Tiểu luận Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất ở các ngân hàng thương mại Việt Nam và giải pháp để hạn chế rủi ro lãi suất

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM VÀ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM 1.1. Những vấn đề chung về rủi ro 1.1.1. Một số khái niệm về rủi ro Rủi ro có thể xuất hiện trong mọi ngành, mọi lĩnh vực. Nó là một yếu tố khách quan nên con người không thể loại trừ được hết mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như những thiệt hại do chúng gây ra. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro nhưng nhìn chung có thể chia làm hai quan điểm: Theo quan điểm truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Theo quan điểm trung hòa, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể gây ra những tổn thất, mất mát, nguy hiểm nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội, thời cơ. Nếu tích cực nghiên cứu, nhận dạng, đo lường rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được những cơ hội tích cực mang lại từ rủi ro. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định. 1.1.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng: Thứ nhất là do khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, cố tình chây ì hoặc lừa đảo dẫn đến không trả được nợ cho ngân hàng. Thứ hai, do quản lý yếu kém hoặc tham ô của nhân viên ngân hàng, không có khả năng đánh giá chất lượng các khoản cho vay, hoặc cố tình làm sai quy định để mưu lợi riêng. Thứ ba, do các thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả năng phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng hoảng nợ dây chuyền, những thay đổi trong quyết định của chính phủ. 1.1.3. Ảnh hưởng của rủi ro tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế xã hội Rủi ro sẽ gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng: mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị tài sản; khiến ngân hàng thua lỗ, phá sản, sẽ ảnh hưởng đến những khách hàng gửi tiền cũng như khách hàng vay tiền, làm giảm niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Từ đó có thể làm nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp, sẽ kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng trong nước, trong khu vực. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay. 1.2. Rủi ro lãi suất 1.2.1. Khái niệm rủi ro lãi suất Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả lãi. Khi tài trợ, ngân hàng thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi, và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn thất cho ngân hàng. Như vậy, rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ hạn các hợp đồng kỳ hạn. 1.2.2. Nguyên nhân rủi ro lãi suất 1.2.2.1. Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản và chế độ lãi suất cố định Các tài sản và nguồn của ngân hàng có kỳ hạn khác nhau. Căn cứ vào kỳ hạn này, ngân hàng chia tài sản và nguồn thành loại nhạy cảm với lãi suất và loại ít nhạy cảm với lãi suất. Các tài sản và nguồn nhạy cảm là loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi, bao gồm loại có kỳ hạn đặt giá nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định có kỳ hạn đặt giá trên 12 tháng. Sự không phù hợp về kỳ hạn đặt giá của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất. Khe hở lãi suất = tài sản nhạy cảm lãi suất – nguồn nhạy cảm lãi suất Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm, có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm. 1.2.2.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến Lãi suất thị trường thay đổi thường xuyên, ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ thay đổi của lãi suất. Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất dương: - Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng. - Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm. Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất âm: - Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm. - Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng. 1.2.3. Phương pháp xác định rủi ro lãi suất 1.2.3.1. Phương pháp phân tích khoảng cách Tính chất nhạy cảm lợi nhuận của NHTM đối với sự thay đổi của lãi suất có thể được lượng định một cách trực tiếp bằng cách sự dụng phương pháp phân tích khoảng cách. Khoảng cách được tính bằng tổng số nguồn vốn loại nhạy cảm với lãi suất trừ đi tổng số tài sản nhạy cảm với lãi suất. Sự phân tích khoảng cách này còn được gọi là “sự phân tích khoảng cách cơ bản”. Thế nhưng, không phải tất cả tài sản và nguồn vốn loại có lãi suất cố định đều có cùng một kỳ hạn thanh toán và do vậy, sự phân tích trên có thể được tính toán một cách chính xác hơn thông qua hai cách: Cách thứ nhất là “tiếp cận mảng mãn hạn” là để đo khoảng cách đối với một vài phân khoảng mãn hạn, được gọi là “những mảng mãn hạn” để những hiệu quả của những thay đổi về lãi suất trong nhiều năm có thể tính được. Cách thứ hai được gọi là “sự phân tích khoảng cách được tiêu chuẩn hóa” giải thích các mức độ khác nhau của tính nhạy cảm lãi suất đối với tài sản và nguồn vốn nhạy cảm có lãi suất khác nhau. 1.2.3.2. Phương pháp phân tích khoảng thời gian tồn tại Một phương pháp thay thế để lượng định rủi ro lãi suất, được gọi là phân tích khoảng thời gian tồn tại, nghiên cứu tính nhạy cảm của giá trị thị trường của tất cả các tài sản và nguồn vốn của ngân hàng đối với những thay đổi về lãi suất. Phân tích khoảng thời gian tồn tại được dựa trên khái niệm về “khoảng thời gian tồn tại cảu Macaulay”, nó định lượng thời gian sống trung bình của dòng tiền thanh toán của một chứng khoán. “Khoảng thời gian tồn tại là một khái niệm rất hữu ích vì nó mang lại một xấp xỉ tốt tính nhạy cảm của giá trị thị trường của chứng khoán đối với sự thay đổi về lãi suất của nó”. Thay đổi bằng tính phần trăm về giá trị thị trường của chứng khoán » (thay đổi phần trăm về lãi suất) x (khoảng thời gian tồn tại trong các năm) Sự phân tích khoảng thời gian tồn tại liên quan đến việc so sánh khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản của một ngân hàng với khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản nợ trung bình của ngân hàng. Như vậy, cả hai phân tích khoảng thời gian tồn tại và phân tích khoảng trống là một trong những công cụ để báo cho ngân hàng biết mức độ đối mặt của nó trước rủi ro. 1.2.4. Mục tiêu của hoạt động quản lý rủi ro lãi suất Mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản lý rủi ro lãi suất là bảo vệ thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định bất chấp sự thay đổi của lãi suất. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố định. Đây là hệ số giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Hệ số này cho thấy nếu chi phí huy động vốn tăng nhanh hơn lãi thu từ cho vay và đầu tư hoặc lãi thu từ cho vay và đầu tư giảm nhanh hơn chi phí huy động vốn sẽ làm cho thu nhập lãi biên bị thu hẹp lại, rủi ro lãi suất sẽ lớn.

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất ở các ngân hàng thương mại Việt Nam và giải pháp để hạn chế rủi ro lãi suất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHTM VÀ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM Những vấn đề chung về rủi ro Một số khái niệm về rủi ro Rủi ro có thể xuất hiện trong mọi ngành, mọi lĩnh vực. Nó là một yếu tố khách quan nên con người không thể loại trừ được hết mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như những thiệt hại do chúng gây ra. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro nhưng nhìn chung có thể chia làm hai quan điểm: Theo quan điểm truyền thống, rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Theo quan điểm trung hòa, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể gây ra những tổn thất, mất mát, nguy hiểm nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội, thời cơ. Nếu tích cực nghiên cứu, nhận dạng, đo lường rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được những cơ hội tích cực mang lại từ rủi ro. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng: Thứ nhất là do khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, cố tình chây ì hoặc lừa đảo… dẫn đến không trả được nợ cho ngân hàng. Thứ hai, do quản lý yếu kém hoặc tham ô của nhân viên ngân hàng, không có khả năng đánh giá chất lượng các khoản cho vay, hoặc cố tình làm sai quy định để mưu lợi riêng. Thứ ba, do các thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả năng phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng hoảng nợ dây chuyền, những thay đổi trong quyết định của chính phủ. Ảnh hưởng của rủi ro tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế xã hội Rủi ro sẽ gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng: mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị tài sản; khiến ngân hàng thua lỗ, phá sản, sẽ ảnh hưởng đến những khách hàng gửi tiền cũng như khách hàng vay tiền,… làm giảm niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Từ đó có thể làm nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp, sẽ kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng trong nước, trong khu vực. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay. Rủi ro lãi suất Khái niệm rủi ro lãi suất Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả lãi. Khi tài trợ, ngân hàng thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi, và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn thất cho ngân hàng. Như vậy, rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kỳ hạn các hợp đồng kỳ hạn. Nguyên nhân rủi ro lãi suất Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản và chế độ lãi suất cố định Các tài sản và nguồn của ngân hàng có kỳ hạn khác nhau. Căn cứ vào kỳ hạn này, ngân hàng chia tài sản và nguồn thành loại nhạy cảm với lãi suất và loại ít nhạy cảm với lãi suất. Các tài sản và nguồn nhạy cảm là loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi, bao gồm loại có kỳ hạn đặt giá nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản và nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định có kỳ hạn đặt giá trên 12 tháng. Sự không phù hợp về kỳ hạn đặt giá của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất. Khe hở lãi suất = tài sản nhạy cảm lãi suất – nguồn nhạy cảm lãi suất Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm, có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm. Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến Lãi suất thị trường thay đổi thường xuyên, ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ thay đổi của lãi suất. Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất dương: Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng. Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm. Nếu ngân hàng duy trì Khe hở lãi suất âm: Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm. Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng. Phương pháp xác định rủi ro lãi suất Phương pháp phân tích khoảng cách Tính chất nhạy cảm lợi nhuận của NHTM đối với sự thay đổi của lãi suất có thể được lượng định một cách trực tiếp bằng cách sự dụng phương pháp phân tích khoảng cách. Khoảng cách được tính bằng tổng số nguồn vốn loại nhạy cảm với lãi suất trừ đi tổng số tài sản nhạy cảm với lãi suất. Sự phân tích khoảng cách này còn được gọi là “sự phân tích khoảng cách cơ bản”. Thế nhưng, không phải tất cả tài sản và nguồn vốn loại có lãi suất cố định đều có cùng một kỳ hạn thanh toán và do vậy, sự phân tích trên có thể được tính toán một cách chính xác hơn thông qua hai cách: Cách thứ nhất là “tiếp cận mảng mãn hạn” là để đo khoảng cách đối với một vài phân khoảng mãn hạn, được gọi là “những mảng mãn hạn” để những hiệu quả của những thay đổi về lãi suất trong nhiều năm có thể tính được. Cách thứ hai được gọi là “sự phân tích khoảng cách được tiêu chuẩn hóa” giải thích các mức độ khác nhau của tính nhạy cảm lãi suất đối với tài sản và nguồn vốn nhạy cảm có lãi suất khác nhau. Phương pháp phân tích khoảng thời gian tồn tại Một phương pháp thay thế để lượng định rủi ro lãi suất, được gọi là phân tích khoảng thời gian tồn tại, nghiên cứu tính nhạy cảm của giá trị thị trường của tất cả các tài sản và nguồn vốn của ngân hàng đối với những thay đổi về lãi suất. Phân tích khoảng thời gian tồn tại được dựa trên khái niệm về “khoảng thời gian tồn tại cảu Macaulay”, nó định lượng thời gian sống trung bình của dòng tiền thanh toán của một chứng khoán. “Khoảng thời gian tồn tại là một khái niệm rất hữu ích vì nó mang lại một xấp xỉ tốt tính nhạy cảm của giá trị thị trường của chứng khoán đối với sự thay đổi về lãi suất của nó”. Thay đổi bằng tính phần trăm về giá trị thị trường của chứng khoán » (thay đổi phần trăm về lãi suất) x (khoảng thời gian tồn tại trong các năm) Sự phân tích khoảng thời gian tồn tại liên quan đến việc so sánh khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản của một ngân hàng với khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản nợ trung bình của ngân hàng. Như vậy, cả hai phân tích khoảng thời gian tồn tại và phân tích khoảng trống là một trong những công cụ để báo cho ngân hàng biết mức độ đối mặt của nó trước rủi ro. Mục tiêu của hoạt động quản lý rủi ro lãi suất Mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản lý rủi ro lãi suất là bảo vệ thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định bất chấp sự thay đổi của lãi suất. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố định. Đây là hệ số giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Hệ số này cho thấy nếu chi phí huy động vốn tăng nhanh hơn lãi thu từ cho vay và đầu tư hoặc lãi thu từ cho vay và đầu tư giảm nhanh hơn chi phí huy động vốn sẽ làm cho thu nhập lãi biên bị thu hẹp lại, rủi ro lãi suất sẽ lớn. Các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro lãi suất Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng kỳ hạn là một công cụ tài chính phái sinh đơn giản, đó là một thỏa thuận mua hoặc bán một tài sản (hàng hóa hoặc các tài sản tài chính) tại một thời điểm trong tương lai với một giá đã xác định trước. Đặc điểm của hợp đồng này là: Thông thường, hợp đồng này thực hiện giữa các tổ chức tài chính với nhau, hoặc giữa tổ chức tài chính với khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này thường được ký kết song phương). Trong hợp đồng này, người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position), người bán gọi là người giữ thế đoản vị (short position). Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn. Đến thời điểm đáo hạn, người giữ thế đoản vị phải thực hiện bán tài sản cho người giữ thế trường vị và nhận một khoản tiền từ người mua với giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người giữ vị thế trường vị sẽ có lãi (giá trị dương), còn người giữ thế đoản vị bị giá trị âm; và ngược lại. Hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai là một công cụ tài chính phái sinh tương tự như hợp đồng mua bán, chỉ khác ở một số điểm sau: Hợp đồng tương lai thường được ký kết và thực hiện hợp đồng thông qua một môi giới trên thị trường chứng khoán và người mua và người bán thường không quen biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này. Hiện nay, những thị trường chứng khoán mua bàn hợp đồng trong tương lai là Hội đồng mậu dịch Chicago - Chicago Board of Trade( CBOT), Sở thương mai Chicago- Chicago Mercantile Exchange (CME) và Sở giao dịch các hợp đồng tương lai London. Các loại hàng hoá được giao dịch trên thị trường chứng khoán mua bàn hợp đồng trong tương lai gồm, heo, bò ,đường, len ...., sản phẩm tài chính gồm, chỉ số chứng khoán, ngoại tệ, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ. Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá rao bàn được xác định trên sàn giao dịch chứng khoán. Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: Thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu tư. Để trành những rủi ro khi thực hiện hợp đồng mua bàn trong tương lai, do người mua, hoặc người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính. Văn phòng chứng khoán phải đưa ra những qui định về yều cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với nhà môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ tại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán. Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã sử dụng nhiều nghiệp vụ này trong kinh doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư để phòng chống rủi ro do biến động lãi suất trong tương lai. Để hạn chế rủi ro biến động lãi suất trong tương lai, nhìn chung đòi hỏi các ngân hàng phải giữ vị thế trên thị trường trong tương lai đối nghịch với vị thế hiện thời trên thị trường giao ngay. Bởi vậy, một ngân hàng có kế hoạch mua trái phiếu “ tạo thế trường” trên thị trường giao ngay có thể bảo vệ được giá trị của những trái phiếu này bằng việc ký hợp đồng bán trái phiếu trên thị trường tương lai tạo vị thế đoản.nếu ngay sau đó, giá trái phiếu giảm trên thị trường giao ngay, thì sẽ có một khoản lợi nhuận được bù đắp xuất hiện từ thị trường tương lai và điều này giúp cho ngân hàng tối thiểu hoá tổn thất gây ra do biến động lãi suất. Hợp đồng quyền chọn Hợp đồng lựa chọn (quyền chọn mua hoặc bán) là một sản phẩm tài chính phái sinh rất được ưa chuộng. Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán: Cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hoá. Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option)và hợp đồng quyền chọn bán (put option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Đặc điểm của hợp đồng lựa chọn: Khác với hợp đồng mua bàn trước và hợp đồng mua bán tương lai hợp đồng quyền chọn không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm. Hợp đồng chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của mình. Người mua quyền có thể: Thực hiện quyền, hay bán quyền cho một người mua khác; hay không thực hiện quyền. Để có quyền nay, khi ký hợp đồng, người cầm hợp đồng phải trả quyền phí; giá trong hợp đồng được gọi là giá thực hiện hay là giá nổ (Strike price); ngày định trong hợp đồng gọi là ngày đáo hạn hay hày thực hiện. Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Hợp đồng hoán đổi lãi suất Nghiệp vụ hoán đổi: là một hợp đồng trong đó hai bên thoả thuận trao đổi nghĩa vụ thanh toán. Thông thường giao dịch này bao gồm các thanh toán lãi, và trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi ngoại tệ là sản phẩm của thị trường phi tập trung (OTC) được kết hợp trực tiếp giữa hai ngân hàng, hoặc giữa ngân hàng với khách hàng. Theo đó không có mẫu chuẩn của hợp đồng giao dịch hoán đổi và các hợp đồng kiểu này sẽ khác nhau về một số nội dung. Trước khi các giao dịch hoán đổi xuất hiện, bên vay và bên cho vay thường bị giới hạn ở lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi, cấp vốn hoặc cho vay trên cơ sở tiền mặt. Nhà đầu tư hoặc ngân hàng sẽ gặp phải sự không tương xứng về lãi suất giữa tài sản có và tài sản nợ. Ví dụ công ty vay lãi suất cố định , nhưng lại đầu tư vào thị trường lãi suất thả nổi, chắc chắn sẽ bị lỗ khi lãi suất giảm do không có khoản tăng thu nhập từ tài sản có lãi suất thả nổi. Giao dich hoán đổi được tạo ra để xử lý những sự không tương xứng này, tạo cho ngân hàng, doang nghiệp kiểm soát tốt hơn các dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Khi mới xuất hiện công cụ này vào đầu thập kỷ 1980, các ngân hàng dàn xếp các giao dịch hoán đổi cho các bên cụ thể có nhu cầu cần bổ sung cho nhau. Các ngân hàng thu được phí do làm đại diện trong các giao dịch này. Thị trườg càng phát triển, ngân hàng tham gia với vai trò chủ chốt, thực hiện những bù trừ tất cả các trạng thái với các bên ngang nhau và đối nghịch. Thu nhập được tạo ra từ sự chênh lệch giữa lãi suất hoán đổi thanh toán và nhận được, hoặc phí trả trước để giàn xếp. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT Ở CÁC NHTM VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ RỦI RO LÃI SUẤT 2.1. Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTM 2.1.1. Tình hình lãi suất huy động vốn và cho vay thị trường tiền tệ thời gian vừa qua Bước sang năm 2009, ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Một lý giải chắc chắn cho đợt điều chỉnh lãi suất huy động mới của các NH, vốn không chỉ dừng lại ở khối các NHTMCP, là nhằm chuẩn bị một nguồn vốn dồi dào trước các dự báo cho rằng nhu cầu vốn của DN sẽ đặc biệt tăng mạnh trong năm 2009. Các điều chỉnh tăng vì thế được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12/3 của các NHTM gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm. Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. Tại Ngân hàng An Bình, mức lãi suất đỉnh đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Với kỳ hạn 18 tháng, người gửi tiền được hưởng lãi suất 9%/năm; 24 tháng: 9,2%/năm; 36 tháng: 9,4%/năm; 60 tháng: 9,5%/năm. Từ tháng 8 đến tháng 10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Ngân hàng Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank) lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến đỉnh 9,5%. Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà TP.HCM (HDBank), ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng nay cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao, 9,1% và 9,3%. Tiếp tục sau đó các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như 15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi xuất huy động 0.3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8 lãi suất huy động vốn VND đã lên tới đỉnh là 10.3%. Đến đầu tháng 11 nhóm NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động VND với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động USD từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn. Hiện nay, lãi suất của các ngân hàng đã lên tới 9.99%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Lãi suất huy động tiền gửi VNĐ năm 2009 Ngày 25/11/2009, NHNN bất ngờ công bố quyết định tăng lãi suất cơ bản lên mức 8% năm, áp dụng từ ngày 1/12/2009. Đây là quyết định khá bất ngờ, bởi trong 11 tháng liên tiếp duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7%/năm, NHNN vẫn khẳng định sẽ giữ mức này tối thiểu đến hết năm 2009. Với mức lãi suất cơ bản mới, trần lãi suất kinh doanh tại các ngân hàng thương mại là 12%/năm, thay vì mức 10,5%/năm trước đó. NHNN cũng tăng một loạt lãi suất tái cấp vốn (từ 7% lên 8%/năm) và lãi suất chiết khấu (từ 5% lên 6%/năm). Ngay sau đó, các NHTM đã đồng loạt tăng lãi suất huy động lên mức 10,49%/năm, sát với mức rào mà NHNN lên tiếng. Ngày 26/11, Ngân hàng Nhà nước trực tiếp tăng thêm 5% tỷ giá bình quân liên ngân hàng, thu hẹp biên độ từ +/-5% về +/-3%. Để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư những ngày gần Tết Nguyên Đán, gần đây, các ngân hàng đã mạnh tay điều chỉnh lãi suất kỳ hạn ngắn ngày. ACB vừa tiếp tục tăng lãi suất huy động vốn bằng VND ở hầu hết các kỳ hạn. Đây là đợt tăng lãi suất thứ 4 của ACB kể từ đầu tháng 12 đến nay. Theo đó, kỳ hạn 1 tuần, với mức tiền gửi từ 5 triệu đến 100 triệu đồng tăng từ 9,97%/năm lên 10,02%/năm; kỳ hạn 2 tuần tăng từ 10,02%/năm lên 10,12%/năm; kỳ hạn 3 tuần tăng từ 10,07%/năm lên 10,27%/năm. Đặc biệt, khách hàng gửi số tiền từ 5 tỷ đồng trở lên (kỳ hạn 3 tuần) lãi suất nhận được lên đến 10,32%/năm. Thậm chí, ABBank vừa đưa ra kỳ hạn gửi một ngày với số tiền gửi tối thiểu 50 triệu đồng. Lãi suất tăng theo số tiền gửi, thấp nhất 4%/năm, với số tiền gửi từ 50 triệu đến dưới 500 triệu đồng; từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ đồng lãi suất 4,5%/năm; trên 1 tỷ đồng lãi suất 5,5%/năm. 2.1.2. Nguyên nhân làm tăng rủi ro lãi suất của các NHTM 2.1.2.1. Nguyên nhân từ chính sách tiền tệ của NHNN Tăng trưởng tín dụng quá cao là nguyên nhân chính khiến thị trường huy động vốn căng thẳng như hiện nay. Thực tế, việc tăng trưởng tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước và cả các ngân hàng thương mại lường trước do chương trình hỗ trợ lãi suất (tính chung là có đến 5 chương trình) được triển khai từ đầu năm đến nay. Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất tuy ở mức hơn 445.000 tỷ đồng, song đây chính là lực đẩy khiến “con tàu tín dụng” không sao phanh lại được, dù Ngân hàng Nhà nước liên tục có cảnh báo đối với các tổ chức tín dụng. Theo công bố mới đây của SBV, năm 2009, tín dụng cả nước tăng gần 38% so với năm 2008. Như vậy, so với chỉ tiêu đưa ra lần cuối là 30% (ban đầu là 27%) thì thực tế đã cao hơn 8%. Lý giải điều này, nhiều chuyên gia trong ngành cho rằng do năm nay gặp khủng hoảng nên hệ thống ngân hàng phải thực hiện giải ngân cấp bách vốn kích cầu, với lãi suất thấp, nhờ đó nên tín dụng tăng mạnh. Tuy nhiên, trong thực tế, con số tăng trưởng của SBV đưa ra chỉ là định hướng, chứ không có quy định nào bắt buộc các NHTM phải theo hạn mức đó. Bởi thực tế, hoạt động tín dụng phải căn cứ theo tín hiệu thị trường, vào tương quan cung – cầu tiền tệ, vào khả năng quản trị kinh doanh của từng ngân hàng... Do nhu cầu đầu tư và kinh doanh tăng mạnh, người dân và doanh nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn đã tạo ra áp lực tăng trưởng tín dụng mạnh. Mặt khác, do lạm phát hằng năm tăng cao nên trong khoản tăng tín dụng thực tế đã bị lạm phát khấu trừ một phần lớn, vì vậy giá trị tín dụng thực tế đưa vào nền kinh tế thường thấp hơn con số công bố, nhưng điều này chưa thấy cơ quan nào đề cập. Trong 3 năm qua, mặc dù hằng năm SBV đều đưa ra định hướng trần tín dụng nhưng thực tế lại khác xa. Năm 2009, thực tế vượt chỉ tiêu 8%. Năm 2008, trần tăng trưởng tín dụng đưa ra là 30%, song thực tế là 37,7%. Còn năm 2007, giới hạn này là 22% thì thực hiện là 37,8%... Một nguyên nhân nữa là để bình ổn thị trường ngoại hối, trong tháng 12/2009, Ngân hàng Nhà nước đã bán ra một lượng lớn ngoại tệ nên các ngân hàng thương mại cũng “tốn” một lượng VND không nhỏ cho việc này. Trước tình hình căng thẳng của thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã phát đi thông điệp sẽ hỗ trợ thanh khoản cho ngân hàng thương mại nào thiếu hụt tạm thời. Hiện tổng phương tiện thanh toán đã ở mức 28,67% - vượt mức dự kiến (25%) của Ngân hàng Nhà nước. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cũng hơn một lần khẳng định sẽ làm mọi cách để giữ mức cung tiền trong tầm kiểm soát. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước sẽ không dễ gì tung tiền ra “cứu” ngân hàng thương mại. Nếu như trước đây một ngân hàng nào đó thiếu thanh khoản sẽ được những ngân hàng lớn hỗ trợ, thì ba năm trở lại đây tinh thần “tương thân tương ái” này giữa các ngân hàng thương mại không còn nữa. Hầu hết ngân hàng thương mại lớn đều “làm ngơ” trước khó khăn của ngân hàng nhỏ. Ngoài ra, do tác động của việc nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong 10 tháng đầu năm 2009, làm cho việc kiểm soát tốc độ tăng ở mức hợp lý của các chỉ tiêu gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiềm soát lạm phát, ổn định lãi suất thị trường trong các tháng cuối năm 2009 và sẽ kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của tác động tiền tệ. 2.1.2.2. Nguyên nhân từ phía các NHTM Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm. Trước hết là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gởi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn không chỉ đến với ngân hàng thương mại mà cả đối với Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng. Mặt khác, để ổn định tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần. Nguyên nhân thứ ba, và cũng là căn bệnh cố hữu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, là hệ quả từ nguyên nhân thứ nhất: sự mất cân đối về kỳ hạn giữa vốn huy động và vốn cho vay. Tuy Ngân hàng Nhà nước chưa công bố, nhưng theo ước tính của các ngân hàng thương mại, hiện hơn 90% vốn huy động VND của các ngân hàng là dưới 12 tháng; trong khi tỷ lệ này trong cho vay trung và dài hạn là 40%. Cụ thể hơn, nếu nhìn vào bảng huy động lãi suất VND của ngân hàng thương mại có thể thấy rõ sự mất cân đối này. Ví dụ lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng của SHB là 10,44%/năm; từ 12 tháng đến 36 tháng có mức chung là 10,48%/năm. Ở ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng và 6 tháng đều ở mức 10,49%/năm. Hay ở Techcombank, lãi suất kỳ hạn 1 tháng cao hơn 15 tháng, tương ứng là 10%/năm và 9,20%/năm. 2.1.3. Các biện pháp được áp dụng để hạn chế rủi ro lãi suất 2.1.3.1. Ngân hàng Nhà nước Hệ thống ngân hàng Việt Nam 2009 vẫn trong sự an toàn, mặc dù một số ngân hàng có biểu hiện thiếu thanh khoản vào cuối năm. Dưới sự chỉ đạo nhanh và linh hoạt của Chính phủ, ngành ngân hàng đã triển khai thành công gói hỗ trợ kích cầu thứ nhất với hình thức hỗ trợ lãi suất 4%, dư nợ hỗ trợ đạt trên 450.000 tỷ đồng, chiếm hơn ¼ dư nợ của toàn hệ thống. Đây là một giải pháp có sự khác biệt so với các nước trên thế giới và mang lại hiệu quả cao cho kinh tế Việt Nam; giúp nhiều doanh nghiệp duy trì được sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động trong năm 2009. Dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2009 tăng 38%, trong khi dư nợ 2008 chỉ tăng 22%. Đây là một trong những thành công, vì trong khi đó các nguồn vốn khác bị suy giảm như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI, ODA và ngay cả vốn kiều hối gửi về cũng giảm. Do đó, vốn tín dụng tăng cao hơn so với dự kiến, trở thành tác nhân quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ở mức 5,2%. Trong 2 năm gần đây, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá đã 3 lần được điều chỉnh để đối phó với những biến động của kinh tế trong nước và thế giới, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Cụ thể, sau giai đoạn mở rộng cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, từ nửa cuối năm 2007 đến nửa đầu năm 2008, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá được điều chỉnh theo hướng thắt chặt để đối phó với lạm phát, mà đỉnh cao là việc nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm vào tháng 6/2008. Tuy nhiên, từ cuối năm 2008, nguy cơ lạm phát cao tạm thời lắng xuống. Để từng bước phục hồi kinh tế, tạo đà cho tăng trưởng GDP, Chính phủ chủ trương nới lỏng hơn chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá trên cơ sở bám sát theo dõi và phản ứng linh hoạt với diễn biến thị trường. Việc nới lỏng hai chính sách này đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP khi chỉ số này liên tục tăng qua các tháng, nhưng cái giá phải trả là nguy cơ lạm phát cao quay trở lại cũng nhưng rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô. Bởi vậy, Chính phủ bắt đầu phát đi những tín hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ, cụ thể là động thái nâng lãi suất cơ bản lên 8%/năm kể từ ngày 1/12/2009 của Ngân hàng Nhà nước. Những động thái vừa qua của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đang có một sự dịch chuyển nhất định trong điều hành chính sách, từ kích thích kinh tế để duy trì tăng trưởng sang mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện qua các quyết định về lãi suất, tỷ giá và một số biện pháp giám sát, kiểm soát tín dụng vừa qua. Trong năm này, NHNN tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về ngân hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển của ngành và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, nhất là Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng cũng như các quy định về ngoại hối, về bảo đảm an toàn, về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, đi đôi với việc củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng… NHNN cũng điều hành khá đồng bộ, hài hòa, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là kết hợp giữa điều hành tỷ giá và lãi suất; kịp thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng ngày càng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ; phát triển mạnh công nghệ ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; đa dạng hoá và nâng cao hơn chất lượng  dịch vụ ngân hàng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội, cải thiện đáng kể cơ cấu doanh thu từ các dịch vụ ngoài tín dụng, nâng cao năng lực hoạt động, khả năng cạnh tranh và bảo đảm tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng trong nước Ngay sau khi có các quyết định của Chính phủ, NHNN đã khẩn trương ban hành các thông tư hướng dẫn, tổ chức chỉ đạo đẩy mạnh triển khai trong toàn ngành khẩn trương và có hiệu quả cơ chế hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng sản xuất kinh doanh theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/1/2009, Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Thành lập Tổ công tác xử lý khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quan hệ tín dụng với ngân hàng tại địa bàn TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội; duy trì đường dây nóng của Ngân hàng Nhà nước để tiếp nhận, xử lý thông tin, khiếu nại tố cáo của người dân và doanh nghiệp liên quan đến việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất. Ngoài ra, NHNN cũng đã tăng cường phối hợp với các bộ, ngành để bảo đảm nhất quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; tạo thêm kênh giám sát của xã hội đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng; nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế; tăng cường hợp tác quốc tế, nâng vai trò, vị thế của Việt Nam trong cộng đồng tài chính, tiền tệ quốc tế. Đồng thời, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách và hoạt động ngân hàng, nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa các tin đồn, tạo sự đồng thuận của xã hội đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng. Đặc biệt, đóng góp lớn nhất của chính sách tiền tệ vào sự ổn định và phát triển của đất nước là tiếp tục giữ ổn định thị trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh nghiệp và cung ứng kịp thời các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của  đất nước trong phạm vi  an toàn tín dụng cho phép; từng bước khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới; củng cố niềm tin của nhà đầu tư và của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng và các giải pháp kích cầu của Chính phủ.  Đồng thời, trong năm 2009, Ngân hàng nhà nước cũng đã tiến hành thanh, kiểm tra hoạt động cho vay hỗ trợ lãi suất, việc tuân thủ chế độ quản lý ngoại hối và tuân thủ các giới hạn an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Việc kiểm tra ba nội dung trên sẽ được tiến hành thường xuyên liên tục ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước. Mục đích của việc thanh, kiểm tra nhằm đánh giá thực trạng các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước. Qua đó, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh tồn tại và xử lý nghiêm các sai phạm nhằm thực hiện có hiệu quả chủ trương kích cầu của Chính phủ; đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống. Và trong ngày 2/12, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành văn bản số 9484, gửi các ngân hàng thương mại và Hiệp hội Ngân hàng thông báo sẽ “thanh tra toàn diện hoạt động của tổ chức tín dụng có mức lãi suất huy động đồng Việt Nam từ mức 10,5%/năm trở lên”. Các Ngân hàng thương mại chỉ được phép áp dụng lãi suất huy động đồng Việt Nam cao nhất dưới 10,5%/năm. Những trường hợp tăng lãi suất huy động từ mức 10,5%/năm trở lên, phá vỡ mặt bằng huy động trên thị trường, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành xem xét toàn diện hoạt động của tổ chức tín dụng đó. 2.1.3.2. Ngân hàng thương mại Từ hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, có lẽ chưa bao giờ hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải cùng lúc đứng trước nhiều thách thức như năm 2009. Đó là: vừa phải gia tăng cho vay tín dụng kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống lại nguy cơ suy giảm kinh tế trong khuôn khổ gói chính sách khẩn cấp chung của Chính phủ; mặt khác, vừa phải đề phòng nguy cơ tái lạm phát cao; vừa phải tăng cường đáp ứng nhu cầu về ngoại hối nói riêng và nguồn vốn cho doanh nghiệp nói chung trong bối cảnh suy giảm nguồn tiền huy động và nguồn thu ngân sách trong nước, nguồn thu tài chính từ nước ngoài, nhất là thu từ xuất khẩu, FDI; vừa phải chịu áp lực giữ vững nguồn dự trữ ngoại hối và phải  thích ứng với các yêu cầu tự do hoá và cạnh tranh bình đẳng thị trường, bảo đảm tính kịp thời và linh hoạt trong phản ứng chính sách trước các biến động mau lẹ, khó lường của bối cảnh trong nước và quốc tế… Trước tình hình đó, để hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM đã thực hiện điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, đẩy mạnh công tác huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế vì đây là nguồn vốn ổn định, ít có sự biến động lớn có thể xảy ra cùng một lúc. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, để đáp ứng nhu cầu thanh toán, các ngân hàng có thể sử dụng tạm thời nguồn vốn vay liên ngân hàng nhưng sau đó phải bù đắp ngay bằng nguồn vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế. Vì vậy, dù có thể huy động nguồn vốn vay liên ngân hàng với chi phí thấp hơn nhưng một số ngân hàng vẫn chú trọng huy động từ thị trường dân cư và tổ chức kinh tế với những chương trình khuyến mãi có giải thưởng lớn (như gửi tiền nhận vàng, gửi tiền trúng Mercedec,… ) hay lãi suất cao. Các ngân hàng tiến hành phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo quy định của NHNN. Đồng thời kiểm tra, rà soát lại các khoản vay, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, cập nhật thông tin về khách hàng để có thể biết được khả năng trả nợ của khách hàng nhằm dự báo được luồng tiền thu vào từ nguồn khách hàng trả nợ. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đã tiến hành thành lập Hội đồng quản lý tài sản nợ và tài sản có, phát huy vai trò, tầm quan trọng trong hoạt động của Hội đồng để có thể bảo vệ lợi nhuận của ngân hàng khỏi những rủi ro có thể xảy ra. Khai thác các dịch vụ ngân hàng khác làm tăng lợi nhuận từ các dịch vụ, giảm áp lực tìm kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay, qua đó có thể hạn chế được nợ quá hạn, đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng, góp phần kiểm soát tốt khe hở kỳ hạn để tránh rủi ro lãi suất cũng là một trong những biện pháp được các ngân hàng áp dụng. 2.2. Một số giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM 2.2.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Để kiểm soát rủi ro lãi suất, NHNN cần phải: Thứ nhất là điều hành linh hoạt, thận trọng chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá để tạo môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng, kiểm soát lạm phát; hạn chế sử dụng biện pháp can thiệp hành chính đối với thị trường để tránh gây sốc hoặc làm gia tăng rủi ro đối với các tổ chức tín dụng. Thứ hai, đảm bảo nắm bắt, đánh giá kịp thời các diễn biến của thị trường, trong đó, nắm bắt nhanh những diễn biến của các yếu tố như lãi suất, tỷ giá, giá vàng,… dự báo những diễn biến kinh tế có tác động tới ngân hàng nhằm phục vụ hiệu quả cho hoạt động quản lý của NHNN. Thứ ba, cần tập trung thanh tra, giám sát chặt chẽ hoạt động cho vay bất động sản, cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, tín dụng tiêu dùng, kinh doanh ngoại hối, các nghiệp vụ ngân hàng mới. Thứ tư, ngoài việc kiểm soát mức độ an toàn trong chi trả của các tổ chức tín dụng thông qua các tỷ lệ đảm bảo an toàn, NHNN còn phải kiểm soát thông qua các chỉ tiêu khác như dự trữ bắt buộc hoặc khe hở kỳ hạn để bảo vệ các tổ chức tín dụng khỏi những rủi ro có thể làm đổ vỡ hệ thống như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng,… Thứ năm, NHNN cần tăng cường quan tâm, chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các NHTM thông qua việc phổ biến kinh nghiệm về quản lý rủi ro của các ngân hàng trong và ngoài nước, hỗ trợ các NHTM đào tạo, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ. 2.2.2. Đối với NHTM Bên cạnh nỗ lực của NHTM trong việc kiểm soát rủi ro lãi suất, các NHTM cần phải: Thứ nhất, kiềm chế tốc độ tăng trưởng và kiểm soát chất lượng tăng trưởng tài sản có và dư nợ tín dụng để đảm bảo an toàn tăng trưởng và hiệu quả kinh tế theo quy mô. Việc mở rộng quy mô hoạt động phải gắn liền với việc cải thiện tương xứng về năng lực quản trị, kiểm soát hoạt động. Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị điều hành trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc, thông lệ quản trị ngân hàng hiện đại, quan tâm hoàn thiện các chính sách, quy trình, thủ tục phù hợp để kiểm soát có hiệu quả các rủi ro trọng yếu. Thứ ba, nhanh chóng giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng xuống mức trung bình trong khu vực vào năm 2010, tiếp tục tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tăng cường các trang thiết bị hiện đại, tiếp tục triển khai các mô hình tổ chức và quản trị hiện đại, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, phát triển hệ thống thông tin quản trị, tăng cường nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, đa dạng hóa dịch vụ. Thứ năm, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro cho cán bộ. Thứ sáu, xây dựng quy trình xét duyệt tín dụng chặt chẽ để có thể xây dựng được kế hoạch giải ngân tương đối chính xác đồng thời thiết lập tốt mối quan hệ với khách hàng để có những dự báo đúng về khả năng rút vốn, khả năng trả nợ của khách hàng nhằm phục vụ tốt công tác dự báo thanh khoản của ngân hàng. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110928.doc
Tài liệu liên quan