Tiểu luận Thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và một số giải pháp cho việc phát triển công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, việc cho ra đời thị trường chứng khoán là tất yếu phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo rạ linh hoạt về vốn cho các doanh nghiệp khi cần mở rộng sản xuất, huy động mọi nguồn lực của xã hội vào công tác phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, việc phát triển này mặc dù là một bước tiến cho một nền kinh tế nhưng song song với nó là một sự rủi ro vô cùng to lớn nếu chúng ta không kiểm soát được chúng một cách linh hoạt và hiệu quả sẽ dẫn đến kết quả tồi tệ như cuộc khủng hoảng kinh tế tại Thái Lan, Inđônêxia năm 1997 hay mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế của Argentina. Để thị trường chứng khoán phát triển ổn định và có thể kiểm soát được tình hình trng những tình huống xấu thì Nhà nước cần đóng một vai trò tích cực trong việc kiểm soát thông qua những chính sách đúng đắn.

doc13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và một số giải pháp cho việc phát triển công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
---------***--------- Lời nói đầu Cùng với quá trình cổ phần hóa sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình tất yếu có tính phổ biến của sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Bởi vì, việc sắp xếp và chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần tiến lên hình thành các tập đoàn Công ty đa quốc gia đủ mạnh hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới là con đường hữu hiệu để đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. ở Việt Nam, vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được đặt ra từ năm 1991. Thực tiễn 10 năm đã khẳng định rằng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước không phải là tư nhân hóa nền kinh tế mà là quá trình đa dạng hình thức sở hữu, tạo cở sở cho việc đổi mới quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, tạo động lực cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh; đồng thời cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước cũng không có nghĩa là làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà là một trong các giải pháp quan trọng để kinh tế Nhà nước phát huy vao trò chủ đạo thật sự của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bài, dựa vào những hiểu biết cá nhân về cổ phần hóa, qua sách báo vào các phương tiện thông tin đại chúng, em xin mạnh dạn đưa ra một số luận điểm cá nhân về thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và một số giải pháp cho việc phát triển công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam. Nội dung chính I : một số lý luận và khái niệm chung 1. Doanh nghiệp Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 2. Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. 3. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: a. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. b. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp. c. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 55 và Khoản 1 Điều 58 của Luật này. d. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận kinh doanh. 4. Cổ tức Cổ tức là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của Công ty để trả cho mỗi cổ phần. 5. Phần vốn góp Phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của Công ty góp vào vốn điều lệ. 6. Vốn có quyền biểu quyết Vốn có quyền biểu quyết là phần bốn góp, theo đó người chủ sở hữu có quyền biểu quyết về những vấn đề được hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông quyết định. 7.Thành viên sáng lập Thành viên sáng lập là người tham gia thông qua điều lệ đầu tiên của Công ty. Cổ đông sáng lập là thành viên sáng lập Công ty cổ phần. 8. Người quản lý doanh nghiệp Người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp doanh đối với Công ty hợp doanh, thành viên hội đồng thành viên, chủ tịch Công ty, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc, các chức danh quản lý quan trọng khác do điều lệ Công ty quy định đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần. 9. Tổ chức lại doanh nghiệp Tổ chức lại doanh nghiệp là việc chia tách hợp nhất, sát nhập và chuyển đổi doanh nghiệp. 10. Người có liên quan Người có liên quan là những người có quan hệ với nhau trong trường hợp sau: a. Doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con b. Doanh nghiệp và người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết định, hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua các cơ quan quản lý doanh nghiệp. c. Doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp d. Nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi ích ở Công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định của Công ty. e. Vợ, chồng, bố, bố nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh chị em ruột của người quản lý doanh nghiệp, thành viên Công ty, cổ dodong có cổ phần chi phối. + Cổ phần hóa doanh nghiệp là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức Công ty cổ phần, tài sản công ty được chia thành những phần gọi là cổ phần trên đó ghi giá trị cổ phiếu, lãi suất và được bán cho cán bộ Công ty và dân chúng. Những người này gọi là cổ đông. g. Thị trường chứng khoán theo từ điển thuật ngữ kinh doanh của Anh xuất bản năm 1985 định nghĩa: "Thị trường chứng khoán, một thị trường có tổ chức, là nơi các chứng khoán được mua bán theo những quy tắc đã được ấn định". Định nghĩa này đã được đưa ra thuật ngữ chứng khoán (securities) mà cổ phiếu (stocks) và trái phiếu (bonds) cũng chính là hai dạng của chứng khoán. II - thực trạng quá trình cổ phàn hóa doanh nghiệp ở nước hiện nay ở nước ta, vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được đặt ra từ năm 1991, xuất phát từ tình hình kinh tế thế giới và đặc biệt là tình hình thực tế của nền kinh tế Việt Nam, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước diễn ra với tốc độ chậm, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây r. ở đây, trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn và phù hợp với quá trình đổi mới và mở cửa, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Hiện nay với khoảng 5.740 doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 58% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Chỉ khoảng 50% DNNN làm ăn có lãi trong đó thực sự làm ăn có lãi chỉ chiếm một tỷ lệ thấp chưa đến 30%. Trên danh nghĩa, doanh nghiệp Nhà nước nộp tới 70 - 80% tổng doanh thu ngân sách Nhà nước, nhưng nếu trừ khấu hao tài sản cố định và thuế gián thu thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng góp khoảng 30% tổng doanh thu cho ngân sahs Nhà nước. Đặc biệt, nếu tính đủ chi phí về tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì doanh nghiệp Nhà nước hoàn toàn không tạo ra được tích lũy. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là tài sản cổ định, đặc biệt là máy móc, thiết bị quá cũ, lạc hậu về kỹ thuật so với thế giới từ hai đến 3 thế hệ. Hiện có đến 54% doanh nghiệp Nhà nước Trung Ương và 74 doanh nghiệp Nhà nước địa phương còn sản xuất bằng công nghệ thủ công. Quy mô doanh nghiệp Nhà nước còn bé nhỏ, vốn ít. Thực tế vốn hoạt động chỉ bằng 80% vốn ghi trong danh sách, riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi -tài sản, vật tư, hàng hóa mất mát, kém phẩm chất và thua lỗ chưa được xử lý. Với thực trạng kỹ thuật và tài chính như trên, doanh nghiệp Nhà nước hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Ngân sách Nhà nước cũng không có khả năng cấp vốn và bao cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây. Ngân hàng cho vay cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có những điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Các doanh nghiệp Nhà nước ở trong cái vòng luẩn quẩn, vốn tiếu nhưng không có cách nào để huy động. Bên cạnh đó có một thực trạng là, từ sau khi đổi mới kinh tế chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới đã kéo theo hàng loạt những biến đổi tích cực trong đất nước và đem lại những kết quả ban đầu. Nhờ đa dạng hóa các hình thức sở hữu và thiết lập một cơ cấu kinh tế hỗn hợp bao gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, cứ thế kinh tế tư bản tư nhân năng lực sản xuất đã được giải phóng song nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều vốn nhất là trung và dài hạn. Nhưng có một thực trạng là lượng vốn tồn đọng của các ngân hàng thương mại đã lên tới hàng ngàn tỷ đồng trong khi nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp rất lớn. Các ngân hàng muốn giảm lượng vốn dư bằng cách giảm lãi suất huy động nhưng không thể làm giảm nhu cầu đầu tư để sinh lợi nguồn vốn của người dân. Vì chưa có thị trường chứng khoán và chưa có chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, người dân đành đầu tư trực tiếp dưới mọi hình thức như mở cửa hàng, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê... tạo ra một thời kỳ kinh tế phong trào mới. Ngược lại trong khi vốn của Ngân hàng dư thừa thì các doanh nghiệp lại thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh do không đáp ứng được đầy đủ các quy định về cho vay của Ngân hàng. Hàng năm, nhu cầu vốn để đầu tư phát triển xã hội của Nhà nước ta là rất lớn. Năm 2000, kế hoạch mà Bộ tài chính đã đặt ra để có thể thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong năm là trên 120 nghìn tỷ đồng thì khoảng trên 40% số vốn đầu tư nói trên là của Nhà nước. Phần còn lại thì lấy ở đâu? Chính là phần đầu tư của mọi thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội và dân cư. Nếu không có những pháp luật khơi thông mạnh mẽ (trong đó có việc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam) thì việc thu hút 60% số vốn này sẽ rất khó được như mong muốn. Hiện nay, việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được coi là một giải pháp lớn để khắc phục các khó khăn nói trên, nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp Nhà nước đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ và sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế tạo ra sức bất mới trong sản xuất kinh doanh. Tính đến hết năm 2002 cả nước đã có hơn 120 DNNN thực hiện cổ phần hóa. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên 1 năm cho thấy hầu hết đều biến chuyển tích cực. Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25% số lượng lao động bình quân hàng năm tăng 10% thu nhập người lao động bình quân hàng năm tăng 20% (chưa kể thu nhập cổ tức); lợi nhuận bình quân hàng năm tăng trên 25%. Các khoản nộp ngân sách tăng bình quân trên 30% năm. Vốn điều lệ (bao gồm tích lũy từ lợi nhuận phát hành cổ phiếu, tăng bình quân 25% năm. Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân 2,5%/ tháng. Tuy nhiên nếu xét về góc độ là hàng hóa cung cấp cho thị trường giao dịch chứng khoán thì số lượng các doanh nghiệp cổ phần hóa có thể đủ tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu chưa nhiều, do một hạn chế sau: hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hóa là các doanh nghiệp nhỏ, vốn điều lệ thấp (xấp xỉ 6 tỷ/ doanh nghiệp). Mặc dù số lượng các doanh nghiệp cổ phần hóa trong những năm gần đây tăng lên nhanh chóng nhưng so với mục tiêu đã đề ra và so với số lượng DNNN không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn thì tiến trình cổ phần hóa vẫn còn quá chậm. Điều này chủ yếu do các nguyên nhân sau: + Do cơ chế chính sách cổ phần hóa chậm được ban hành và thiếu đồng bộ, thiếu tính cụ thể, quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn quá nhiều phức tạp, nhiều mặt chưa phù hợp với cơ chế thị trường. + Trước yêu cầu đổi mới, các doanh nghiệp còn nhiều bối rối lúng túng. + Một số cán bộ, địa phương, tổng Công ty Nhà nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. Do đó thiếu chủ động và chưa kiên quyết tổ chức triển khai. + Do công tác tuyên truyền giáo dục về cổ phần hóa từ trong bộ máy Nhà nước từ Trung Ương xuống địa phương chưa được đẩy mạnh và chưa được triển khai hiệu quả từ đó dẫn tới việc coi nhẹ và chưa nhìn nhận hết vai trò của cổ phần hóa. + Do môi trường kinh tế chưa thật sự bình đẳng, chưa tạo được mặt bằng thống nhất và cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển, cơ chế tài chính cho các doanh nghiệp quốc doanh chưa có, công ty cổ phần chưa có. + Việc thực hiện các quy định công khai tài chính của các doanh nghiệp chưa thành nề nếp thường xuyên. Các thông tin về tài chính về cổ phần hóa chỉ được phổ biến trong nội bộ doanh nghiệp và cơ quan liên quan, chưa được phổ biến rộng rãi ra bên ngoài. Đây là trở ngại chính làm cho công tác cổ phần hóa chưa được sự hưởng ứng tham gia đông đảo của công chúng đầu tư bên ngoài doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặt khác, việc bàn cổ phiếu hiện do chính doanh nghiệp cổ phần hóa thực hiện nên còn thiếu tính minh bạch khách quan. + Nhưng đặc biệt quan trọng là các chế độ chính sách ưu đãi, khuyến khích chưa thực sự là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa. Nhiều doanh nghiệp còn tỏ ra rất e dè với chủ trương này của Đảng và Nhà nước, chưa có sự nhận thức đầy đủ và tỏ ra chưa sẵn sàng để thực hiện công tác cổ phần hóa. III - Giải pháp cho việc phát triển công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tại việt nam Để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, nâng cao chất lượng doanh nghiệp cổ phần hóa góp phần hỗ trợ và qua đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể sau: - Thủ tướng Chính phủ tiếp tục giao chỉ tiêu cổ phần hóa cho các địa phương, trong kế hoạch và danh mục các doanh nghiệp cổ phần hóa của từng địa phương phải đồng thời xác định các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn ra niêm yết trên thị trường chứng khoán, từ đó gắn quá trình cổ phần hóa với việc phát hành chứng khoán ra niêm yết. - Đào tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn thực hiện cổ phần hóa của các cán bộ Nhà nước làm lãnh đạo doanh nghiệp. - Tiếp tục cải tiến quy trình cổ phần hóa thu hướng đơn giản và dễ thực hiện. - Một giải pháp nữa nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa đó là việc cho vay để mua cổ phần nhằm tăng tỷ lệ mua cổ phiếu của người lao động trong Công ty, đồng thời giải tỏa tâm lý ngán ngại của người lao động khi không có đủ tiền mua cổ phần khi các Công ty rao bán. Ngay từ đầu năm 2000, nhiều Ngân hàng đã lên kế hoạch cho lao động ở một số Công ty đang điều hành cổ phần hóa vay vốn mua cổ phiếu. Điển hình nhất là ngân hàng Sài Gòn Thương Hà đã duyệt cho hơn 200 công nhân của Công ty đường La Ngà vay 22 tỷ đồng để mua cổ phần với phương thức công nhân dùng thu nhập hàng tháng để trả nợ vay và được trả góp trong vòng ba tháng. - Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy, hoàn thiện một hành lang pháp lý thông thoáng cho các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh đưa ra các văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện công tác cổ phần hóa doanh nghiệp một cách hiệu quả, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với đội ngũ các vị lãnh đạo các doanh nghiệp làm cho họ thấy được cái đúng đắn của các chính sách về cổ phần hóa của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh và tuyên truyền tính thời sự của công tác cổ phần hóa doanh nghiệp cho các chủ doanh nghiệp và tuyên truyền tới các cán bộ công nhân viên của Công ty để họ tham gia mua cổ phần của Công ty nhằm làm cho họ nâng cao thêm ý thức của họ về tình hình làm ăn của Công ty (kết quả của Công ty sau khi cổ phần hóa ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chính họ). Ngoài ra các ngân hàng có thể dùng quỹ xóa đói giảm nghèo cho các hệ nghèo vay vốn để mua cổ phần của Công ty. Tuy nhiên việc vay vốn để mua cổ phần hiện nay đang còn được tranh luận về tính rủi ro cao trong việc đầu tư chứng khoán. Tuy là một biện pháp đẩy nhanh quá trình bán cổ phần làm cho việc cổ phần hóa diễn ra thuận lợi hơn, nhưng có một số ý kiến cho rằng việc cho vay để mua cổ phiếu là rất mạo hiểm rủi ro, nhưng có thể nói rằng nếu giải tỏa được tâm lý e ngại này thì chắc chắn ý tưởng cho vay vốn để mua chứng khoán sẽ là một động lực để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa. Cổ phần hóa doanh nghiệp là một giải pháp quan trọng, là một tất yếu kinh tế của nền kinh tế thị trường. Nếu khắc hục được những hạn chế còn tồn tại và đề ra những giải pháp đúng đắn thì sẽ đẩy mạnh sự phát triển của công tác cổ phần hóa và thông qua đó phát triển thị trường chứng khoán và ngược lại. Kết luận Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, việc cho ra đời thị trường chứng khoán là tất yếu phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo rạ linh hoạt về vốn cho các doanh nghiệp khi cần mở rộng sản xuất, huy động mọi nguồn lực của xã hội vào công tác phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, việc phát triển này mặc dù là một bước tiến cho một nền kinh tế nhưng song song với nó là một sự rủi ro vô cùng to lớn nếu chúng ta không kiểm soát được chúng một cách linh hoạt và hiệu quả sẽ dẫn đến kết quả tồi tệ như cuộc khủng hoảng kinh tế tại Thái Lan, Inđônêxia năm 1997 hay mới đây là cuộc khủng hoảng kinh tế của Argentina. Để thị trường chứng khoán phát triển ổn định và có thể kiểm soát được tình hình trng những tình huống xấu thì Nhà nước cần đóng một vai trò tích cực trong việc kiểm soát thông qua những chính sách đúng đắn. Tài liệu tham khảo 1. Luật Doanh nghiệp Việt Nam (chương IV - Công ty cổ phần) 2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước - Nhà Xuất Bản Chính trị Quốc gia. 3. Thời báo Kinh tế - Sài Gòn. 4. Giáo trình Luật kinh doanh trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội. 5. Một số tài liệu và tạp chí khác Mục lục Lời nói đầu 1 Nội dung 2 I - Một số khái niệm chung 2 II - Quá trình cổ phần hóa tại Việt Nam hiện nay 4 III - Giải pháp cho việc phát triển công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam 9 Kết luận 11 Tài liệu tham khảo 12

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0602.doc
Tài liệu liên quan