Tiểu luận Thực trạng và ảnh hưởng của lạm phát đến kinh tế năm 2010 - 2011

Triển vọng kiềm chế lạm phát ở Việt Nam Trong thời kỳ tới đây, lạm phát ở nước ta sẽ vẫn tiếp tục mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi. Động thái của lạm phát sẽ chịu sự quy định của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, ngắn hạn và dài hạn, “quen” và “lạ” liên quan đến quá trình tiếp tục chuyển đổi, hoàn thiện mô hình, cơ chế nền kinh tế thị trường Việt Nam.  Thứ nhất, quá trình hội nhập với thế giới trong xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa là một nhân tố bên ngoài mới lạ, có tác động hai chiều khá linh động và phức tạp đến động thái lạm phát ở nước ta. Dưới góc độ tích cực làm dịu lạm phát, nó cho phép chúng ta nhập được nguồn hàng rẻ, dồi dào từ bên ngoài, trực tiếp làm tăng tổng cung trên thị trường, điều hòa cân đối cung cầu. Đồng thời việc cắt giảm thuế theo quy định của AFTA, WTO sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) từ thuế quan mà hiện đang chiếm tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu NSNN của Việt Nam. Các xung lực mất ổn định tiền tệ tăng lên, chiếc bẫy lạm phát gắn với tự do hóa ngoại thương sẽ khởi động và gia tăng tác động. Các nhân tố bên ngoài gây mất ổn định tài chính - tiền tệ sẽ càng nhiều hơn, mạnh hơn bất chấp những mong muốn chủ quan của chúng ta, và luôn có nguy cơ thách thức năng lực điều tiết vĩ mô của Chính phủ.  Thứ hai, trong tương lai biến động của lạm phát ở Việt Nam tùy thuộc rất nhiều vào kết quả cải cách khu vực kinh tế nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).Khu vực DNNN đã và đang còn chiếm phần chủ yếu trong NSNN cả về các khoản thu lẫn các khoản chi (mà nhất là chi). Mặt khác, nó có liên quan mật thiết và mạnh mẽ với các vấn đề môi trường kinh doanh và xã hội của Việt Nam trong cả hiện tại lẫn tương lai.

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và ảnh hưởng của lạm phát đến kinh tế năm 2010 - 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH SÁCH NHÓM STT HỌ VÀ TÊN MSSV 1 Lư Thị Thu Ba 10158331 2 Nguyễn Thị Châu 10035411 3 Doãn Thị Nguyệt Hiền 10243281 4 Lý Kim Huyền 10048491 5 Ngô Thị Lý 10039441 6 Phan Thị Lành 10298241 7 Dương Bích Ngân 10008155 8 Nguyễn Thị Ngọc 10058291 9 Lê Thị Thu 10044721 10 Trần Thị Thương 10036831 11 Vũ Huyền Trang 10042531 CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU Trong bối cảnh kinh tế đất nước đầu năm 2011, nói đến kinh tế vĩ mô là chúng ta nói đến lạm phát, tăng trưởng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán tổng thế, tỷ lệ giữa đầu tư và tích lũy, tỷ lệ thất nghiệp, biến động của tỷ giá và dự trữ ngoại hối nhà nước, tỷ lệ nợ quốc gia, tỷ lệ nợ công…. Các chỉ số và tỷ lệ trong các lĩnh vực nêu trên phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại và đan xen lẫn nhau, và trong nhiều trường hợp lại có tính triệt tiêu lẫn nhau (được chỉ tiêu này lại mất chỉ tiêu kia). Do vậy, tùy theo tình hình, đặc điểm của mỗi nước trong từng giai đoạn mà người ta quyết định chỉ tiêu nào là chỉ tiêu tiên quyết phải đạt được, các chỉ tiêu khác là các chỉ tiêu thỏa hiệp, sẵn sàng nhân nhượng, hay nói một cách khác là sẵn sàng điều chỉnh để nhằm đạt được các chỉ tiêu tiên quyết. Phân tích đặc điểm kinh tế của đất nước ta đầu năm 2011 cho thấy lạm phát tăng cao trong nhiều năm và có biểu hiện tiếp tục tăng cao hơn trong năm 2011; nền kinh tế nước ta đã có độ mở và hội nhập rất lớn (kim ngạch xuất, nhập khẩu đã trên 154% GDP). Trong bối cảnh đó, theo phân tích, đánh giá của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phát triển quốc tế, Việt Nam nên chọn mục tiêu kiềm chế lạm phát; cải thiện và tăng dự trữ quốc gia là hai mục tiêu tiên quyết cho giai đoạn phát triển hiện nay; các mục tiêu khác phải là các mục tiêu thỏa hiệp, sẽ điều chỉnh một cách thích hợp nhằm đạt được hai mục tiêu tiên quyết nói trên. Điều này có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay, tạo ra một sự nhất quán trong các chính sách và giải pháp của Chính phủ và khi đạt được các mục tiêu tiên quyết này sẽ củng cố và nâng cao được vị thế đối nội và vị thế đối ngoại của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, với đặc điểm là một quốc gia đông dân, lực lượng lao động trẻ, dồi dào, trình độ về cơ bản còn thấp, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền, địa phương, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hài hòa với bài toán tăng trưởng ở mức hợp lý để giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh, trật tự, an toàn xã hội. Kết luận 02-KL/TW của Bộ Chính trị cũng như Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ đã chỉ rõ những chủ trương, chính sách, giải pháp đồng bộ cho các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Không có một giải pháp đơn lẻ nào có thể giải quyết được mọi vấn đề. Các giải pháp có mối liên kết, tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung nhau, có nhóm giải pháp là tiền đề, điều kiện để thực hiện các nhóm giải pháp khác, và đến lượt mình, các nhóm giải pháp này lại là cơ sở để củng cố và tạo điều kiện cho các giải pháp kia phát huy tác dụng. Do vậy, nguyên tắc cơ bản là tính đồng bộ và quyết liệt của các giải pháp, sự phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp. CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG 2.1. BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT NĂM 2010 - 2011 2.1.1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng Trong số thống kê về tỷ lệ lạm phát 11,75% do Tổng cục Thống kê đưa ra thì yếu tố tiền tệ đóng góp tới 4,65%. Vì vậy, phải có biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ là điều cần thiết. Phải kiểm soát được tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% (năm 2010 là 31%), Cung ứng tiền ra lưu thông chỉ khoảng 15% (năm 2010 là 26%) đồng thời dành tín dụng ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ và đầu tư cho các lĩnh vực thiết yếu khác trên nguyên tắc điều hành minh bạch. « Sự sụt giảm lạm phát hiện nay chủ yếu xuất phát từ hai nguyên nhân chính.  w Thứ nhất, sự tăng giá của các hàng hoá cơ bản như điện, xăng dầu đã phản ánh hết vào giá cả hàng hoá trong nước. Đồng thời, giá cả nguyên liệu đầu vào đã ổn định mà một phần là nhờ sự suy giảm giá cả hàng hoá trên thế giới.  w Thứ hai, lạm phát kỳ vọng giảm mạnh nhờ vào chính sách thắt chặt tiền tệ và những tuyên bố cắt giảm đầu tư công của Chính phủ. Điều này có nghĩa là những giải pháp chống lạm phát của Chính phủ mới chỉ có tác dụng đánh thẳng vào kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế, chứ chưa có tác dụng làm giảm đáng kể tổng cầu và chắc chắn cũng chưa thể làm cải thiện nguồn cung để làm giảm lạm phát. « Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện các chính sách sau: w Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, chính sách tiền tệ ở Việt Nam có độ trễ từ 6 – 7 tháng. Trong khi đó, tính từ thời điểm ngân hàng Nhà nước (NHNN) thắt chặt tiền tệ cho đến nay chỉ hơn ba tháng, có nghĩa là chính sách tiền tệ chưa có tác dụng đáng kể trong việc thu hẹp cung tiền trong toàn nền kinh tế mà chủ yếu mới có tác dụng thắt chặt thanh khoản của các ngân hàng thương mại (NHTM). Do đó, cần thêm khoảng thời gian 3 – 4 tháng nữa để các NHTM thu hồi lại lượng tiền đã cho vay trước đó thì chính sách tiền tệ mới có tác dụng làm giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, và qua đó làm giảm lạm phát. Cho nên, việc nới lỏng tiền tệ nhằm làm giảm lãi suất trong thời điểm hiện nay là không hợp lý và đi ngược với mục tiêu chống lạm phát của Chính phủ. Một số lập luận cho rằng, việc duy trì lãi suất cao sẽ dẫn đến tình trạng chỉ có những doanh nghiệp có rủi ro cao (vì lợi nhuận cao tương ứng) mới chấp nhận những khoản vay lãi suất cao này. Điều này sẽ làm rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng tăng cao.  Tuy nhiên, những diễn biến trong hệ thống ngân hàng hiện nay cho thấy rằng rủi ro của nền kinh tế tăng cao đã làm chùn tay các ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, đồng thời hạn mức tăng trưởng tín dụng dưới 20% trong năm nay là cơ hội cho các ngân hàng lựa chọn khách hàng tốt cho mình. Do đó, những lo ngại như trên là không có cơ sở. Bên cạnh đó, một số ý kiến lo ngại rằng chính sách tiền tệ thắt chặt kéo dài sẽ làm cho lãi suất tăng cao, gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.  Điển hình như tình trạng lãi suất cao và tín dụng bị siết chặt của ngành bất động sản (BĐS) gây ra nhiều lo lắng về tình trạng phá sản hàng loạt các doanh nghiệp BĐS và do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, lập luận này không phải bao giờ cũng đúng bởi vì việc siết chặt tín dụng BĐS sẽ buộc các doanh nghiệp có khả năng tài chính kém, tỷ lệ nợ cao phải giảm giá thành và/hoặc chuyển nhượng lại các dự án cho các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính tốt hơn.  Qua đó, giúp sàng lọc và lành mạnh hoá thị trường BĐS cũng như nâng cao chất lượng tín dụng BĐS. Xu hướng chuyển nhượng các dự án BĐS một cách rầm rộ gần đây đã chứng minh rằng thị trường này khó có khả năng sụp đổ mà đơn giản các nhà đầu tư đang chờ đợi mức giá hợp lý hơn để tham gia thị trường. Đây là dấu hiệu tích cực không chỉ cho thị trường BĐS mà còn cho hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế.  « Mặt khác, sự sụt giảm của thị trường BĐS cũng là cơ hội tốt cho các cá nhân có cơ hội sở hữu nhà và giải quyết phần nào những bức xúc về nhà ở đang tồn tại trong xã hội hiện nay. Những khó khăn về tài chính do chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ “giúp phá sản” các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và dịch chuyển các nguồn lực sản xuất của các doanh nghiệp này đến các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Điều này sẽ giúp nền kinh tế sử dụng nguồn lực sản xuất một cách hiệu quả hơn và do đó có tác dụng làm giảm lạm phát trong dài hạn.  Ngoài ra, việc Chính phủ kiên trì chính sách thắt chặt tiền tệ, cho dù sẽ làm cho một số doanh nghiệp phá sản sẽ phát đi thông điệp có tính răn đe rằng các doanh nghiệp (và cả hệ thống ngân hàng) phải tự chịu trách nhiệm với hoạt động kinh doanh của mình và sẽ không có bàn tay cứu giúp nào của Chính phủ đối với các hoạt động kinh doanh rủi ro.  Những thông điệp như vậy sẽ làm giảm “tâm lý ỷ lại” của các doanh nghiệp, ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước đối với Chính phủ và do đó sẽ giúp các doanh nghiệp này hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, qua đó làm giảm hoạt động đầu cơ và lạm phát trong nền kinh tế. Những lập luận ở trên cho thấy rằng, mặc dù chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát có thể gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nhưng chính sách này cũng giúp loại bỏ các doanh nghiệp, các hoạt động kinh doanh không hiệu quả và rủi ro cao. Điều này sẽ giúp nền kinh tế đạt được hiệu quả cao hơn trong dài hạn. Do đó, việc duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ là rất cần thiết trong điều kiện kinh tế hiện nay. « Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối .Chính phủ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ huy động và sử dụng các nguồn lực để kiểm soát bằng được tỷ giá theo quy định, không để thả nổi tỷ giá; không để cho thị trường chợ đen chi phối. Các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ cho ngân hàng và ngân hàng sẵn sàng đáp ứng đầy đủ về ngoại tệ cho các doanh nghiệp để nhập khẩu các loại hàng hóa thiết yếu mà trong nước không sản xuất được. « Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới Pháp luật của ta về quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng, vàng miếng (vàng miếng do các tổ chức kinh doanh vàng được Ngân hàng Nhà nước cấp phép dập vàng miếng) công nhận những quyền cơ bản sau đây của người dân: quyền sở hữu và cất trữ vàng miếng, quyền mua bán, trao đổi vàng miếng, quyền gửi vào và rút ra vàng miếng tại các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh vàng… « Tình hình trên có các cả nguyên nhân khách quan và chủ quan chính như sau: w Nguyên nhân khách quan: Trong thời gian qua, tình hình kinh tế vĩ mô của ta không vững chắc, lạm phát luôn ở mức cao, VND mất giá liên tục… điều này làm cho niềm tin của người dân vào giá trị VND bị giảm sút, tâm lý tiết kiệm và nắm giữ ngoại tệ, vàng gia tăng. Giá vàng quốc tế tăng mạnh và biến động thất thường vượt quá khả năng dự báo. w Nguyên nhân chủ  quan: Công tác quản lý thị trường chúng ta làm chưa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng như Công an, quản lý thị trường, Thanh tra NHNN chưa chặt chẽ và thường xuyên; các chế tài xử lý còn bất cập, không còn phù hợp với tình hình mới, tính răn đe không cao; chưa có chế độ đãi ngộ và khen thưởng hợp lý để kịp thời động viên và tạo điều kiện làm việc cho các lực lượng quản lý thị trường. Chức năng quản lý nhà nước về vàng còn bị phân tán, do đó tạo ra nhiều kẽ hở trong quản lý. Theo qui định tại Luật NHNN, Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý hoạt động kinh doanh vàng, nhưng theo các qui định hiện hành, NHNN chỉ có chức năng quản lý về vàng đối với các loại hình hoạt động sau đây: Hoạt động xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng; hoạt động sản xuất vàng miếng; hoạt động huy động và cho vay bằng vàng của các tổ chức tín dụng; quản lý vàng trong dự trữ ngoại hối nhà nước. « Trước tình hình đó ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm. Bộ Chính trị chỉ rõ: “… nhanh chóng xây dựng các cơ chế, chính sách tăng cường quản lý thị trường ngoại tệ (đô la) và vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép. Có lộ trình và biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích hợp pháp của người dân có tài sản này, quan tâm đúng mức nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân, tránh tạo ra các “cú sốc”  về tâm lý, gây bất ổn xã hội, khuyến khích, không gây trở ngại cho việc thu hút các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài về nước, tổ chức lại thị trường kinh doanh vàng”. 2.2. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng « Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu tháng 3 ước tính khoảng 1,15 tỷ USD, kéo theo tổng nhập siêu quý I-2011 lên hơn 3 tỷ USD ( trong đó, kim ngạch xuất khẩu quý I đạt 19,245 tỷ USD, tăng 33,7% so cùng kỳ năm 2010; nhập khẩu 22,274 tỷ USD,tăng23,8%). NHNN được giao điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ với lãi suất giữa tiền VN và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, huy động được các nguồn ngoại tệ hiện chưa thu hút được từ DN và các tầng lớp dân cư, kiều hối, tiền gửi từ bên ngoài vào VN, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại hối. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng để bảo đảm tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6% và tỷ lệ nhập siêu khoảng 20% trong năm 2010. Tình trạng nhập siêu quá lớn từ một số thị trường thế giới do nước ta trong giai đoạn đang đầu tư phát triển, đầu tư cho sản xuất, với phần nhiều máy móc phải nhập khẩu, hoặc do sản xuất chưa đủ, hay chưa tự sản xuất được... đã đẩy thâm hụt thương mại của nước ta ngày càng tăng. Vậy, làm thế nào để hạn chế tình trạng này?    w Hiện nay, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản là những thị trường cung cấp nhiều loại hàng hóa nhất cho Việt Nam, từ đó đã đẩy thâm hụt thương mại của nước ta với các nước nói trên ngày càng lớn. Các mặt hàng nhập khẩu chính của nước ta từ các nước nói trên là nhóm hàng nguyên phụ liệu của ngành dệt may, da giày; máy móc thiết bị, linh kiện điện tử; sắt thép; ô tô, xe máy nguyên chiếc; linh kiện ô tô; chất dẻo nguyên liệu; xăng dầu các loại; mỹ phẩm; đồ dùng gia đình... « Theo các chuyên gia, để hạn chế tình trạng nhập siêu, cần phải xây dựng hàng rào kỹ thuật. Đặc biệt, cần phân tích rõ cơ cấu nhập khẩu số lượng lớn hàng tiêu dùng không thiết yếu, để biết được những mặt hàng nào trực tiếp phục vụ sản xuất và những mặt hàng gì chỉ phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của người dân. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý sẽ định hướng chính sách rà soát để có cơ sở cấp vốn vay nhập hàng, cũng như sử dụng các biện pháp khác, trong đó có việc cấp giấy phép tự động, nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu. Việc tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu không thiết yếu phục vụ sản xuất tiêu dùng phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Cụ thể, rà soát lại các khoản thuế, dòng thuế với các hàng hóa nhập khẩu, nhất là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình của WTO đã cam kết cho phép; nghiên cứu, áp dụng các rào cản phi thuế như các rào cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc biện pháp đối kháng theo đúng những điều kiện mà WTO đã quy định. Ngoài ra, cần tăng cường kiểm tra giá tính thuế hàng nhập khẩu trong khâu thông quan, thông qua việc đưa vào danh mục quản lý rủi ro từ 13 nhóm mặt hàng, lên 20 nhóm mặt hàng vào cuối năm 2011. Ban hành quy chế xây dựng, thu thập, cập nhật và cơ sở dữ liệu về danh mục hàng hóa, biểu thuế và phân loại, áp dụng mức thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Đặc biệt, ngành chức năng cần tăng cường kiểm tra sau thông quan, thanh tra việc phân loại hàng hóa, áp dụng mức thuế với hàng hóa đã thông quan và thông báo sớm kết quả đã kiểm tra, thanh tra về phân loại hàng hóa cho khâu thông quan để các DN có biện pháp điều chỉnh kịp thời... Như vậy, đã đến lúc Nhà nước phải đánh thuế cao với nhóm mặt hàng xa xỉ. Hiện, quy định của WTO không cấm chúng ta đánh thuế cao, mà quan trọng là chúng ta có thực thi biện pháp này hay không, hoặc chí ít có thể sử dụng các biện pháp khác mà không vi phạm quy định của WTO như tạo thủ tục hành chính thuế, hải quan khắt khe hơn đối với các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ như đã nói ở trên. Đặc biệt, các ngành chức năng có thể đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn môi trường, hay các biện pháp khác như hạn chế ngoại tệ, hạn chế cho vay để nhập khẩu hàng xa xỉ không cần thiết... « Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống. « Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường. « Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011. « Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô. 2.3. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước « Chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011 đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới. « Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm). Các Bộ, cơ quan, địa phương tự xác định cụ thể số tiết kiệm, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 3 năm 2011. Số tiết kiệm thêm 10% này các Bộ, cơ quan, địa phương tự quản lý; từ quý III năm 2011 sẽ xem xét, bố trí cho các nhiệm vụ cấp bách phát sinh ngoài dự toán hoặc chuyển về ngân sách Trung ương theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước... Không bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm. « Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia. 2.4. Bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bộ Tài chính được giao tăng cường quản lý, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả chi ngân sách nhà nước. Sử dụng linh hoạt các nguồn vốn để bảo đảm yêu cầu chi của ngân sách nhà nước. Rà soát, tổng hợp nhu cầu ứng vốn năm 2011 của các dự án, công trình quan trọng, cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ để đưa vào sử dụng trong năm 2010 mà ngân sách năm 2011 nhất thiết phải bố trí vốn để thực hiện có nguồn hoàn trả vốn đã ứng. 2.5.bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng. Chính phủ giao NHNN kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; tăng cường công tác thanh kiểm tra, giám sát để đánh giá được thực trạng hoạt động của từng ngân hàng thương mại tổ chức tín dụng và của toàn bộ hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng để có phương án xử lý kịp thời khi cần thiết. 2.6. Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội « Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương: w Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. w Tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh viên,.... w Chỉ đạo các cơ quan, địa phương triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng các quy định hỗ trợ đối tượng chính sách, người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (già yếu cô đơn, không nơi nương tựa,...),... « Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, cơ quan, địa phương bố trí kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới. « Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo việc triển khai thực hiện quy định về hỗ trợ hộ nghèo khi giá điện được điều chỉnh. 2.7. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo « Tiếp tục thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường. w Bộ Tài chính chủ động điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới. w Trong năm 2011 thực hiện điều chỉnh một bước giá điện; Bộ Công Thương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong quý I năm 2011 cơ chế điều hành giá điện theo cơ chế thị trường. « Nhà nước có chính sách hỗ trợ hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện. 2.8. Đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã hội. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền « Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan chủ quản thông tin, truyền thông, báo chí: w Chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và nội dung của Nghị quyết này thông tin, tuyên truyền đầy đủ, kịp thời, nhất là các nội dung thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội, chính sách hỗ trợ hộ nghèo trực tiếp chịu tác động của việc thực hiện điều chỉnh giá điện để nhân dân hiểu, đồng thuận. w Xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không đúng định hướng của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. « Các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm. Chương 3: Thực trạng và ảnh hưởng của lạm phát đến kinh tế năm 2010 - 2011 «. Đối với trong nước, như đã trình bày ở trên, mặc dù nước ta đã bước vào ngưỡng đầu của các nước có mức thu nhập trung bình, nhưng kết cấu cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn nhiều bất cập và yếu kém. Kinh nghiệm phát triển kinh tế thế giới cho thấy mức thu nhập trung bình cũng là một cái bẫy đối với nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Khi đó tâm lý thỏa mãn lan tràn trong dân cư cũng như các nhà lãnh đạo; quyền lợi của các nhóm người trong xã hội trỗi dậy, đan xen và ràng buộc lẫn nhau kìm hãm mọi quá trình cải cách trong nền kinh tế; tham ô, tham nhũng  bóp méo mọi quan hệ của đời sống kinh tế xã hội. Quyết tâm đưa sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước lên một tầm cao mới Trong bối cảnh đó nếu không có được những quyết sách đúng đắn có ý nghĩa chiến lược mang lại cho nền kinh tế có những thay đổi về chất, đạt tới tầm phát triển cao hơn thì sau nhiều năm vẫn luẩn quẩn trong ngưỡng thu nhập trung bình. « Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn thẳng vào những tồn tại, yếu kém của nền kinh tế và kiên quyết đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ có như vậy, chúng ta mới củng cố được niềm tin trong nhân dân, phát huy được ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đưa sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước lên một tầm cao mới có sự thay đổi về chất, đưa nước ta từ một nước có mức thu nhập trung bình thành một nước về cơ bản là nước công nghiệp vào năm 2020. « Về phía quốc tế, đây thực sự là một thông điệp phấn khởi đối với cộng đồng các nhà tài trợ, các nhà đầu tư cả trực tiếp lẫn gián tiếp vào Việt Nam. Đất nước ta luôn được quốc tế đánh giá là một nước có nền chính trị vững vàng, ổn định; trật tự, an ninh luôn được bảo đảm. « Trong những giai đoạn kinh tế vĩ mô được ổn định thì Việt Nam thực sự trở thành một điểm đến lý tưởng của đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua khi lạm phát gia tăng, kinh tế vĩ mô có nhiều biểu hiện không ổn định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chững lại, đầu tư nước ngoài gián tiếp cũng nhỏ giọt. Sau khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới, mặc dù đã có dấu hiệu hồi phục song các nền kinh tế lớn tăng trưởng còn chậm, không rõ nét và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, các luồng vốn đầu tư đang đổ dồn vào các nước Đông Nam Á. Nhiều nước trong khu vực đang phải vất vả tìm mọi giải pháp để hấp thụ các luồng vốn này một cách hiệu quả nhất, đồng bản tệ của họ liên tục lên giá. w Trong khi đó tại Việt Nam, các luồng vốn này hầu như im ắng và VND liên tục mất giá. Ở những thời điểm nhất định trong thời gian qua chúng ta cũng đặt vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát nhưng không nhất quán và nhiều khi còn bị đánh đổi lấy các mục tiêu kinh tế khác. Điều này đã làm giảm lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư, các nhà tài trợ vào môi trường đầu tư của Việt Nam. Mức xếp hạng tín nhiệm đầu tư của ta bị giảm sút. Những quyết sách nêu trên của Đảng và Chính phủ đã khẳng định rõ: Kiềm chế lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ không chỉ của năm 2011 mà có tính xuyên suốt cho cả thời kỳ phát triển sắp tới. Bằng việc tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách nêu trên của Đảng và Chính phủ chúng ta nhất định sẽ khơi thông được các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần giải quyết được nhu cầu vốn vô cùng to lớn cho sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa nền kinh tế đất nước, Việt Nam vẫn sẽ là một điểm thu hút đầu tư hấp dẫn trên thế giới. Trong ngắn hạn, chúng ta có thể khẳng định rằng bằng việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp của Nghị quyết 11/NQ-CP chúng ta nhất định sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định một bước kinh tế vĩ mô. Song, kết quả đó có duy trì bền vững hay không còn phụ thuộc vào kết quả đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Nói một cách khác kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tạo môi trường thuận lợi cho quá trình đổi mới mô hình phát triển, cơ cấu lại nền kinh tế. Đến lượt mình, các kết quả và thành tựu thu được từ đổi mới mô hình phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế là cơ sở kinh tế vững chắc cho kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Nội dung đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã được phân tích trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020 và cũng đã được quán triệt sâu sắc tại Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Đây là nội dung hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành liên tục với những bước đi thích hợp vừa có tính kế thừa vừa có tính phát triển. Do vậy, đòi hỏi Đảng và Chính phủ phải kịp thời có được các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể, thích hợp cho ngay các bước đi đầu tiên. CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN TẦM NHÌN KHẢ QUAN – PHÁT TRIỂN KINH TẾ « Nền kinh tế mối nổi liên kết để phát triển Nói về tình hình Việt Nam hiện nay, Việt Nam gặp không ít khó khăn như lạm phát, thị trường tài chính có những diễn biến khó lường... Tuy nhiên, Chính phủ đã nhận ra vấn đề và có những giải phát thích hợp, thực hiện quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát, ồn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, phát triển biền vững. Các giải pháp của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Đầu tư nước ngoài và xuất khẩu trong nửa đầu năm vẫn tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng và nhập siêu có xu hướng giảm. Tuy trước mắt vẫn còn những khó khăn nhưng các nhà kinh tế, các chuyên gia và lãnh đạo các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới vẫn chia sẻ và nhìn nhận lạc quan về triển vọng trung và dài hạn của Việt Nam. « Triển vọng kiềm chế lạm phát ở Việt Nam Trong thời kỳ tới đây, lạm phát ở nước ta sẽ vẫn tiếp tục mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi. Động thái của lạm phát sẽ chịu sự quy định của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, ngắn hạn và dài hạn, “quen” và “lạ” liên quan đến quá trình tiếp tục chuyển đổi, hoàn thiện mô hình, cơ chế nền kinh tế thị trường Việt Nam. w Thứ nhất, quá trình hội nhập với thế giới trong xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa là một nhân tố bên ngoài mới lạ, có tác động hai chiều khá linh động và phức tạp đến động thái lạm phát ở nước ta. Dưới góc độ tích cực làm dịu lạm phát, nó cho phép chúng ta nhập được nguồn hàng rẻ, dồi dào từ bên ngoài, trực tiếp làm tăng tổng cung trên thị trường, điều hòa cân đối cung cầu. Đồng thời việc cắt giảm thuế theo quy định của AFTA, WTO sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) từ thuế quan mà hiện đang chiếm tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu NSNN của Việt Nam. Các xung lực mất ổn định tiền tệ tăng lên, chiếc bẫy lạm phát gắn với tự do hóa ngoại thương sẽ khởi động và gia tăng tác động. Các nhân tố bên ngoài gây mất ổn định tài chính - tiền tệ sẽ càng nhiều hơn, mạnh hơn bất chấp những mong muốn chủ quan của chúng ta, và luôn có nguy cơ thách thức năng lực điều tiết vĩ mô của Chính phủ. w Thứ hai, trong tương lai biến động của lạm phát ở Việt Nam tùy thuộc rất nhiều vào kết quả cải cách khu vực kinh tế nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).Khu vực DNNN đã và đang còn chiếm phần chủ yếu trong NSNN cả về các khoản thu lẫn các khoản chi (mà nhất là chi). Mặt khác, nó có liên quan mật thiết và mạnh mẽ với các vấn đề môi trường kinh doanh và xã hội của Việt Nam trong cả hiện tại lẫn tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbienphapkiemchelamphat.doc
Tài liệu liên quan