Qua khuôn khổ bài tiểu luận này, với kiến thức còn hạn chế em mạo muội trình bày sự cần thiết phải có sự điều tiết của chính phủ để hướng nền kinh tế đạt được những mục tiêu mà mọi nền kinh tế luôn theo đuổi là: hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Đặc biệt đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đòi hỏi phải tăng cường chứ không phải giảm nhẹ vai trò và chức năng quản lý của chính phủ. Bởi vì chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, đi sâu vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị-kinh tế thì càng đòi hỏi sự quản lý của chính phủ càng chặt chẽ và sát sao hơn nữa. Vấn đề then chốt ở đâylà ở chỗ phương thức quản lý như thế nào để vận dụng đầy đủ các yêu cầu, quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường nhưng lại đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho nền kinh tế vận động theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, đất nước ta đang trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “thì sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế của chính phủ là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của nền kinh tế nước ta.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp cho nền kinh tế Việt Nam và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà chúng ta đã có từ lâu trước chủ nghĩa tư bản. Các quan hệ ấy sẽ còn tồn tại, phát triển trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinhtế khách quan khác .
Có thể nói, kinh tế hàng hóa với hình thức phát triển của nó là kinhtế thị trường, là loại hình kinh tế- xã hội được tổ chức thông qua thị trường trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội. Nó đã tồn tại với tư cách là hình thái kinh tế mang tính thích ứng rất mạnh, có thể gắn với chế độ tư hữu, và cũng có thể gắn với chế độ công hữu. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, cho đến nay chưa có một hình thái kinh tế nào hoạt động có hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường, vì thế không có lý do gì mà chủ nghĩa xã hội lại không sử dụng nó nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo mô hình nào ? Trên thế giới có nhiều loại mô hình kinh tế thị trường :
-Kinh tế thị trường xã hội của Cộng hòa liên bang Đức hoặc Thụy Điển .
-Kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản .
-Kinh tế thị truyền thống Tây Âu .
-Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc .
Mỗi loại hình đều có những ưu điểm, nhược điểm và những nét độc đáo riêng. Vì thế, chúng ta cần khai thác những đặc trưng phổ biến và những ưu điểm của các mô hình kinh tế thị trường ,nhưng chắc chắn không có khuôn mẫu vạch sẵn cho mọi nước. Đối với từng nước, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nước mình, cũng như hoàn cảnh quốc tế mà vạch ra những nét lớn của thể chế kinh tế thị trường ,lộ trình tổng quát của bước chuyển từ nền kinh tế hiện vật , với cơ chế quản lý tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước .
Phải nói rằng chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là bước chuyển biến rất phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Mấy năm qua, bên cạnh những thành tựu lớn của đổi mới, chúng ta cũng đã thấm thía những hậu quả tiêu cực mà kinh tế thị trường mang lại, chúng ta cũng gặp nhiều thiếu xót, phạm nhiều sai lầm, lệch lạc trong các chính sách xã hội, thậm chí không những chúng ta đã không phát huy, không nhân lên, mà còn đánh mất một số thành quả đã đạt được trong các lĩnh vực giáo dục, ytế, văn hóa, trong chính sách đối với nông dân, với đồng bào miền núi, với các gia đình có công với cách mạng .
Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường không hề làm phương hại đến chủ nghĩa xã hội, mà bằng các chính sách, biện pháp và công cụ quản lý điều tiết, nhà nước phục vụ các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất .
Trước đây, mọi hoạt động của nền kinh tế đều do nhà nước chỉ huy.Bây giờ, nền kinh tế vận hành thông qua hai yếu tố cơ chế tự do của thị trường và sự điều tiết vĩ mô của chính phủ. Nhưng không vì thế mà vai trò của chính phủ giảm đi mà trái lại chính phủ ngày càng cho thấy tầm quan trọng của mình để đạt được mục tiêu chung mà mọi nền kinh tế cùng mơ ước, đó là: sản lượng cao, công ăn việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thương .
Chính phát huy cao độ mặt, mặt tích cực của cơ chế cạnh tranh và tự do hóa sản xuất-kinh doanh, đồng thời thông qua chính sách và luật pháp giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu cực và hậu quả kinh tế-xã hội do cạnh tranh đem lại, nhằm đảm bảo phúc lợi công cộng cũng như công bằng xã hội, bảo vệ môi sinh, môi trường. Trong bước quá độ, khi các “luật chơi “của thị trường chưa được thiết lập ổn định, thì không thể thả nổi cho thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà cần “bắc những chiếc cầu nhỏ “giữa kế hoạch vĩ mô định hướng và kế hoạch vĩ mô của các doanh nghiệp lớn (sau này có thể là một số tập đoàn kinh doanh). Đề ra những nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh và đầu tư trọng điểm nhằm bảo đảm những cân đối chủ yếu của nền kinh tế, giữ thị trường ổn định, từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế theo thị trường hiện đại, còn các nhu cầu thông thường hàng ngày chủ yếu để thị trường tự điều tiết .
Xây dựng thị trường thống nhất trong cả nước, có tính đến đặc thù và trình độ phát triển không đồng đều của các vùng, lãnh thổ và đặc điểm của ngành hàng . Từng bước, nhưng tích cực xây dựng hệ thống thị trường đồng bộ (thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, lao động cộng nghệ, thông tin ...), nhanh chóng tiếp cận thị trường quốc tế .
Chính phủ quản lý thị trường bằng pháp luật, chính sách và các công cụ kinh tế , gắn kế hoạch vĩ mô định hướng với các chính sách và chương trình kinh tế, tạo môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời, sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để hạn chế những mặt trái và tiêu cực của thị trường. Nhà nước phải làm sao có thực lực kinh tế làm chỗ dựa để ổn định kinh tế và định hướng thị trường. Chính phủ quản lý chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc công bằng và hiệu quả. Bên cạnh các yếu tố sản xuất khác như đất đai, vốn, trang bị công nghệ mới, tài năng kinh doanh, chính phủ thực hiện sự điều tiết để tái phân phối, nhằm sử lý hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .
Cần khẳng định vai trò của chính phủ trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, khác với vai trò của chính phủ dưới chủ nghĩa tư bản. Nếu mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu hạn chế sự tăng trưởng, nhưng phần nào giải quyết được yêu cầu cân bằng, thì mô hình kinh tế thị trường nếu không có sự điều tiết của nhà nước, chắc chắn sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa tăng trưởng và cân bằng, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những mục tiêu quan trọng mà chế độ xã hội chủ nghĩa phải đạt được .
Vị trí kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiệh đại hóa “đất nước :
1. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam :
Công nghiệp hóa , hiện đại hóa hiểu theo nghĩa chung và khái quát là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp . Đối với nước ta, công nghiệp hóa là quá trình chuyển tưd một nước sản xuất nhỏ công nghiệp lạc hậu , công nghệ và năng suất lao động thấp thành một nước có cơ cấu công-nông nghiệp và dịch vụ hiện đại , khoa học và công nghệ tiên tiến , năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân .
Cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý , có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân .Do đó công nghiệp hóa hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến . Ơ các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội , cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản dù có tiến bộ đến đâu , nó chỉ mới là tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH được . Đối với những nước này, thực hiện quy luật chung nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt quan hệ sản xuất và vận dụng những thành tựu khoa học-công nghệ mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật, biến tiền đề vật chất của chủ nghĩa tư bản tạo thành cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phân bố lại một cách đồng đều trong cả nướcvà tiếp tục hiện đại hoá ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Tại những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như ở nước ta, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện bằng cách công nghiệp hoá. Do vậy, những gì nói về tính tất yếu khác quan của việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội cũng có giá trị để nói về tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá.
Công nghiệp hóa và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau , song không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Công nghiệp hoá chỉ là cách thức tiến hành, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật là mục đích phải đạt, công nghiệp hoá hiểu theo nghĩa hẹp nó mang tính lịch sử, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật lại là mục tiêu và công việc phải tiếp tục qua các giai đoạn phát triển của phương thức sản xuất mới-cộng sản chủ nghĩa.
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hoá có những tác dụng to lớn về nhiều mặt.
-Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng xuất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người-nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng
-Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ , đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hoá với lực lượng sản xuất. Công ngiệp hoá là để thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế, kỹ thuật theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước... là nhiệm vụ trung tâm “ của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Vai trò chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta :
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây, chính phủ quyết định tất cả. Có người đã lầm tưởng rằng trong một nền kinh tế thị trường, chính phủ không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trường quyết định. Đúng là đã từng có những nền kinh tế thị trường như vậy, nhưng đó là những nền kinh tế thị trường tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trước khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính hpủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nước phương Tây người ta phải chủ trương giảm bớt sự điều tiết của chính phủ, phi nhà nước hóa. Như vậy, cho đến nay tồn tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trường (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét chúng một cách tương đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quuan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trường nhưng cũng có những khuynh hướng cạnh tranh phi kinh tế, dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hướng cạnh tranh không lành mạnh như vậy phải được ngăn chặn. Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhưng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trường tự do tác động, thì các khuynh hướng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh thế giới diễn ra vào năm 1929-1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của chính phủ chính là nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hướng nền kinh phát triển có hiệu quả.Từ đó liên hệ tới vai trò của chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “.
Ai cũng thấy số nước đạt được các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự “thần kỳ kinh tế “của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NIEs. Có người đã nhấn mạnh đến yếu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và truyền thống của Nhật Bản.Có người nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của người Nhật. Cũng có người đã nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhưng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các quốc gia trước hết phải nói tới vai trò của chính phủ với tư cách là người lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu chính phủ không mạnh, nghĩa là không có khả năng vạch ra được các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế, luật pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các chiến lược, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu quả và thu được những thành tựu nổi bật được.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: “Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một châu lục “. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana được xem là nước giầu nhất châu Phi da đen với bình quân đầu người 490 đô la Mỹ, nhưng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu người đã giảm xuống còn 400 đôla Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lược, chính sách, pháp luật không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tai hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu “Nền kinh tế chỉ tăng trưởng vào ban đêm khi chính phủ ngủ say “.
Các quốc gia như Nhật Bản và các NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai trò to lớn của chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng được một nhà nước mạnh, nhà nước này đã kết hợp được kỹ thuật phương Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển được tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên được nhân dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của chính phủ là vai trò định hướng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lược, chính sách, luật pháp,v.v...
Thực tế ở Việt Nam cho thẩy trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, chính phủ đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế nhà nước, tập thể, xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể; phát triển kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường,v.v...Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rơi vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoảng sâu sắc. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế: Chuyển hướng thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế thị trường trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp,v.v...Nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang một hướng đúng, ta đã thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hướng đi lênthoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vai trò của chính phủ đặc biệt quan trọng. Chính phủ không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng, định luật chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của chính phủ là mạnh, và rộng hơn. Trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “này, điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hướng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nước .
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp của chính phủ đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp .
Điều đó liên quan đến việc xác định những chức năng cũng như nội dung quản lý mà chính phủ phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau :
-Điều khiển vĩ mô nền kinh tế .
-Quản lý ngân sách nhà nước .
-Hoạt động kinh tế .
Trong số các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trường .
Nghiên cứu về vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp ở các nước đang phát triển, hai nhà nghiên cứu người Anh là Helen Shapiro
Lance Taylor đã khái quát chiến lược quản lý của chính phủ đối với công nghiệp trong 11 điểm như sau :
.Trong mọi trường hợp, chính phủ chỉ nên định hướng chung mà không trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp.
.Chính phủ tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc cho các doanh nghiệp.
.Chính phủ cung cấp vốn liên doanh cho các xí nghiệp mới, thường là ở các lãi suất thuận lợi đối với họ.
.Chính phủ hỗ trợ cho “các ngành công nghiệp đột phá “.
.Sự hỗ trợ cần phải được cân nhắc và xử lý cụ thể từng trường hợp. Chính phủ phải có quyền lực (và cả ý chí) cắt bỏ sự ưu đãi nếu như doanh nghiệp không đáp ứng được những tiêu chuẩn đã đề ra.
.Bản thân các tiêu chuẩn phải rõ ràng và không phức tạp.
.Lợi ích của những người gánh chịu các khoản chi phí do thực hiện các chính sách cần phải được chú ý.
.Có sự phân công sản xuất giữa xí nghiệp công cộng, xí nghiệp tư nhân và cá thể các công ty xuyên quốc gia. Xí nghiệp công cộng tốt nhất là hoạt động trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, các ngành công nghiệp “ cơ sở “ và các lĩnh vực có những đặc biệt trong thực hiện.
.Chú ý tới đào tạo và y tế.
.Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Các chương trình đầu tư của nhà nước phải được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực nhà nước và tư nhân.
.Tránh mọi sự không rõ ràng.
Chính phủ tạo điều kiện để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được phát triển nhanh chóng bằng cách:
Chính phủ tạo chỗ làm việc, giải toả sức ép về công ăn việc làm, lao động đang có xu hướng tăng lên trong nền kinh tế. Công nghiệp hoá như là một phương thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế của đất nước có một sứ mạng hết sức quan trọng trong việc phát huy nguồn nhân lực rất tiềm tàng hiện còn chưa được toàn dụng và đang trở thành một sức ép lớn đối với nền kinh tế. Trong điều kiện cụ thể của nước ta trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào những ngành sản xuất và dịch vụ cần nhiều lao động để có thể thu hút và giải toả sức ép về công ăn việc làm đang căng thẳng trong xã hội, để rồi khi sức ép này không còn gay gắt nữa, trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào các ngành khác, loại công nghệ khác. Quan điểm như vậy sẽ tác động trực tiếp tới việc hoạch định chính sách công nghệ trong lĩnh vực sản xuất.
Chính phủ hướng vào cơ cấu công nghệ nhiều tầng với sự định hướng vào những công nghệ mũi nhọn, tiên tiến một cách hiệu quả. Qúa trình cộng nghiệp hoá đất nước một mặt hướng vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng, cấp bách hiện tại, nhưng đồng thời cũng phải hướng tới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho tương lai gần ( 10-20 năm ) và tương lai xa (20-30 năm ). Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá bao gồm xây dựng cơ cấu công nghệ nhiều quy mô, nhiều trình độ, hướng hiện đại. Cơ cấu xã hội, phân công lao động xã hội không chỉ là chất kết dính các ngành kinh tế với nhau, mà còn cả các tầng công nghệ với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu ngành kinh tế. Về phần mình, sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và định hướng phát triển cơ cấu công nghệ. Do thực trạng sản xuất còn nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn thủ công, thiếu thốn nghiêm trọng, 75 % lực lượng lao động xã hội tập chung ở nông thôn và mức độ trang bị công cụ lao động, trình độ tay nghề còn thấp, sự tích luỹ vốn trong các hộ gia đình còn ít ỏi thì nhìn chung, trong những năm trước mắt vẫn cần phát triển những cộng nghệ đơn giản, dễ tiếp thu và rẻ, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội nhanh. Những công nghệ như vậy được kết hợp với nguồn lao động xã hội còn đang dư thừa lớn sẽ tạo ra công ăn việc làm, làm những sản phẩm đáp ứng ngay chính những nhu cầu đơn giản của thị trường trong nước.
Chính phủ đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phàn kinh tế. Khác với trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với sự hiện diện về cơ bản chỉ một thành phần kinh tế, hiện nay công nghiệp hoá ở nước ta được tiến hành dưới tác động của cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế mở đang thu hút ngày càng nhiều sự tham gai của các nhà đầu tư cước ngoài. Trong nhiều năm tới, chúng ta vẫn chủ yếu phải dựa vào nguồn cung cấp các công nghệ tiên tiến bên ngoài thì một môi trường đầu tư phát triẻn công nghệ hấp dẫn và thuận lợi cho cả các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Điều cần chú ý ở đây không chỉ ở sự khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư của nước ngoài. Kinh nghiệm quốc tế và nước ta cho thấy rằng, một đồng vốn ngoại tệ đầu tư bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tương đương tiền trong nước đi kèm
Chính phủ có biện pháp nhằm thống nhất hiệu quả kinh tế và hhiệu quả xã hội. Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường đặt ra một loạt vấn đề xã hội cần được xử lý giải quyết. Công nghiệp hoá là phương thức để phát triển kinh tế. Sự phát triển có thể có một mục tiêu cơ bản là nâng cao mức sống cho mọi người trong xã hội nhất là những người nghèo. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá là phân phối kết quả của phát triển kinh tế thông qua công nghiệp hoá đến được với mọi người dân trong xã hội, mọi vùng, mọi khu vực của đất nước. Quan điểm về sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu nâng cao vai trò tích cực của nhà nước trong việc điều tiết quá trình công nghiệp hóa.
3.Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Các chính sách quản lý kinh tế của chính phủ theo các mục tiêu sau:
-Kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất.
-Tạo công ăn việc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và chuyển biến cơ cấu lao động.
-Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế.
.Kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất:
Có thể nêu những tác dụng tích cực của các quy định trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đã ban hành ở nước ta có liên quan tới kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, đó là:
+Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng ( các doanh nghiệp ) quyết định lựa chọn, mau bán công nghệ, kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
+Tạo nhu cầu bức thiết đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Cơ chế thị trường buộc các cơ sở sản xuất tìm mọi cách để tồn tại và thu lợi nhuận tối đa. Cuộc cạnh tranh thực sự để tiêu thụ sản phẩm trong những năm 1989-1990-1991 khi một loạt chính sách và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường được đưa vào thực tế ( cải cách giá, lương, thả nổi đồng tiền, mở cửa nền kinh tế...) đã cho thấy, trong điều kiện như vậy sản phẩm muốn tiêu thụ được, nhất là khi có những hàng ngoại, cùng giá trị sử dụng, không phải chỉ có giá rẻ mà chất lượng phải tốt, hình dáng, mẫu mã phải đẹp, thuận tiện cho sử dụng. Muốn được mhư vậy thì chỉ có một con đường duy nhất là đổi mới và nâng cao công nghệ sản xuất.
Sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và có lãi cao là những yếu tố quan trọng bậc nhất đối với uy tín và sự phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Muốn làm được điều đó thì trước hết phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào sản xuất. Các quy định của nhà nước trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành đang được đổi mới và hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, chủ động sử dụng có hiệu quả hơn các yếu tố đầu vào này.
Mở ra những hình thức mới trong tiếp cận và trong thu hút công nghệ tiên tiến của thế giới. Chính sách mở cửa có những điều kiện ưu đãi trong việc đầu tư của nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến hợp tác kinh doanh. Các hình thức hợp tác kinh doanh có thể đa dạng ( xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài... ),nhưng có điểm chung là vốn liên doanh của bên nước ngoài góp thường là dưới dạng máy móc,thiết bị,phụ tùng, nguyên vật liệu,chuyên gia kỹ thuật,quản lý,thậm chí cả mô hình tổ chức và quản lý xí nghiệp, công ty. Lẽ đương nhiên trong lĩnh vực này còn có nhiều vấn đề phải bàn, nhưng thực tế các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài trong thời gian qua đã cho thấy cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước nhanh chóng tiếp cận và tiếp nhận công nghệ tiên tiến hơn nhiều so với công nghệ trước đây.
Đồng thời, bên cạnh những mặt tích cực thúc đẩy của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối với việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất, cũng có thể thấy những mặt hạn chế, tồn tại, đó là:
-Thiếu sự an tâm, tin tưởng từ phía người đầu tư cho phát triển công nghệ đối với tính ổn định, nhất quán của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự tin tưởng, an tâm từ phía người đầu tư phát triển ( cả ở trong nước và nước ngoài ) là một yêu cầu rất quan trọng đối với các chính sách có liên quan tới quá trình công nghiệp hoá đất nước. Những đổi mới trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế thời gian qua vẫn nchưa đáp ứng được yêu cầu này. Sự thiếu tin tưởng, an tâm để đầu tư phát triển công nghệ được thể hiện ở hiện tượng:
+ Đầu tư công nghệ chủ yếu thường là cho những sản phẩm, những lĩnh vực hoặc ngành mà thời gian hoàn vốn nhanh để tránh rủi ro.
+ Số lượng vốn bỏ ra đầu tư cho phát triển công nghệ còn quá ít ỏi. Sau 5 năm thực hiện các chhính sách và cơ chế quản lý kinh tế mới ( từ 1988 sau khi ban hành Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài, Pháp lẹnh chuyển giao công nghệ,... ) thì nhìn chung thực trạng công nghệ trong nền kinh tế chưa có chuyển biến đáng kể. Thực trạng nói trên cho thấy, các chính sách kinh tế cần phải được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa, có như vậy mới tạo ra được niềm tin cho các hành động đầu tư phát triển công nghệ hướng vào làm ăn lâu dài, với quy mô lớn và hiện đại, liên tiếp phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã họi đất nước.
-Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công nghệ sản xuất ra vừa nhỏ, vừa không chắc chắn. Do vậy khó lựa chọn và quyết định phương án phát triển công nghệ. Điều này có liên quan cả ở tầm vi mô ( các doanh nghiệp ) và cả ở tàm vĩ mô ( toàn nền kinh tế quốc dân ).
-Thiếu những chính sách hướng vào khuyến khích phát triển dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng đảm bảo tiếp nhận và khai thác có hiệu quả công nghệ mới và hoàn thiện chúng. Sự yếu kém về đảm bảo hàng hoá , dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng ở nước ta đang là một trong những cản trở lớn nhất trong chuyển giao công nghệ. Nó đã và đang làm nản lòng và để tuột nhiều dự án đầu tư, mặc dù đã có những ưu đãi rộng rãi, thậm chí những ưu đãi đặc biệt so với thông lệ quốc tế chung.
-Thiếu động lực kích thích đối với các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Sự phát triển công nghệ vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện của quá trình công nghiệp hoá. Con người là yếu tố quan trọng của sự phát triển ấy. Đây là yếu tố năng động của sự phát triển công nghệ.Hiện tại, lao động của những cán bộ làm việc trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đang thiếu những kích thích cần thiết, thậm chí có những chính sách, chế độ đối với cán bộ làm công tác nghiên cứu và triển khai khoa học kỹ thuật dẫn đến lãng phí chất xám, lãng phí tiền của vào những công nghệ nhập mà khả năng khoa học của đất nước có thể giải quyết, xử lý được.
.Tạo công ăn viêc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và chuyển biến cơ cấu lao động xã hội.
Tạo công ăn việc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và làm chuyển biến cơ cấu lao động xã hội là những nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá. Các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế mới được ban hành thời gian qua đã đã đem lại những kết quả tích cực, đó là:
- Trong khu vực kinh tế quốc doanh đã giảm bớt được tình trạng người chờ việc. Các quyết định về quản lý đối với kinh tế quốc doanh đã tạo môi trường pháp lý cho việc tổ chức lại các xí nghiệp loại này, bố trí lại dây chuyền sản xuất, bố trí lại lực lượng lao động.
- Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã mở ra những cơ hội tìm kiếm việc làm không chỉ cho số lao động dôi ra từ việc tổ chức lại kinh tế quốc doanh, mà còn thu hút cả lực lượng lao động mới trong nền kinh tế.
- Tay nghề của lực lượng lao động xã hội do cơ chế cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm và quyền tự do lựa chọn ngành học phù hợp với khả năng và sở thích của mình nên có phần đa dạng hơn và thích ứng hơn với đòi hỏi của sự phong phú, đa dạng hoá các ngành nghề và hàng hoá, dịch vụ trong xã hội.
Những điều trình bày ở trên còn nói lên một điều rằng tiềm năng lao động xã hội được phát huy không chỉ bằng con đường đầu tư của nhà nước ( con đường này trong thời gian qua có nhiều hạn chế do những khó khăn chung của nền kinh tế ), mà còn bằng con đường đầu tư tư nhân. Con đường này với chính sách cởi mở và mở cửa hiện nay ngày càng trở nên thuận lợi và hấp dẫn. Hiện tại tiềm năng lao động xã hội chủ yếu mới được phát huy rõ nhất trong sản xuất nông, lâm nghiệp.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, trên lĩnh vực việc làm và lao động, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý có liên quan đến công nghiệp hoá chưa thực sự tạo ra những chuyển biến căn bản. Về cơ bản vấn đề việc làm và lao động như Đại hội VII của Đảng đã nhận định, hiện vẫn “ đặc biệt gay gắt “ mà một nguyên nhân quan trọng là “ các chính sách và biện pháp giải quyết việc làm còn bị động, chắp vá “. Điều đó có liên quan trước hết tới các mặt và các khía cạnh sau đây:
- Hiện tại, các chính sách mới kích thích tạo công ăn việc làm, giảm áp lực của nạn thất nghiệp mà chưa tạo ra được sự chuyển biến cơ cấu lao động xã hội.
- Mức độ trang bị kỹ thuật của lao động xã hội đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân chưa có sự cải thiện đáng kể. Điều đó có liên quan tới những chính sách và cơ chế quản lý tạo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, bảo toàn vốn đối với xí nghiệp quốc doanh, thuế suất, mức trích nộp khấu hao, lãi suất ngân hàng, ... cùng với những khó khăn kinh tế - xã hội chung của nền kinh tế ( lạm phát, tham nhũng, buôn lậu,... ), vừa không đồng bộ, chắp vá, vừa có nhiều điểm bất hợp lý, không phù hợp đã không khuyến khích đổi mới và tạo điều kiện cho việc đổi mới, trang bị kỹ thuật, làm nản lòng nhiều dự án đầu tư có liên quan tới đổi mới công nghệ.
.Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế :
Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang chế độ tự chủ kinh doanh đã có tác dụng lớn thay đổi trong cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế cơ bản, còn trong công nghiệp thì các doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm vế toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo luật định, trở thành tế bào cơ sở của hệ thống tổ chức sản xuất công nghiệp. Sự thay đổi có tính chất nền tảng đó so với hệ thống tổ chức sản xuất cũ dẫn đến những thay đổi cơ cấu trong toàn cục các ngành trong nền kinh tế. Những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ban hành trong thời gian qua hướng vào đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, đã tạo những điều kiện thuận lợi ban đầu trong quá trình cộng nghiệp hóa ở nước ta diễn ra trong mối quan hệ gắn bó với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và hoạt động theo cơ chế thị trường. Điểm khác căn bản trong chính sách và quản lý kinh tế tạo môi trường kinh tế ở nước ta so với thơì gian trước đây là thực hiện công nghiệp hóa theo cơ chế thị trường. Điều đó có nghĩa là những thay đổi chuyển dịch cơ cấu các ngành trong nền kinh tế quốc dân phải được đặt dưới sự tác động trực tiếp và chi phối của cơ chế thị trường, trong đó các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước phải nhằm tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho những thay đổi ấy hướng theo những mục tiêu chiến lược kinh tế-xã hội của mình.Hãy còn sớm để khẳng định tác động của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế mới được ban hành và thực hiện trong vài năm qua đối với những thay đổi trong chuyển dịch cơ cấu các ngành trong nền kinh tế quốc dân, nhưng điều dễ nhận thấy là cơ chế thị trường đã bắt đầu có tác dụng đối với sự phát triển các ngành nghề và các dịch vụ công nghiệp. Ơ nông thôn, cơ chế thị trường đã làm sống lại không chỉ những ngành nghề truyền thống, mà còn hình thành và phát triển các ngành nghề và các nghề mới. Đó là thực trạng mà cơ chế quản lý tập trung bao cấp trước đây không thể có.
Tuy vậy, xét về tổng thể, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm qua ở nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá. Tỷ trọng của nhiều ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong thời gian 1985-1992 không tăng, mà lại còn giảm đi.
Mặt khác, trong công cuộc công nghiệp hoá ở nước ta, giải quyết việc làm, giảm bớt sức ép của nạn thất nghiệp troing quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý là một trong những yêu cầu quan trọng. Thế nhưng, trong sự chuyển dịch cơ cấu các ngành mà sản phẩm đòi hỏi nhiều lao động trong những năm qua lại có ít đóng góp vào thực hiện yêu cầu này. Tỷ trọng của những ngành này trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp có xu hướng giảm đi.
Nguyên nhân của thực trạng kể trên là:
- Thiếu sự định hướng chiến lược chung đối với phát triển ngành công nghiệp.
- Thiếu chính sách rõ ràng với sự phát triển ngành nghề công nghiệp ở nông thôn.
- Thiếu chính sách bảo hộ rõ ràng và hiệu lực thực thi pháp luật để bảo hộ đối với sản xuất trong nước còn thấp.
4. Những vấn đề chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “:
Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà sự thắng lợi của nó phụ thuộc vào vấn đề chính phủ giải quyết ra sao những điều kiện tiền đề cần thiết của công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhất là ở những nước có nền kinh tế kém phát triển như ở nước ta. Chính phủ phải giải quyết 4 yêu cầu chủ yếu sau:
.Tạo nguồn vốn tích luỹ để công nghiệp hoá :
Công nghiệp hóa là để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật ngày một hiện đại, nên đòi hỏi nhiều vốn. nguồn gốc của tích luỹ vốn là lao động thặng dư mà cơ sở tự nhiên và cũng là biện pháp cơ bản là tăng năng suất lao động. Cơ cấu vốn tích luỹ để công nghiệp hóa bao gồm: tích luỹ vốn từ nguồn trong nước và tích luỹ vốn từ nguồn bên ngoài.
Ơ nước ta nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, cũng như nhiều nước kém hoặc đang phát triển, thời kỳ đầu đều phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài, nước ta không thể là ngoại lệ. Tất nhiên phải rất coi trọng tạo ra chính sách đối ngoại hữu hiệu và việc sử dụng vốn vay có hiêụ quả, có khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
.Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ .
Vị trí then chốt của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta đòi hỏi phải đặt khoa học- công nghệ như một “quốc sách “, một “động lực “. Chính nó đã góp phần đưa kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhất là chiều sâu; góp phần nâng cao năng lực tích luỹ vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
.Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất .
Công nghiệp hóa mới chỉ bắt đầu ở nước ta, tài nguyên khoáng sản tương đối nhiều, nhưng chưa được khai thác. Hơn nữa không thể “đẩy mạnh... chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản “, nếu không có bản đồ địa chất, công trình. Thiếu nó không thể phân bố xí nghiệp, xác định quy mô, trình độ kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của việc khai thác. Do vậy, điều tra cơ bản thăm dò địa chất là điều kiện tiền đề không thể thiếu được của công nghiệp hóa. Cần chú ý rằng, việc thăm dò địa chất và điều tra cơ bản không chỉ cần thiết cho công nghiệp hóa, mà còn cho phép khai thác lợi thế so sánh về tài nguyên giữa các nước nếu khai thác kịp thời. Sẽ mất thế lợi nếu khai thác chậm trước sự bùng nổ của vật liệu mới do cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật tác động và tạo ra khả năng thay thế nguyên liệu tự nhiên trong thế kỷ 21 và tiếp theo .
.Đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân lành nghề cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa .
Sự nghiệp công nghiệp hóa là sự nghiệp của quần chúng lao động xây dựng nên, trong đó cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân có tay nghề cao có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, phải làm cho họ có tri thức-phải đào tạo họ. Đảng ta đặt “con người vào vị trí trung tâm “trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Do vậy: “đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển “.
Thực hiện sự đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo theo hướng: “Phải phổ cập cấp I, nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản lý,nhà kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ; chú ý phát hiện bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài “.
Những điều kiện tiền đề nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với tư cách là tiền đề, nó đòi hỏi phải có, mới tiến hành công nghiệp hóa được. Muốn vậy, nước ta không thể không hòa nhập với các nước trong cộng đồng quốc tế, không thể không nắm bắt những lý thiết hiện đại có thể ứng dụng cho các nước kém phát triển.Chẳng hạn:
-Lý thuyết về lợi thế so sánh .
-Lý thuyết về “vòng luẩn quẩn “và “cú huých “từ bên ngoài .
-Lý thuyết “cất cánh “.
-Lý thuyết cânbằng ...
Mỗi lý thuyết về nội dung của nó đều có mặt tích cực và mặt hạn chế, do vậy việc vận dụng, phải biết phối hợp và phải biết phát huy mặt tích cực, khắc phục một cách có hiệu quả những hạn chế của nó. Bằng cách đó, sớm tạo ra những điều kiện tiền đề đưa sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta nhanh đến thắng lợi .
Phần III: THựC TRạNG và giải pháp cho nền kinh tế việt nam
và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
I. Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế :
1.Thực trạng của của nền kinh tế:
Từ năm 1986 trở về trước, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế mang nặng tính tự túc, tự cấp, các yếu tố sản xuất hàng hóa chưa phát triển, các yếu tố thị trường mới sơ khai, thiếu đồng bộ, lại quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cứng nhắc nên tăng trưởng chậm và đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế. Những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế của nước ta đòi hỏi phải đòi hỏi phải đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và giải phóng các yếu tố sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là phù hợp với quy luật khách quan và điều kiện của nước ta, vì rằng:
-Kinh tế thị trường là sự phát triển tất yếu của sản xuất hàng hóa. Thị trường đã có trước chủ nghĩa tư bản, đến chủ nghĩa tư bản thì thị trường phát triển đạt trình độ cao .
-Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc, bao gồm nhiều thành phần: kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã và kinh tế nhà nước .
Trong nền kinh tế bao cấp trước đây, kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã tuy đã huy động được một bộ phận nguồn lực cho phát triển ban đầu, nhưng theo mô hình khép kín, nên phát triển chậm và rất kém hiệu quả. Do đó đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế thị trườngcho phù hợp với quy luật kinh tế và điều kiện cuả nước ta .
Sự phát triển phân công lao động quốc tế cùng với thành quả tiến bộ khoa học-kỹ thuật của thế giới về quản lý, về chất lượng và phát triển môi trường cũng đòi hỏi phải chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Tuy mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhưng đã hình thành các yếu tố cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, cần thấy rõ những khó khăn, phức tạp của nền kinh tế thị trường ở nước ta để có biện pháp và phương thức quản lý thích hợp.
Do nước ta từ một xuất phát điểm rất thấp, nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi chính phủ phải có những biện pháp kịp thời, hiệu quả nhằm sử dụng và phát huy nguồn lực sẵn có. Đây là một bài toán khó cho chính phủ Việt Nam bởi vì hiện nay việc quản lý kinh tế của chính phủ còn có rất nhiều vấn đề cần xem xét .
2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nước ta:
Ngày nay, quản lý kinh tế đã trở thành chức năng không thẻ thiêu của các nhà nước hiện đại. Thị trường luôn luôn thể hiện hai mặt: một mặt là động lực của sự phát triển, và mặt khác là khuyết tật về phân phối, môi trường và xã hội. Từ tính chất hai mặt của thị trường, trong các mô hình kinh tế ở tất cảcác nước trên thế giới đều thừa nhận: Chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế thị trường để chống lại các cuộc khủng hoảng chu kỳ, nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Có ba mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị trường là “điều tiết “, “điều khiển “và “quản lý “. Rõ ràng ở đây phải có sự lựa chọn của chính phủ trong việc can thiệp vào nền kinh tế theo các liều lượng khác nhau, phù hợp với từng thời kỳ .
Trước đây chúng ta theo cách quản lý cũ, chính phủ dựa vào các công cụ hành chính, mệnh lệnh, nay chuyển sang kinh tế thị trường cần phải thay đổi, sử dụng luật pháp, kế hoạch định hướng và các công cụ kinh tế theo cơ chế thị trường là tất yếu. Toàn bộ luật lệ, công cụ, chính sách của chính phutrong hệ thống kinh tế mà ta gọi là cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi mới và hoàn thiện. Điều đáng quan tâm là sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của chính phủ ta hiện nay còn chắp vá, chưa đáp ứng những sự thay đổi có tính chiến lược đang diễn ra ở nước ta. Do chưa có kinh nghiệm, trình độ quản lý lại yếu kém, do dự trong nhận thức và trong hành động, có sự chồng chéo giữa hai cơ chế cũ với mới, nên đã phát sinh những tiêu cực trong xã hội (buôn lậu, tham nhũng, làm hàng giả v.v...). Bởi vậy, vấn đề cấp bách hiện nay trong quản lý kinh tế của chính phủ là cần sớm khắc phục tình trạng đó, nhanh chóng chuyển sang cơ chế mới. Nếu không tập trung giải quyết thì nó sẽ cản trở sự đổi mới ở nước ta và có hậu quả lớn trong tương lai .
Muốn vậy, chính phủ cần khẳng định những việc cấp bách hiện nay là đào tạo công ăn việc làm cho người lao động, giáo dục xã hội, hướng dẫn tác dụng tích cực của thị trường .
Để có thể cung cấp việc làm, cần quy định rõ quyền sở hữu đích thực các nguồn lực xã hội, phải thừa nhận có một bộ phận lao động làm thuê và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các ngành nghề có khả năng thu hút lao động hiện nay .
Về giáo dục xã hội, chính phủ cần mở rộng đào tạo ngành nghề theo yêu cầu thực tế và tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và y tế, có khuyến khích tài năng và người nghèo trong học tập .
Để hướng dẫn tác dụng tích cực của thị trường, chính phủ cần phát huy chức năng của thị trường. Cái gì thị trường điều tiết tốt thì để cho thị trường tự điều chỉnh. Cái gì thị trường làm không tốt thì chính phủ làm và điều tiết bằng các công cụ của mình .
II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ :
Sự phát triển kinh tế ở nước ta theo hướng nào, thành công hay thất bại chủ yếu là do sự hướng dẫn của chính phủ. Mục tiêu của mọi nền kinh tế là hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần hướng tới phải có bản sắc dân tộc gắn với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Nền kinh tế thị trường ấy chỉ có thể phát triển trong điều kiện môi trường kinh tế-xã hội và chính trị ổn định. Để đảm bảo mục tiêu trên, chính phủ cần hướng:
. Nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đạt được trình độ xã hội hóa cao. Ngoài sở hữu về lao động, mọi người dân còn có sở hữu về tài sản, về vốn, có công ăn việc làm, phát huy dân chủ và tự do trong lao động sáng tạo. Phân phối thu nhập của người lao động không phải chỉ có tiềncông, mà còn được bù đắp từ nguồn tài sản đích thực của mình. Các hình thức sở hữu đan xen trong các tổ chức sản xuất-kinh doanh. Kinh tế quốc doanh nắm giữ những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ có thể giúp chính phủ điều tiết thị trường và được xem như một công cụ cùng với các công cụ khác (tài chính, tiền tệ, luật pháp...) trong hệ thống công cụ quản lý của chính phủ. Kinh tế tập thể được đổi mới theo nguyên tắc tự nguyện, thích ứng với các tổ chức kinh doanh như cổ phần, liên doanh, hợp tác theo từng khâu công nghệ, từng công đoạn sản xuất v.v...Kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Ban đầu tất cả các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh nàyphát triển tự nguyện chủ yếu ở quy mô nhỏ và vừa. Dần dần qua quá trình lựa chọn, chúng sẽ liên kết chặt chẽ trong từng doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp, tạo nên sự phát triển ổn định, có khả năng liên kết và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
. Nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở của tính cộng đồng dân tộc. Khi thị trường được khai thác đầy đủ, tính chất cạnh tranh sẽ tăng dần và càng gay gắt. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế mở, tính cạnh tranh lại tăng lên theo mức độ và phạm vi lớn hơn. Cạnh tranh là yếu tố tự nhiên của sự phát triển, nhưng cạnh tranh riêng lẻ sẽ gây ra những tổn hại chung cho nền kinh tế. Do vậy, tính xã hội còn thể hiện ở tính cộng đồng dân tộc trong mọi hoạt động kinh tế-xã hội. Một hệ thống kinh tế nhiều tầng, nhiều hình thức sở hữu đan xen, nhiều loại hình kinh doanh đa dạng rất cần thiết phải được tổ chức có trật tự bằng tính cộng đồngtừ thấp đến cao: làng xã, doanh nghiệp, hiệp hội, dân tộc và cộng đồng người Việt. Mọi tri thức khoa học, mọi phát minh sáng kiến cá nhân cần được phát huy và sử dụng vì lợi ích của cả cộng đồng và của cả dân tộc
. Nhân tố xã hội phải được coi là động lực của sự phát triển. Muốn vậy, cần phải nâng cao chất lượng cuộc sống, bao gồm các chỉ tiêu như: số dinh dưỡng, trình độ giáo dục, sức khoẻ, tuổi thọ v.v...Trình độ văn minh của một dân tộc được thể hiện ở trình độ giáo dục, sức khoẻ, tuổi thọ và môi trường sống của mọi người dân. Các vấn đề xã hội cần được giải quyết bằng sự đầu tư và quản lý của chính phủ. Ban đầu là lựa chọn đầu tư phát triển nhân tài và việc chống nghèo đói. Phải xem việc đầu tư cho giáo dục, y tế là đầu tư cho phát triển. Khi đời sống dân cư tăng lên, việc đầu tư cho phát triển xã hội sẽ trở thành nhu cầu chung cho từng gia đình xã hội .
- Định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội .
- Tạo ra khuôn khổ pháp lý của nhà nước pháp quyền .
- Tạo ra môi trường thuận lợi (chính trị, kinh tế cân đối, kết cấu hạ tầng phát
triển...) .
- Khuyến khích, giúp đỡ vật chất, kỹ thuật, nhân lực để phát triển nhanh, mạnh
và đúng hướng .
- Huy động các nguồn lực và phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực, điều tiết thu
nhập bằng các chính sách chống tiêu cực, bảo vệ công bằng xã hội .
- Bảo vệ quyền lợi của quốc gia .
- Trực tiếp quản lý điều hành (và là chủ sở hữu) một số cơ sở hoặc ngành kinh tế
then chốt có ảnh hưởng lớn đến lợi ích quốc gia .
. Cải cách bộ máy Nhà nước, trọng tâm là nền kinh tế hành chính Nhà nước, đi đôi với cải cách kinh tế bằng cách Nhà nước đề xướng và nền hành chính thực hiện bằng các nhiệm vụ như: đề ra các chiến lược, chính sách, kế hoạch định hướng phát triển kinh tế, xã hội đi lên chủ nghĩa xã hội; ổn định nền tài chính tiền tệ, thị trường, xây dựng kết cấu hạ tầng (đây là khu vực đầu tư vào rất tốn kém và không có lãi, hoặc nếu có thì thời gian thu hồi vốn rất dài nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào rất ít ); huy động các nguồn lực và phân phối cho sự phát triển các ngành, các địa phương, đào tạo công nhân, cán bộ; cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động.
Kết luận
Qua khuôn khổ bài tiểu luận này, với kiến thức còn hạn chế em mạo muội trình bày sự cần thiết phải có sự điều tiết của chính phủ để hướng nền kinh tế đạt được những mục tiêu mà mọi nền kinh tế luôn theo đuổi là: hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Đặc biệt đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đòi hỏi phải tăng cường chứ không phải giảm nhẹ vai trò và chức năng quản lý của chính phủ. Bởi vì chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, đi sâu vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị-kinh tế thì càng đòi hỏi sự quản lý của chính phủ càng chặt chẽ và sát sao hơn nữa. Vấn đề then chốt ở đâylà ở chỗ phương thức quản lý như thế nào để vận dụng đầy đủ các yêu cầu, quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường nhưng lại đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho nền kinh tế vận động theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, đất nước ta đang trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “thì sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế của chính phủ là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của nền kinh tế nước ta.
Trên đây là những hiểu biết của em về vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và cụ thể ở Việt Nam nói riêng. Với vốn kiến thức còn hạn hẹp, em mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô .
Sinh viên Trần Minh Thắng
Danh mục tài liệu tham khảo
Kinh tế học. Paul A.Samuelson.
Kinh tế học. David Begg.
Kinh tế vĩ mô. Nguyễn Văn Luân.
Kinh tế vĩ mô.Đại học Kinh tế quốc dân.
Kinh tế vĩ mô.Đại học TC-KT Hà nội.
Đại cương về Kinh tế học.Lê Vinh Danh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35116.doc