngàn héc-ta rừng sú, vẹt phía ngoài đê biển cùng với Cồn Vành, Cồn Thủ, Cồn Đen tạo nên hệ thống phòng thủ ven biển vững chắc, kết hợp với nuôi thủy sản, trồng rừng ngập mặn, du lịch sinh thái. Nhân dân ven biển cần cù chịu khó, có nhiều kinh nghiệm trong khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vận tải biển. Bên cạnh đó, quá trình khai thác, phát triển tiềm năng kinh tế biển của Thái Bình cũng còn những hạn chế, khó khăn chủ yếu, như việc nuôi trồng thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bền vững; phương thức nuôi chủ yếu vẫn là quảng canh cải tiến; kiến thức về khoa học - kỹ thuật của phần lớn nông, ngư dân chưa theo kịp với yêu cầu của sản xuất; nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong việc phát triển kinh tế biển còn hạn chế, vẫn còn biểu hiện tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước; khai thác hải sản chủ yếu là khai thác ven bờ, số phương tiện công suất nhỏ có xu hướng tăng; dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; hệ thống giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới; du lịch biển vẫn trong tình trạng chậm phát triển. Các loại hình, tuor, tuyến, điểm du lịch chưa hình thành rõ nét, kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật chưa đồng bộ...
Từ thực tế trên, tôi quyết định chọn vấn đề “ thực trạng phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình” làm đề tài nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế biển tỉnh Thái Bình, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế biển
Đánh giá thực trạng và hiệu quả phát triển kinh tế biển ở tỉnh Thái Bình
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng, những khó khăn thách thức đối với phát triển kinh tế biển tại địa phương.
Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển kinh tế biển ở Thái Bình.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả phát triển kinh tế biển ở Thái Bình
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển tại địa phương
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế biển ở huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình.
Phương pháp và địa điểm nghiên cứu
1.4.1 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tiểu luận còn sử dụng 1 số phương pháp chủ yếu sau :
- phương pháp phân tích hệ thống và tư duy logic học
- phương pháp thống kê, so sánh
- phương pháp điều tra chuyên sâu
1.4.2. Địa điểm nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2.1. Thực trạng
2.1.1 Thực trạng phát triển kinh tế biển ở Việt Nam.
Nước ta là một quốc gia có biển lớn trong vùng Biển Đông với chỉ số biển khoảng 0,01, gấp 6 lần giá trị chung bình của thế giới. Biển Việt Nam dài và đẹp, lại chứa đựng nhiều đựng nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng với trữ lượng, quy mô thuộc loại khá, cho phép phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển quan trọng. Kinh tế biển đã và đang đóng góp một phần rất lớn cho nền kinh tế nước nhà.
Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47-48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy, hải sản, thông tin liên lạc,...bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả nước), song trong tương lai sẽ có mức gia tăng nhanh hơn.
Gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chính sách di dân và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo (hệ thống giao thông, mạng lưới điện, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá...). Tuy vậy, có thể nhận định một cách khái quát rằng, sự phát triển của kinh tế biển còn quá nhỏ bé và nhiều yếu kém. Quy mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước 1.300 tỷ USD, Nhật Bản là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là 33 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng thông qua cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của Malaysia và 1/5 của Thái Lan).
Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển, nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ bé. Các thành phố, thị trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển còn nhỏ bé, đang trong thời kỳ bắt đầu xây dựng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,...còn nhỏ bé, trang bị thô sơ.
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập trung tới 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Tuy nhiên, ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển-đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế và chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Khai thác hải sản và nuôi thuỷ sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng hơn 3 tỷ USD trong tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu (2008) và tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực tiếp, nuôi thủy sản và 50 vạn lao động dịch vụ liên quan.
Đối với các lĩnh vực kinh tế liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản phẩm dầu, khí; chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin, tìm kiếm cứu nạn hàng hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và quốc tế, nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên,...) hiện chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ bé. Ông Nguyễn Chu Hồi – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: “Khai thác biển đảo đã đem lại những lợi ích kinh tế -xã hội bước đầu quan trọng, nhưng việc sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững. trình độ khai thác biển của nước ta vẫn đang ở tình trạng lạc hậu nhất trong khu vực.Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay, chúng ta vẫn chưa thực sự dựa vào biển để phát triển đúng tiềm năng và thế mạnh. Việt Nam vẫn chưa phải là quốc gia mạnh biển, vẫn chưa phải là một cường quốc biển.
2.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế biển ở Thái Bình
Thái Bình có trên 50 km bờ biển với 5 cửa sông lớn đổ ra biển, tạo nên vùng bãi triều rộng trên 16 nghìn héc-ta, trong đó diện tích khoanh nuôi thủy sản khoảng 10 nghìn héc-ta và hàng nghìn héc-ta đất cấy lúa, làm muối kém hiệu quả có thể chuyển sang nuôi các loài thủy sản mặn, lợ. Vùng thềm lục địa của tỉnh rộng trên 1 vạn km2 với nguồn lợi hải sản phong phú, đa dạng, có nhiều loài có giá trị kinh tế, lại gần các ngư trường lớn giàu tôm cá. Cảng thương mại Diêm Điền được đầu tư nâng cấp tạo điều kiện cho các tàu vận tải biển. Hàng ngàn héc-ta rừng sú, vẹt phía ngoài đê biển cùng với Cồn Vành, Cồn Thủ, Cồn Đen tạo nên hệ thống phòng thủ ven biển vững chắc, kết hợp với nuôi thủy sản, trồng rừng ngập mặn, du lịch sinh thái. Nhân dân ven biển cần cù chịu khó, có nhiều kinh nghiệm trong khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vận tải biển.
Những kết quả đáng phấn khởi
Nhận thức được tiềm năng, thế mạnh của biển, những năm qua Thái Bình đã huy động tổng hợp các nguồn lực để phát triển kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế với giải quyết an sinh xã hội, bảo vệ chủ quyền biển đảo và đạt được nhiều kết quả rất đáng phấn khởi.
Nuôi trồng thủy sản có bước phát triển mạnh mẽ cả về diện tích, đối tượng, hình thức và sản lượng. Với trên 3 nghìn héc-ta đầm đã có từ năm 2000 được đầu tư cải tạo, hai huyện ven biển (Thái Thụy, Tiền Hải) còn tích cực chuyển đổi đất cấy lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi thủy sản, góp phần hình thành các vùng nuôi thủy sản tập trung, có quy mô lớn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhiều hộ nông dân, ngư dân. Tám năm qua, toàn tỉnh đã chuyển đổi được 940 ha, giá trị 87 triệu - 93 triệu đồng/ha, cao gấp 4 - 6 lần cấy lúa, làm muối. Cá biệt, có hộ đạt giá trị từ 200 triệu - 300 triệu đồng/ha. Các loại hải sản có giá trị kinh tế như tôm sú, ngao, cá vược, các bớp, cá rô phi đơn tính, cua xanh, tôm he chân trắng... được ngư dân tiếp thu đưa vào nuôi luân canh, xen canh đạt kết quả tốt. Năm 2008, sản lượng nuôi trồng đạt 24.958 tấn, tăng 168,4%, giá trị sản xuất đạt 164,7 tỉ đồng (theo giá cố định năm 1994), tăng 150% so với năm 2000.
Năm 2008
Toàn tỉnh
Huyện Thái Thụy
Huyện Tiền Hải
Các huyện khác
Diện tích nuôi trồng (ha)
13326
5490
4953
2883
Sản lượng nuôi trồng (tấn)
24958
11878
8080
5000
Giá trị sản xuất (tỷ VNĐ)
164.7
70.5
60.3
33.9
Nuôi trồng thủy sản của tỉnh Thái Bình năm 2008
Nguồn: Báo cáo thống kê của cục thống kê tỉnh Thái Bình năm 2008
Năm 2008, số tàu thuyền cơ giới có 1.502 chiếc, tổng công suất 47.381 CV. Ngư dân đã tích cực đầu tư đổi mới trang thiết bị, cải tiến lưới nghề, mở rộng ngư trường khai thác, nhất là việc tham gia vùng đánh cá chung Việt Nam - Trung Quốc. Chính sách trợ giá dầu của Chính phủ theo Quyết định số 289/QĐ-TTg, đã góp phần đưa sản lượng khai thác hải sản năm 2008 đạt 32.106 tấn, tăng 72,3% so với năm 2000. Thái Bình đã tập trung chuyển đổi chủ sở hữu toàn bộ 38/38 tàu khai thác hải sản xa bờ theo Quyết định số 89/2003/QĐ-TTg ngày 8-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ, và là một trong những tỉnh thực hiện nhanh nhất trong cả nước.
Quy mô, năng lực, số đơn vị chế biến tăng mạnh, hiện nay có 8 doanh nghiệp và 200 tổ hợp tư nhân, hộ gia đình tham gia chế biến; có 4 làng nghề chế biến tập trung được UBND tỉnh công nhận. Mặt hàng chế biến được đa dạng, quy trình công nghệ từng bước được nâng cao. Tỉnh có 59 cơ sở làm dịch vụ giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng, trong đó có 3 trại sản xuất tôm giống, cua, cá vược, ngao, cá bớp... Đặc biệt, Thái Bình đã thực hiện tiếp nhận chuyển giao thành công công nghệ sản xuất giống tôm sú, cua xanh góp phần chủ động một phần giống trong tỉnh.
Đến năm 2008, toàn tỉnh đã có 200 doanh nghiệp vận tải biển, với 140 tàu vận tải cỡ lớn; trong đó đã có tàu 6.500 tấn, năng lực vận tải biển đạt 300.000 tấn phương tiện. Khối lượng hàng hóa vận tải biển đạt 1.227 ngàn tấn, gấp 9,2 lần so với năm 2000. Do được đầu tư mở rộng, nâng cấp, lượng hàng vận chuyển thông qua cảng Diêm Điền đạt 39.000 tấn, gấp 3,9 lần so với năm 2000. Tỉnh hiện có 4 cơ sở sửa chữa, đóng tàu biển đang hoạt động, góp phần giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho tỉnh, giảm chi phí cho các doanh nghiệp vận tải biển trong việc sửa chữa, đóng mới.
Hệ thống giao thông đường bộ từ trung tâm tỉnh xuống 2 huyện Thái Thụy, Tiền Hải, đường giao thông nông thôn đã và đang được đầu tư nâng cấp, mở rộng. Từ năm 2001 đến năm 2008, tỉnh đã xây dựng và nâng cấp 696,92 km đường, 56 cầu và 1 cảng biển, với tổng vốn đầu tư 498,13 tỉ đồng, đường 39B, đường Vô Hối đi Diêm Điền và đường xuống bãi biển Đồng Châu, các tuyến xe buýt từ thành phố đi Thái Thụy, Tiền Hải...
Công tác trồng rừng ngập mặn ven biển được tích cực thực hiện. Bằng nguồn vốn của chương trình 327, chương trình 5 triệu héc-ta rừng và nguồn vốn của Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch tài trợ, ngành nông nghiệp và Hội Chữ thập đỏ tỉnh đã tiến hành trồng mới, trồng xen 7.514,5 ha vẹt, bần, đước, phi lao ở 10 xã ven biển, đưa diện tích trồng rừng ngập mặn trong toàn tỉnh lên 7.000 ha. Toàn bộ rừng ngập mặn đã trở thành vành đai che chắn và bảo vệ đê biển khi có bão và triều cường, bảo vệ vùng đầm nuôi thủy sản; tạo nên sự lắng đọng bồi tụ phù sa nhanh; thuận lợi cho việc phát triển nguồn lợi thủy sản. Đây cũng là nơi cư ngụ của khoảng 200 loài chim, trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới; trở thành vùng bảo tồn thiên nhiên, tạo ra cảnh quan để phát triển du lịch sinh thái biển. Hệ thống rừng ngập mặn ven biển Thái Thụy, Tiền Hải đã được UNESCO công nhận là vùng dự trữ sinh quyển cần phải được bảo vệ chặt chẽ. Cùng với trồng rừng ngập mặn, hệ thống đê biển được đầu tư xây dựng, nâng cấp, duy tu, bảo dưỡng với tổng số vốn 286 tỉ đồng. Đến nay, đã có 66,8 km/158,4 km đê biển được kiên cố và cứng hóa, bảo đảm chống đỡ được với bão cấp 8 đến cấp 10.
Việc tổ chức các tuyến du lịch kết hợp với các di tích lịch sử văn hóa, làng nghề, các cồn, sinh thái biển bước đầu đã thu hút được du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng như tuyến du lịch biển Thái Bình - Đồng Châu - Cồn Vành, Thái Bình - Thái Thụy, từ năm 2001 đến 2008 đã thu hút được 12.005 lượt khách quốc tế, 216.000 lượt khách nội địa đến tham quan, du lịch. Kết cấu hạ tầng khu phố biển Đồng Châu, dự án Cồn Vinh, khu du lịch Cồn Đen đã và đang được đầu tư xây dựng, nâng cấp phục vụ phát triển du lịch.
Cùng với việc xây dựng, cải tạo nâng cấp 21 chợ ở các xã ven biển, nhất là các chợ đầu mối, công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường được đẩy mạnh. Hằng năm, Thái Bình đã tổ chức cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã của 2 huyện ven biển gặp gỡ, trao đổi để ký hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ hàng nông sản, thủy sản trong và ngoài nước. Các sản phẩm như nước mắm, cá khô, mắm tôm, hải sản tươi sống và đông lạnh của Thái Bình đã được tiêu thụ mạnh ở các thị trường lớn, nhất là thị trường Hà Nội. Năm 2008, tỉnh xuất khẩu 493,8 tấn tôm đông lạnh với kim ngạch 2,57 triệu USD. Ngoài ra, hằng năm tỉnh còn xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch sang Trung Quốc từ 4 nghìn đến 5 nghìn tấn ngao, 2 nghìn tấn sứa sơ chế và khoảng 1 tấn hải sản tươi sống khác với giá trị khoảng 5 triệu - 6 triệu USD.
Thu nhập bình quân đầu người/năm ở một số xã ven biển ngày càng cao, điển hình như ở Nam Thịnh là 20,3 triệu đồng, Nam Phú: 18,7 triệu đồng... Tỷ lệ hộ nghèo giảm, số hộ khá, giàu ngày càng tăng. Chất lượng cuộc sống của nhân dân có nhiều chuyển biến. Tỷ lệ dân được dùng nước sạch ở hai huyện ven biển đã tăng lên 65,14% (năm 2008). Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển nhanh. Hầu hết các xã đã xây dựng được trụ sở làm việc, trường học, trạm y tế, bưu điện văn hóa xã, đường giao thông trong xã khang trang, sạch đẹp.
Bên cạnh những thành quả khởi đầu, quá trình khai thác, phát triển tiềm năng kinh tế biển của Thái Bình cũng còn những hạn chế, khó khăn chủ yếu như:
Việc nuôi trồng thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bền vững
Với tiềm năng lớn như vậy nhưng Thái Bình vẫn chưa tận dụng hết được những thế mạnh của mình trong việc nuôi trồng thủy sản. Phương thức nuôi chủ yếu vẫn là quảng canh cải tiến; kiến thức về khoa học - kỹ thuật của phần lớn nông, ngư dân chưa theo kịp với yêu cầu của sản xuất.Ở nhiều nơi sản xuất còn ở quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu là các hộ gia đình (chưa có nhiều trang trại).
Hạn chế trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong việc phát triển kinh tế biển còn hạn chế, vẫn còn biểu hiện tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước. Chưa phát huy được tính sáng tạo, dám nghĩ dám làm.
Khai thác thủy hải sản chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
Khai thác hải sản chủ yếu là khai thác ven bờ, số phương tiện công suất nhỏ có xu hướng tăng; dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; hệ thống giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới.
Phát triển tiềm năng du lịch biển còn gặp nhiều khó khăn, du lịch biển vẫn trong tình trạng chậm phát triển
Các loại hình, tuor, tuyến, điểm du lịch chưa hình thành rõ nét, kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật chưa đồng bộ...
2.2 Phân tích nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng
2.2.1 Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Thái Bình được bao bọc bởi hệ thống sông, biển khép kín. Bờ biển dài trên 50 km và 4 sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh: Phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35,3 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Đồng thời có 5 cửa sông lớn (Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân). Vị trí địa lý đã tạo cho Thái Bình những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển.
b. Khí hậu, thủy văn
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tiểu vùng khí hậu duyên hải. Tỉnh có 2 mùa rõ rệt trong năm: mùa nóng ẩm mưa nhiều kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, còn lại là mùa khô hanh ít mưa. Nhiệt độ trung bình ở đây là 23oC, lượng mưa trung bình từ 1.500-1.900mm, độ ẩm không khí giao động 70-90%, số giờ nắng khoảng 1.600-1.800 giờ mỗi năm. Thái Bình có 5 cửa sông lớn (Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân). Các sông này đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh, lưu lượng lớn, hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều, lượng phù sa không đáng kể. Khí hậu và thủy văn như vậy đã đem lại cho Thái Bình nhiều ưu đãi về số lượng các loài động thực vật biển và điều kiện để nuôi trồng thủy hải sản. Tuy nhiên, với điều kiện khí hậu này, hàng năm tỉnh cũng phải gánh chịu nhiều thiên tai, bão gió, lũ lụt gây thiệt hại cho bà con nông dân, nhất là ngư dân ven biển.
c. Tiềm năng và nguồn lợi thủy sản
Thái Bình có 3 thủy vực khác nhau: nước ngọt, nước lợ, nước mặn.
- Nước mặn chiếm khoảng 17km2 chủ yếu dành cho hoạt động khai thác khoáng sản. Tổng trữ lượng hải sản vùng ven biển Thái Bình khoảng 26.000 tấn. Trong đó trữ lượng cá 24.000 - 25.000 tấn, tôm 600 - 1.000 tấn, mực 700 - 800 tấn. Khả năng khai thác tối đa cho phép 12.000 -13.000 tấn. Các loài khai thác chính là cá Trích, cá Đé, cá Khoai, cá Đối, cá Vược.... các loài tôm: tôm Vàng, tôm Bộp, tôm He... Hiện tại mới duy trì các hoạt động đánh bắt nhỏ, khai thác tự nhiên, phần lớn là nguồn cung cấp nguyên liệu để chế biến các mặt hàng truyền thống như nước mắm, mắm tôm và chế biến thức ăn thủy sản.
- Vùng nước lợ: Chủ yếu ở các khu vực cửa sông Hồng, sông Thái Bình và sông Trà Lý có các nguồn phù du sinh vật, các loại tảo thực vật, thủy sinh phong phú làm thức ăn tự nhiên cho nuôi trồng thủy sản. Vùng này có khoảng 20.705 ha (Tiền Hải 9.949 ha, Thái Thụy 10.756 ha), trong đó diện tích có khả năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ là 5.453 ha. Hiện đã đưa vào khai thác 3.629 ha để nuôi trồng thủy sản: tôm, cua, sò, hến, trồng rau câu.
Bên cạnh đó Thái Bình còn có các cồn cát ven biển như: Cồn Vành, Cồn Thủ, Cồn Đen và vùng đất ngập mặn rất thích hợp trồng tập trung cây sú vẹt, bần. Hiện tại có gần 5.000 ha rừng vừa giữ đất, chắn sóng, vừa tạo môi trường sinh thái và cảnh quan thiên nhiên du lịch ven biển.
- Vùng nước ngọt: Tổng diện tích có khả năng nuôi thủy sản là 9.256 ha, hiện mới đưa vào nuôi khoảng 6.020 ha. Ngoài ra còn có trên 3.000 ha vùng lúa ruộng trũng cấy 1 vụ năng suất thấp có thể chuyển sang nuôi thủy sản.
2.2.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
- Lao động
Với dân 1.842.800 người với mật độ dân số 1.195 người/km² chiếm 86% là nông thôn, đã đem lại cho tỉnh nguồn lao động dồi dào. Nhân dân với truyền thống cần cù lao động, chịu thương chịu khó, tuy nhiên lao động trong lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản chủ yếu là lao động giản đơn, trình độ văn hóa thấp, chưa được tiếp cận với khoa học, công nghệ hiện đại. Một bộ phận do thiếu vốn đầu tư, phương tiện kĩ thuật mà đã chuyển từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản, hay các ngành nghề khác.
- Khoa học công nghệ
Theo chủ trương, chính sách của Đảng, tại văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng lần thứ IX, về định hướng khoa học công nghệ trong thời kỳ CNH – HĐH, hoạt động công nghệ ngày càng quan trọng cho sự phát triển của ngành thủy sản.
Từ năm 1996 đến nay các cơ quan khoa học thuộc bộ thủy sản đã triển khai đề tài độc lập cấp nhà nước, đó là: chọn giống chất lượng cao, bệnh tôm, sản xuất cua biển, nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển, lưu dữ nguồn gen giống thủy sản nước ngọt. Như vậy vai trò khoa học trong lĩnh vực nuôi trồng, khai thác thủy sản là rất to lớn trong sự phát triển của ngành.
Tuy nhiên, một bộ phận lớn bà con nông dân vẫn chưa tiếp cận được với khoa học kĩ thuật. Vẫn sử dụng các phương tiện thô sơ, công suất thấp để khai thác, đánh bắt thủy hải sản.
- Chính sách của nhà nước
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển nuôi trồng thủy sản. Sự quan tâm này được thể hiện qua những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất. Ngày 8/12/1999 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kì 1999-2010 với những chính sách về: sử dụng đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản, chính sách đầu tư, chính sách thuế. Hướng chỉ đạo phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, nuôi trông thủy sản cần từng bước hiện đại hóa, hướng mạnh vào phát triển nuôi trông thủy sản nước lợ và nuôi biển, đồng thời phát triển nuôi trồng nước ngọt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu và chú trọng nuôi trồng thủy sản khác.
Chính sách trợ giá dầu của Chính phủ theo Quyết định số 289/QĐ-TTg, đã góp phần đưa sản lượng khai thác hải sản năm 2008 đạt 32.106 tấn, tăng 72,3% so với năm 2000. Thái Bình đã tập trung chuyển đổi chủ sở hữu toàn bộ 38/38 tàu khai thác hải sản xa bờ theo Quyết định số 89/2003/QĐ-TTg ngày 8-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ, và là một trong những tỉnh thực hiện nhanh nhất trong cả nước.
2.3 Định hướng và giải pháp khuyến cáo.
Một là, đánh giá đúng tiềm năng, vị trí, vai trò của biển và kinh tế biển trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã xác định: “Đẩy mạnh khai thác kinh tế biển, nhanh chóng phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế biển, bao gồm cả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, dịch vụ, vận tải và du lịch...”, coi phát triển kinh tế biển là một trong năm trọng tâm cần tập trung tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XVI của Đảng bộ tỉnh, ngày 16-7-2001, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU “Về phát triển kinh tế biển”. Năm 2003, Tỉnh ủy đã giao cho Sở Thủy sản (nay là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chủ trì phối hợp với Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy và các sở, ngành có liên quan tiến hành kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết tại 2 huyện Thái Thụy, Tiền Hải, một số xã ven biển và một số sở, ngành của tỉnh. Đến tháng 11-2006, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 02 “Về phát triển kinh tế biển”; hiện, đang chỉ đạo tổng kết 8 năm thực hiện nghị quyết. Thông qua đó, phát huy những mặt mạnh, kịp thời uốn nắn những khuyết điểm, tồn tại trong quá trình triển khai ở từng địa phương, cơ sở.
Hai là, triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể làm cơ sở cho các ngành, địa phương xây dựng quy hoạch chi tiết; kịp thời ban hành cơ chế, chính sách thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế biển.
Thái Bình đã và đang tích cực triển khai xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Thái Thụy, Tiền Hải đến năm 2020; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển (gồm 30 xã ở hai huyện Thái Thụy, Tiền Hải); quy hoạch phát triển du lịch dải ven biển Tiền Hải; quy hoạch khu du lịch Đồng Châu; quy hoạch khu du lịch sinh thái Cồn Vành, Cồn Đen; quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản từ năm 2001 đến 2010; quy hoạch tổng thể phát triển giao thông đến năm 2020, quy hoạch phát triển công nghiệp đến năm 2010 và 2020; quy hoạch phát triển thương mại đến năm 2010. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Thái Bình đang chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế biển thời kỳ 2010 đến 2015 và 2020. Các sở, ngành theo chức năng, nhiệm vụ đã tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành các quy định, chính sách phục vụ phát triển kinh tế biển. Việc triển khai các chính sách đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế biển. Đến năm 2008, đã có 290 doanh nghiệp đăng ký và hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển, khai thác nuôi trồng, chế biến, du lịch với tổng số vốn đăng ký 5.186 tỉ đồng, trong đó 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn 4,8 triệu USD. Cùng với khu công nghiệp Tiền Hải, khu ngư nghiệp Tân Sơn, cụm công nghiệp Cửa Lân... các doanh nghiệp và nhiều làng nghề vùng ven biển đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động. Theo thống kê sơ bộ, tổng vốn đầu tư toàn xã hội vùng ven biển giai đoạn 2001 - 2008 đạt khoảng 8.898 tỉ đồng, bằng 16,5% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Ba là, gắn phát triển kinh tế biển với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc quốc phòng - an ninh trên biển, giữ vững ổn định chính trị của các địa phương ven biển.
Những năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành công an, quân sự, biên phòng phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể chính trị - xã hội và địa phương trong việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân, các chủ phương tiện, các cơ quan, doanh nghiệp, nâng cao nhận thức, gắn phát triển kinh tế với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên biển. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận phòng thủ ven biển, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp cùng các ngành chức năng, các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện hiệu quả chương trình ký kết giữa tỉnh Thái Bình với Bộ Tư lệnh Hải quân đẩy mạnh công tác tuyên truyền về biển, đảo. Thực hiện nội dung tuyên truyền qua các hội nghị, hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, một cách có hệ thống, trên phạm vi toàn tỉnh. Vừa qua, Thái Bình đã tổ chức thành công “giờ học toàn tỉnh” với chủ đề “chủ quyền biên giới quốc gia và trách nhiệm của mỗi công dân”. Lần đầu tiên một phương thức tuyên truyền mới - tuyên truyền trực tuyến qua sóng truyền hình tỉnh đã được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân hưởng ứng tích cực, đồng tình, đánh giá cao.
Việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, nâng cao ý thức giác ngộ chính trị của cán bộ, nhân dân trên địa bàn đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố cơ sở chính trị các xã ven biển. Kết quả đánh giá, phân loại 10 năm qua, có 93% số tổ chức cơ sở đảng, chính quyền của 14 xã, thị trấn ven biển đạt trong sạch, vững mạnh, 90% số tổ chức đoàn thể có phong trào hoạt động khá. Nhân dân đã cung cấp hàng nghìn nguồn tin có giá trị giúp cho các lực lượng chức năng ngăn chặn, bắt giữ, phối hợp giải quyết kịp thời các vụ, việc tiêu cực liên quan đến an ninh trật tự và hoạt động tôn giáo trên địa bàn. Phong trào quần chúng tham gia tự quản địa bàn ngày càng được nhân rộng với nhiều mô hình, điển hình tiên tiến.
Các lực lượng công an, quân sự, biên phòng đã tích cực tham gia diễn tập, thực hiện phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn trên sông, trên biển. Đã có 48 tàu khai thác hải sản tổ chức hiệp đồng nối mạng thông tin với các đồn biên phòng nhằm bảo vệ cho ngư dân sản xuất và kịp thời thông tin xử lý những tình huống trên biển. Các chương trình tăng gia sản xuất, cung cấp nước sạch, quân dân y kết hợp được đẩy mạnh, vừa phục vụ tại chỗ cho bộ đội, vừa cải thiện đời sống cho nhân dân.
Phát huy truyền thống tương thân tương ái, uống nước nhớ nguồn, các đơn vị lực lượng vũ trang đã vận động cán bộ, chiến sĩ đóng góp, trực tiếp tổ chức xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa, nhận phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhận đỡ đầu các cháu học sinh các gia đình nghèo, tham gia xóa mù chữ cho các cháu và ngư dân tại Cồn Vành.
Bốn là, gắn phát triển kinh tế với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng biển.
Tỉnh đã chỉ đạo các huyện, thành phố, các ngành, đoàn thể, các đơn vị kinh tế ở tuyến sau phát động mạnh mẽ phong trào hướng về nhân dân và chiến sĩ biên phòng bằng nhiều hoạt động thiết thực, như tổ chức các đoàn đi thăm, tặng quà cán bộ, chiến sĩ, các đối tượng chính sách và nhân dân trên địa bàn vào các dịp lễ, tết; nhận đỡ đầu, kết nghĩa với các đơn vị biên phòng; xây dựng các công trình phòng thủ biên giới... Kết quả của phong trào không chỉ góp phần giải quyết khó khăn về vật chất, tinh thần cho nhân dân và cán bộ, chiến sĩ bộ đội biên phòng, mà điều ý nghĩa hơn là đã động viên, cổ vũ nhân dân, cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm gìn giữ biên cương Tổ quốc hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Các lễ hội truyền thống vùng ven biển được duy trì tổ chức đã đáp ứng nhu cầu về văn hóa tâm linh, tinh thần của người dân địa phương và du khách thập phương. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được các cấp ủy, chính quyền thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, được nhân dân hưởng ứng tích cực. Năm 2008, có 80,15% gia đình, 35,3% đơn vị của 2 huyện ven biển đạt chuẩn văn hóa (mức bình quân chung của tỉnh lần lượt là 72,5%, 35%). Hệ thống thiết chế văn hóa từng bước được kiện toàn. Đến nay, tất cả các xã ven biển có nhà văn hóa, điểm bưu điện văn hóa, tủ sách pháp luật. Phong trào văn nghệ, thể thao quần chúng ngày càng phát triển, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Khối đại đoàn kết trong cộng đồng dân cư được củng cố; tình làng nghĩa xóm thêm bền chặt; lòng tin của nhân dân với Đảng, với chính quyền ngày càng được nâng cao. Đây chính là động lực để ngăn chặn, đẩy lùi các quan điểm sai trái, sản phẩm văn hóa độc hại xâm nhập vào địa bàn.
Nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh từ biển, Thái Bình chủ trương tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, củng cố quốc phòng - an ninh; không ngừng chăm lo xây dựng đời sống văn hóa, củng cố vững chắc hệ thống chính trị vùng ven biển, tích cực phấn đầu góp phần cùng cả nước đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
Năm là, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về biển và kinh tế biển.
Lâu nay, các hoạt động kinh tế và quản lý biển đảo chưa có một cơ quan Nhà nước quản lý thống nhất mà phân tán ở nhiều bộ, ngành và các cơ quan khác nhau. Quản lý tổng hợp về biển là vấn đề mới và rất phức tạp, biển lại rộng lớn và hoạt động mang tính đa ngành. Vì vậy, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về biển và kinh tế biển có vai trò quyết định.
Sáu là, xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển và vùng ven biển.
Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển có thể chia thành các loại như:
a) Chính sách đảm bảo an toàn, an ninh cho các hoạt động kinh tế biển
Biển là môi trường hoạt động kinh tế đặc thù, có thể gặp nhiều rủi ro do diễn biến bất thường của thời tiết, thiên tai. Hỗ trợ cho loại chính sách này là các hoạt động của hệ thống dự báo thời tiết khí hậu, nhất là bão, sóng thần, hình thành các trung tâm tránh bão, các trung tâm quan sát và cung cấp thông tin cho người dân hoạt động trên biển. Hình thành lực lượng đủ mạnh để hỗ trợ một cách tích cực, có hiệu quả cao cho ngư dân khi gặp nạn. Bảo đảm cho mọi hoạt động của các lực lượng trên biển được an toàn, an ninh; phải xem đó là điều kiện thiết yếu để đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cho lĩnh vực kinh tế biển phải rất được coi trọng.
b) Các chính sách khuyến khích người dân ra biển làm kinh tế
Hỗ trợ cho loại chính sách này là các hoạt động:
- Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng biển, hải đảo. Có chính sách xây dựng phương tiện nối đất liền với đảo, tạo đà cho sự phát triển nhanh. Xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp - đô thị mới, khu du lịch và tuyến du lịch biển được kết nối, hỗ trợ nhau phát triển.
- Nghiên cứu các chính sách và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh mẽ nhân dân ra làm ăn, sinh sống lâu dài trên các đảo và lao động dài ngày trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền, biển, đảo của quốc gia.
c) Tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển
Mở rộng hợp tác quốc tế và tăng cường công tác ngoại giao để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển và phát triển kinh tế biển và vùng ven biển trên các lĩnh vực: đầu tư phát triển công nghiệp, điều tra và khai thác tài nguyên biển, đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ kinh nghiệm và thông tin, nghiên cứu khoa học - công nghệ, dự báo và cảnh báo thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ an ninh trên biển... Đặc biệt chú ý tăng cường hợp tác với các nước lân cận biển Đông và những nước có tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ mạnh về biển.
d) Các chính sách liên quan đến đầu tư
Trong hoạt động đầu tư, cần tập trung đầu tư đủ mức, đồng bộ và dứt điểm để sớm đưa vào hoạt động, phát huy cao nhất năng lực khai thác và đạt hiệu quả cao, đặc biệt là với các khu công nghiệp, cảng biển, các cơ sở sản xuất.
Đồng thời, cần quán triệt sâu sắc quan điểm về xã hội hoá trong lĩnh vực đầu tư. Khuyến khích mạnh mẽ các hình thức đầu tư phát triển kinh tế biển, kể cả các công trình thuộc kết cấu hạ tầng lớn như cảng biển, đường giao thông, các khu đô thị, khu công nghiệp... của mọi hình thức sở hữu, bao gồm cả hình thức BOT, BT...
Bảy là, phát triển nguồn nhân lực phát triển kinh tế biển.
Căn cứ quy hoạch từng ngành, lĩnh vực thuộc kinh tế biển và vùng ven biển, phát triển tổng hợp nguồn nhân lực biển bao gồm cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ biển; cán bộ quản lý, các chuyên gia và đội ngũ lao động được đào tạo chuyên sâu về các nghề như: hàng hải; khai thác và chế biến dầu, khí; đánh bắt và nuôi trồng hải sản; du lịch biển…, xây dựng cơ chế, chính sách về đào tạo nhân lực và kế hoạch phát triển nguồn nhân lực thuộc các thành phần kinh tế. Trước mắt, nhanh chóng tiến hành đào tạo và hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực cho các vùng kinh tế trọng điểm về kinh tế biển và vùng ven biển.
Rà soát lại hệ thống các cơ sở đào tạo các ngành nghề về kinh tế biển để xây dựng mạng lưới đào tạo ngành nghề biển kinh tế hợp lý. Khuyến khích việc xây dựng các cơ sở đào tạo ngành nghề biển ở các thành phố biển.
Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Từ quá trình nghiên cứu trên chúng ta thấy được tình hình phát triển kinh tế biển trong thời gian qua của tỉnh Thái Bình và một số giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế biển Thái Bình trong thời gian tới. Với vị trí địa lý thuận lợi, nguồn lợi thủy, hải sản phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển ở Thái Bình trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Phát huy thế mạnh sẵn có của ngành đối với quá trình phát triển nền kinh tế của tỉnh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phấn đấu đến năm 2020 Thái Bình trở thành tỉnh công nghiệp.
Thực tế đã cho thấy, phát triển kinh tế biển ở Thái Bình trong những năm qua đã thu được những kết quả nhất định góp phần vào sự nghiệp phát triển của tỉnh Thái Bình nói riêng và cả đất nước nói chung. Kết quả phát triển mạnh mẽ này phải kể đến sự lỗ lực của các ngư dân ven biển, bà con nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi diện tích trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản, các doanh nghiệp chế biến, sản xuấ, sự quan tâm của cán bộ các cấp, những chính sách khuyến khích của Đảng và nhà nước…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì phát triển kinh tế biển ở Thái Bình vẫn còn tồn tại những vấn đề sau: Việc nuôi trồng thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bền vững; hạn chế trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; khai thác thủy hải sản chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; phát triển tiềm năng du lịch biển còn gặp nhiều khó khăn, du lịch biển vẫn trong tình trạng chậm phát triển...
Vì vậy trong thời gian tới cần có sự quan tâm hơn nữa của nhà nước và mọi thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế biển của tỉnh. Từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ môi trường sinh thái và đưa kinh tế biển dần trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Với đề tài nghiên cứu này, em mong sẽ góp phần nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế biển của tỉnh nói riêng và của đất nước nói chung trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa.
3.2. Kiến nghị
Đối với Đảng và nhà nước
Cần có những chính sách trợ giúp, khuyến khích ngư dân vùng biển mạnh dạn đầu tư hơn nữa vào phát triển kinh tế biển. Đảm bảo thị trường tiêu thụ cho một số bà con nông dân gặp khó khăn trong nuôi trồng. Hỗ trợ vốn, giống, kĩ thuật cho một số địa phương gặp khó khăn.
Đối với chính quyền địa phương
Cần quan tâm hơn nữa đến ngư dân vùng biển, tạo điều kiện cho người dân nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản cũng như phát triển du lịch biển. Giúp các ngư dân trong việc vay vốn hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Tuyên truyền động viên bà con nhân dân tích cực tham gia sản xuất, lao động sáng tạo.
Đối với bà con nông dân
Tích cực hơn nữa trong nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản cũng như phát triển du lịch biển.
Phát triển kinh tế biển gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Khai thác thủy hải sản đi đôi với nuôi trồng, tu bổ và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư cho khai thác thủy hải sản. Phát huy tinh thần lao động hăng say, cần cù sáng tạo của ngư dân vùng biển
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế các ngành sản xuất – TS Dương Văn Hiểu
Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội năm 2010
Giáo trình Kinh tế Tài Nguyên – PGS.TS Nguyễn Văn Song
Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội năm 2009
Giáo trình địa lý kinh tế Việt Nam – Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân ( 1998)
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ngành thủy sản thời kỳ 2001- 2010 – Bộ thủy sản
Công văn 741/VPCP-KTTH bổ sung Khu Kinh tế ven biển Thái Bình vào Quy hoạch tổng thể phát triển các Khu Kinh tế ven biển Việt Nam đến năm 2020 do Văn phòng Chính phủ ban hành
Báo cáo thống kê của cục thống kê tỉnh Thái Bình
Báo người Thái Bình
www.thaibinh.gov.vn
www.google.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 60.doc