Tiểu luận Thực trạng và giải pháp của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam tiếp cận từ quan điểm toàn diện

Quan điểm toàn diện cho ta thấy khi xem xét một sự vật hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Phải phân biệt được từng mặt mối liên hệ của sự vật, vận dụng quan điểm này vào nền kinh tế nước ta, chúng ta thấy kinh tế nước ta không thể tự phát triển được mà phải hợp tác giao lưụ, làm ăn với các nước khác thì nền kinh tế nước ta mới theo kịp nền kinh tế thế giới. Bởi vậy chúng ta cần phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế, đó chính là mục tiêụ được đảng và nhà nước ta theo đụổi nó gúp cho kinh tế nước ta nhanh chóng phát triển và đi nhanh đến tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tuy trong quá trình thực hiện chúng ta có gập phải một số khó khăn thử thách bước đầu như trình độ quản lưy, cơ chế kinh tế, vốn, khoa học kỹ thuật, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp . Chính những điều đó sẽ giúp nền kinh tế nước ta có rất nhiều thuận lợi.: Sự đầu tư của nước ngoài, chủ trương đúng đắn của đảng, . Chính những điều đó sẽ gíp nền kinh tế nước ta nhanh chóng đi lên để hội nhập với nền kinh tế thế giới.

doc18 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2117 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam tiếp cận từ quan điểm toàn diện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hoá khách quan nó lôi kéo tất cả các nước trên thế giới cùng tham gia, không một nước nào đứng ngoài cuộc Việt Nam chúng ta đã và đang bị đứng vào vòng soáy của quá trình toàn cầu hoá. Chính vì vậy đảng và nhà nước đã có những bước đi đúng đắn để phát triển kinh tế đưa nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn làm được điều này chúng ta phải xây dựng nền kinh tế độc lập tư chủ đi đôi với việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là hai nhiêm vụ quan trọng mà chúng ta cần phải thực hiện trong thời đại ngày nay. Dưới góc độ triết học xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là đưa nền kinh tế nước ta sang một cơ chế phù hợp với quy luật lịch sử và điều kiện vốn có của ta, đưa nước ta theo kịp sự phát triển của thời đại. Còn hội nhập đó là yêu cầu tất yếu đối với bất cứ một nền kinh tế nào. Trước sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới và những kết quả đạt được bước đầu của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy trong thời đại hiện nay không mộc quốc gia nào, một dân tộc nào có thể tự mình phát triển được. Sự hợp tác nhiều chiều trên cơ sở hai bên cùng có lợi đã trở thành xu thế khách quan của thời đại. Chính vì thế mà vận dụng quan điểm toàn diện vào việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu cấp thiết và cần được lưụ ‎y. Tôi mong đề tài này sẽ góp một phần nhỏ vào việc xây dựng nền khinh tế nước nhà. Tuy nhiên vì mới thực hiện lần đầu nên không tránh khỏi thiếu sót rất mong được sự đóng góp ‎y kiến của thầy cô giáo và bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương I : Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế 1. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác- xít 1.1. Nguyên ly về mối liên hệ phổ biến 1.1.1. Khái niệm về “ Mối liên hệ phổ biến “ Các nhà triết học trong CNDT trước Mác cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Trái lại những người theo quan điểm biện chứng cho rằng : các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau. Khi Mác nghiên cứu về cặp phạm trù này trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng, đã đưa ra định nghĩa : “ Mối liên hệ phổ biến “ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của sự vật hiện tượng trong thế giới 1.1.2. Các tính chất của mối liên hệ Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều nằm trong trong sự ràng buộc, nương tựa quy định lẫn nhau làm điều kiện và tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Không có sự vật hiện tượng nào năm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay, không có quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội Sự tồn tại bản chất tính quy luật và quy luật của các sự vật hiện tượng chỉ bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân sự vật đó hay giữa sự vật đó với sự vật khác. Các mối liên hệ trong tính tổng thể của nó quy định sự tồn tại vận động phát triển của sự vật. Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng dù muốn hay không vẫn luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tượng khác và bởi các yếu tố trong chính bản thân nó đồng thời mối liên hệ bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính đa dạng nhiều vẻ. Gồm nhiều loại : mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất....Ngoài ra, nó còn mang tính phổ biến nghĩa là bất cứ sự vật hiện tượng nào của tự nhiên xã hội và tư duy đều nằm trong mối liên hệ. Không một sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. 1.2. Quan điểm toàn diện Từ sự nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến ta rút ra phương pháp luận để nhận thức và cải biến hiện thực. Chính vì vậy nguyên l‎y về mối liên hệ phổ biến là cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi xem xét cải biến sự vật thì phải đặt nó trong mối liên hệ qua lại giữa các mặt cấu thành nó, giữa sự vật đó với sự vật khác. Phải xem xét cả các khâu trung gian gián tiếp của sự vật có như vậy mới nhận thức đúng sự vật. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải phân biệt được từng mặt mối liên hệ của từng sự vật từ đó nhận thức được những mối liên hệ bên trong, mối liên hệ chủ yếu bản chất tất nhiên....để hiểu rõ sự vật có phương pháp tác động phù hợp vào sự vật để đem lại hiệu quả cao nhất. Trong hoạt động thực tiễn khi cải tiến tác động vào sự vật thì phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp các phương tiện khác nhau để tác động vào nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật phải tuân thủ quan điểm toàn diện để tránh được sai lầm, quan điểm phiến diện một chiều chỉ xem xét sự vật hiện tượng ở một mối liên hệ, tránh thái độ cực đoan cứng nhắc. Đối với Việt Nam để thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh “ một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước, mặt khác, chúng ta phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng toàn cầu hoá đem lại. Đặc biệt là toàn cầu hoá kinh tế. 2. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.1. Các khái niệm 2.1.1. Thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ ? Có rất nhiều cách hiểu về nền kinh tế độc lập tự chủ. Nhưng theo cách hiểu truyền thống thì một nền kinh tế độc lập là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh quốc phòng và quá trình tái sản xuất xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành bình thường và đảm bảo được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc phòng. Ngày nay khi toàn cầu hoá đã phát triển ở mức cao, thị trường của các quốc gia đã đang và tiếp tục được mở rộng chúng ta có cách hiểu mới đó là nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó, trong bất kì một tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được hoạt động bình thường của xã hội và phục đắc lực cho các mục tiêu an ninh quốc phòng của đất nước. 2.1.2. Thế nào là hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế là gì ? Toàn cầu hoá kinh tế xét về bản chất là quá trình gia tăng mạnh mẽ của những mối liên hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau, Tác động qua lại của các quốc gia, khu vực trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế của các nước, của các khu vực, vượt qua khỏi biên giới quốc gia, khu vực hướng tới phạm vi trên toàn thế giới. Mở cửa, hội nhập kinh tế là quá trình tham gia của một nước vào phân công lao động quốc tế. Xét từ góc độ sản xuất hàng hoá, mở cửa hội nhập kinh tế là quá trình bỏ tính chất tự cấp, tự túc khép kín của một quốc gia, để mở rộng giao lưu kinh tế với các quốc gia khác. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nahu và không thể tách rời. 2.2. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, và hội nhập kinh tế quốc tế 2.2.1. Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế đã và đang trở thành một xu thế thời đại. Nó tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia, các khu vực trên thế giới. Mặt khác, cuộc CMKHCN đang tác động mạnh mẽ trên quy mô toàn thế giới. Kinh tế thị trường len lỏi vào từng ngóc ngách của nền kinh tế các nước. Chính vì vậy, các nước muốn phát triển thì phải mở rộng thị trường, xoá bỏ các rào cản thương mại, cùng nhau hợp tác làm ăn, trao đổi công nghệ kĩ thuật để cùng phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một đòi hỏi không thể né tránh đối với các nước, đây là một bước đi phù hợp với xu thế của thời đại. Một quốc gia nào đứng ngoài tiến trình đó nghĩa là tự cô lập mình với thế giới, kinh tế không những không phát triển mà còn tụt hậu. Toàn cằu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế có mối liên hệ hữu cơ : toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan kéo theo nó hội nhập kinh tế cũng là một nhu cầu một xu thế tất yếu. Sớm nhận thức được xu thế của thời đại ngày nay. Đảng và nhà nước ta thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá chủ động hội nhập. Trong văn kiện đại hội đảng IX ta đã khẳng định “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế......” Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế chứa đựng thời cơ và thử thách. Thời cơ ở chỗ chỉ có tham gia hội nhập kinh tế thì mới có thể tiếp cận với các thành tựu khoa học mới và chỉ có như vậy các nước nghèo mới có cơ hội phát triển và vươn lên. Thách thức là hàng hoá rẻ vì chủ yếu được nhập từ các nước có nền kinh tế phát triển, năng suất lao động cao nên có nguy cơ bóp chết nền sản xuất lạc hậu trong nước. Nhưng nếu không hội nhập thì sẽ chịu sự thua thiệt lớn hơn. 2.2.2. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một nhu cầu, một xu thế tất yếu kéo theo nó phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực tiễn cho thấy nếu một nước không có một nền kinh tế độc lập tự chủ thì sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, lệ thuộc về chính trị mà một khi không có độc lập về chính trị thì độc lập của dân tộc ấy cũng không còn. Mặt khác, khi nền kinh tế bị lệ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài thì không thể tự mình lựa chọn mục tiêu phát triển định hướng phát triển tự mình xác định chủ trương chính sách và lựa chọn mô hình phát triển phù hợp, sẽ rất dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng kinh tế, làm cho đời sống của nhân dân khó khăn, nền kinh tế trì trệ kém phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Hơn thế nữa, Việc mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gặp phải khó khăn và không đạt được kết quả như mong muốn vì không đủ tiềm lực kinh tế để tham gia vào quá trình hội nhập thì sẽ bị thua thiệt so với các nước khác khống chế. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta coi đây là nội dung chính yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Trong văn kiện đại hội đảng lần thứ IX đề ra “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp....” 2.3. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hôi nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi toàn cầu hoá là một xu thế khách quan kéo theo nó hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là một xu thế tất yếu. Về thực chất hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích dân tộc, phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá....Thực tế cho thấy tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập đều vì lợi ích của chính mình chứ không phải vì lợi ích của đối tác. Tuy nhiên, lợi ích ấy không phải tự nhiên mà có, nó chỉ ở dạng tiềm năng, tiềm năng ấy có thể trở thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào nội lực của nền kinh tế. Nước nào mạnh sẽ thu được nhiều lợi nhuận và nắm quyền chủ động và ngược lại nước nào kém thế hơn sẽ bị thua thiệt hơn và bị động hơn trong mọi hoạt động kinh tế của mình. Mở cửa, hội nhập kinh tếư sẽ giúp khai thông các mối quan hệ, giao lưụ nguồn nhân lực của Việt Nam với thế giới, đưa các chuyên gia Việt Nam ra nước ngoàI học tập kinh nghiệm. Đồng thời cũng đẩy mạnh việc nhập khẩu các loại thiết bị hiện đại, các công nghệ mới, các bằng phát minh sáng chế mà việt nam chưa có nhăm phát triển nền kinh tế trong nước phát huy tối đa tiềm năng thế mạnh nội lực, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá đất nước. Cơ sở kinh tế càng vững mạnh thì chế độ chính trị càng bền lâu dẫn đến môi trường chính trị xã hội càng ổn định đồng thời tạo được ra môi trường đầu tư lành mạnh và ổn định. M ặt khác, lại đảm bảo được tính an toàn của nền kinh tế, sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài tạo được tiềm lực kinh tế vững mạnh, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập đưa đất nước đi lên và tiến nhanh đến quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tóm lại, mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là mối quan hệ tương hỗ có tính biện chứng. Hội nhập càng chất lượng thì tính độc lập tự chủ càng cao. Độc lập càng cao thì cang có điều kiện để chủ động tích cực hội nhập. Góp phần đưa đất nước đi lên ngày càng “ giàu mạnh công bằng dân chủ văn minh “ Trong bối cảnh ngày nay hôi nhập kinh tế là cần thiết là quan trọng là động lực để phát triển kinh tế nhưng không phải là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mỗi nước mà động lực chủ yếu chính là nội lực của nền kinh tế đó. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia tham gia hội nhập để theo đuổi mục tiêu trở thành giàu có trong quá trình hội nhập đã không giữ được độc lập tự chủ của mình để đất nước rơi vào tình trạng lệ thuộc vào bên ngoài làm cho nền kinh tế không những không tăng trưởng mà còn tụt hậu hơn nhiều so với trước, đời sống của nhân dân khó khăn. Chính vì vậy phải coi xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là nhiệm vụ chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia Chương II: Thực trạng và giải pháp của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam tiếp cận từ quan điểm toàn diện 1. Thực trạng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế ở Việt Nam những năm qua. 1.1. Những thành tựu đã đạt được. Từ sau khi đổi mới cho đến nay mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng đất nước và phát triển kinh tế nhưng nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về mọi mặt nhất là về kinh tế.Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta nhanh hiện nay khoảng trên 7% được đánh giá là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và thế giới. Năm 1992 được liên hợp quốc đánh giá là nước làm kinh tế giỏi nhất trên thế giới. Đời sống nhân dân ngày càng được cảI thiện và nâng cap lên rõ rệt. Bộ mặt của đất nước đang thay đổi từng ngày. Trên tất cả các lĩnh vực chúng ta đều đạt được những thành công đáng kể. Về ngoại thương : Tính đến cuối năm 2002, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 170 nước trên thế giới, ký kết được nhiều hiệp định thương mại song phương với các nước trên thế giới có quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ, đã gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ … Việt Nam đã xuất khẩu được một số mặt hàng sang các nước khác đó là các mặt hàng nông sản và hải sản. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Hiện nay, chúng ta đã tranh thủ được nguồn tài trợ ODA của 45 nước và các chế định tàI chính quốc tế. Chúng ta đã nhận được khoảng 20 tỉ USD từ nguồn tàI trợ ODA trong đó đã giảI ngân hơn 10 tỉ USD, đối với FDA, có trên 3800 dự án với tổng vốn đăng ký là trên 42 tỷ USD đã thực hiện khoảng 22 tỉ USD. Chính nhờ nguồn vốn này mà chúng ta đã xây dựng được nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy nhanh quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nước ta đã có thành phần kinh tế thứ 6 đó là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành phần kinh tế này chiếm tỷ trọng 13% GDP và tốc độ tăng trưởng là 20% / năm. *Sở dĩ Việt Nam đạt được những thành tựu trên là do : -Đường lối lãnh đạo đúng đắn của đảng và nhà nước ta. Trong tình hình thế giới hiện nay đảng và nhà nước ta đã xác định phải “chủ động hôị nhập kinh tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực…..” ( văn kiện đại hội đảng IX ). Chính vì vậy đảng và nhà nước đã có những chính sách hợp ly nhăm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và mở cửa nền kinh tế. - Mặt khác, Việt Nam là một nước độc lập tự chủ không bị phụ thuộc vao nước ngoài, có môi trường chính trị ổn định, ngoàI ra, còn có chính sách đầu tư đúng đắn, nền kinh tế tương đối an toàn và ít biến động, cơ sở hạ tầng ngày một hoàn thiện. Chính những điều này đã tạo nên một môI trường đầu tư lành mạnh an toàn làm cho các nhà đầu tư nước ngoàI an tâm khi bỏ vốn vào Việt Nam. Không những thế Việt Nam còn có một nguồn lao động dồi dào, phong phú : năm 1992 có 70 triệu người trong đó 35 triệu người lao động. Giá nhân công của Việt Nam rất rẻ so với các nước khác. Việt Nam là một thị trường tiêu thụ rộng lớn với dân số khoảng 80 triệu người, có nguồn tàI nguyên thiên nhiên phong phú. Hầu hết các loaị khoáng sản ở Việt Nam đều có. Việt Nam chính là cửa ngõ đi ra tháI bình dương của một số quốc gia đông nam á, nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hoá quốc tế từ SNG, Trung quốc sang Nam á ….. 1.2. Những mặt chưa được. Mặc dù đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể ở trên nhưng chúng ta vẫn còn những mặt chưa được. 1.2.1.Nền kinh tế của Việt Nam còn lạc hậu so với nền kinh tế của thế giới và khu vực. Sau hơn mười năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng kể nhưng nền kinh tế của nước ta vẫn còn lạc hậu. Hiện nay, lao động làm việc trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao 50%. Cơ cấu kinh tế chưa hợp ly Ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Nông nghiệp chiếm 22,99% GDP, công nghiệp chiếm 38,55% GDP. Trong khi đó ở các nước phát triển hiện nay công nghiệp chiếm khoảng 20-25% GDP, nông nghiệp chiếm 5% GDP, dịch vụ chiếm 70-75% GDP. Hệ thống trang thiết bị trong các xí nghiệp cũ kỹ lạc hậu, chủ yếu là do các nước đế quốc để lại sau chiến tranh. Cán cân xuất nhập khẩu mất cân đối, nhập cao hơn xuất. Hiện nay, chúng ta chủ yếu chỉ xuất khẩu những mặt hàng nguyên liệu và sản phẩm sơ chế. Các doanh nghiệp trong nước thì yếu cả về khả năng quản ly, kinh doanh lẫn năng lực sản xuất. Chúng ta đã thu hút được vốn đầu tư nước ngoài nhưng chủ yếu vào các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ thấp. Việt Nam hiện nay đã có thị trường chứng khoán nhưng thị trường này luôn biến động và không đánh giá được đúng khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.2. Công nợ lớn và sử dụng vốn kém hiệu quả. Hiện nay, tổng số dư nước ngoàI của Việt Nam lớn tuy chưa vượt giới hạn an toàn nhưng vẫn là điểm đáng lo. NgoàI ra, việc sử dụng vốn ở Việt Nam cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Hiệu quả sử dụng vốn ưu đãI còn thấp và chưa được chú ‎ đúng mức. Một số dự án gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn và trả nợ nước ngoài. Một số dự án chỉ thực hiện được nửa chừng rồi bỏ dở gây lãng phí, thất thoát vốn của nhà nước. 1.2.3. Sự yếu kém trong việc tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ. Một số dự án nước ngoàI đầu tư vào Việt Nam nhưng nguồn vốn lại không được sử dụng đúng mục đích. Lợi dụng chính sách khuyến khích nhập khẩu một số mặt hàng của nhà nước ta, các công ty liên doanh đưa vào những máy móc thiết bị lạc hậu nhưng với giá cao, thậm chí có những dây chuyền công nghệ còn kém hơn ở Việt Nam. Họ coi nước ta là nơi tiêu thụ những máy móc thiết bị cũ kỹ của họ. 1.2.4. Nguy cơ mất độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia. ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại một thực trạng đáng lo ngại là các doanh nghiệp trong nước mất thị phần ngay cả trên thị trường nội địa. Hàng hoá của nước ngoài tràn ngập trên thị trường trong nước đặc biệt là hàng trung quốc đã làm cho hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước sản xuất không tiêu thụ được. Một thực trạng nữa là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài trong đó Việt nam góp 30% số vốn nhờ phần đóng góp nhà đất sau một thời gian sản xuất kinh doanh đã trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu không kịp thời khắc phục được tình trạng trên Việt nam rất dễ dẫn đến nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và bị đe doạ về chủ quyền quốc gia. 1.2.5. Nguyên nhân. Sở dĩ Việt Nam gặp phải những khó khăn trên là do những nguyên nhân sau: Thứ nhất là trình độ quản l‎y kinh tế ở Việt Nam nhìn chung còn thấp. Kiến thức về kinh tế thị trường của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập, các luật chơi chúng ta chưa thông thạo. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản ly còn mỏng và yếu. Họ chưa năng động vẫn còn trông chờ ỷ lại vào nhà nước, chưa hiểu rõ được thị trường quốc tế, thông lệ quốc tế ….. Nhiều doanh nghiệp tuỳ tiện phá vỡ hợp đồng gây mất lòng tin đối khách hàng quốc tế. Thứ hai là quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt Nam nhìn chung còn chậm. Trong khi các nước trên thế giới đã chuyển sang cơ chế thị trường từ rất lâu thì nền kinh tế thị trường ở nước ta mới hình thành nhưng chưa phát triển. Bộ máy điều hành quản ly cồng kềnh, phức tạp. Hệ thống chính sách pháp luật thiếu đồng bộ, còn nhiều bất cập so với các quy chuẩn quốc tế. Những điều này gây tâm l‎ý lo ngại cho các nhà đầu tư nước ngoàI khi đầu tư vào Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn mang nặng tâm ly trông chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước. Thứ ba là năng lực cạnh tranh và hiệu quả đầu tư của nền kinh tế Việt Nam còn yếu. Các kết quả nghiên cứu cho thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn xếp thứ hạng thấp. Theo xếp hạng của diễn đàn kinh tế thế giới thì : năm 2001 Việt Nam đứng thứ 62 trong 75 nước đươch xếp vào hàng thấp. Hiện nay có số daonh nghiệp Việt Nam làm ăn có hiệ quả ít chỉ khoảng 5%. Hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa xác định được lối đi phù hợp đúng đắn cho mình….. Thứ tư là tình trạng tham nhũng lợi dụng chức quyền là một vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Còn tình trạng lợi dụng chức quyền cho nhập khẩu máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu, gây khó khăn về mặt thủ tục cho các doanh nghiệp nước ngoàI khi đàụ tư vào Việt Nam, làm ngơ trước sai phạm của một số doanh nghiệp tổ chức cá nhân …… 2. Giải pháp với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Trên tinh thần tiếp tục phát huy các lợi thế, những thành tựu đã đạt được của Việt Nam trong những năm qua đồng thời khắc phục những thiếu xót và sai lầm của mình, chúng ta cần phải : 2.1. Nâng cao hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh Trong bối cảnh ngày nay khi mà hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu thì chính sách đầu tư đúng sẽ góp phần khai thác và sử dụng có hiệu quả tất cả những nguồn nội lực và ngoại lực, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp, hiện nay thành phần kinh tế thứ 5 kinh tế tư nhân đang có những bước phát triển tích cực. Chính vì vậy ta cần phảI có cơ chế chính sách để phát triển kinh tế tư nhân, khuyên khích đầu tư tư nhân. Khu vực kinh tế nước ngoàI cũng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Do vậy cần phảI cảI thiện môi trường đầu tư. Ngoài ra còn phaỉ lựa chọn cơ cấu đầu tư hợp ly, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước. Cùng với nâng cao hiệu quả đầu tư cần phảI nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp phảI đổi mới công tác quản l‎y, công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác, nhà nước cần phảI có chính sách biện pháp cảI thiện môI trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi cho việc thành lập tổ chức hoạt động, giảm chi phí sản xuất của donah nghiệp. Tạo ra môI trường cạnh tranh bình đẳng của các thành phần kinh tế. 2.2. Thu hút vốn đầu tư nước ngoàI đI đôI với việc sử dụng có hiệu quả từng đồng vốn đầu tư. Cần tạo ra môI trường đầu tư thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoàI như xây dựng một hệ thống pháp luật và chính sách thống nhất đồng bộ, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà. Mặt khác, trao cho các doanh nghiệp quyền quyết định tàI sản của mình. Các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhà nước phảI hạch toán kinh tế đầy đủ, chịu trách nhiệm về tình hình sản xuất kinh doanh của mình, không nên phụ thuộc quá nhiều vào nhà nước. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không có hiệu quả nhưng lại được nhà nước nâng đỡ để tồn tại. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu đãI rất nhiều trong việc đI vay vốn của ngân hàng sau một thời gian sản xuất kinh doanh không có lãI số vốn trên bằng nhiều cách, nhiều thủ thuật lại chuyển giao cho nhà nước chịu trách nhiệm. Khi lập các dự án đầu tư nếu thấy thật khả thi thì mới thực hiện tránh tình trạng bỏ dở giữa chừng gây thất thoát một lưọng lớn tàI sản của nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay chúng ta chỉ nên đầu tư vào một số ngành trọng điểm đó là những ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao v.v… 2.3. Nâng cao trình độ quản ly, kiên quyết xoá bỏ cơ chế “ xin – cho “ xoá bỏ tình trạng lãng phí tham nhũng trong đời sống kinh tế. Do nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên hiểu biết về kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế. Bỏi vậy trình độ quản l‎y của đội ngũ cán bộ còn thấp. trong quá trình hội nhập đòi hỏi cần phảI có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Do vậy cần phảI đưa đội ngũ cán bộ của Việt Nam ra nước ngoàI học hỏi kinh nghiệm, thường xuyên mở các lớp tập huấn về công tác quản l‎‎y … Trong thời gian qua xẩy ra rất nhiều vụ việc về gian lận thương mại, chi tiêụ biếu sén tuỳ tiện bằng tiền công… Chứng tỏ kỷ luật tài chính của chúng ta vẫn còn nhiều kẽ hở. Mặt khác, có nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn còn trông chờ ỷ nại quá nhiều vào nhà nước. Vẫn còn tình trạng đi đêm móc ngoặc gtây nhiều hậu quả tiêụ cực trong đời sống kinh tế xã hội chính vì vậy, trong thời gian tơúi chúng ta cần phải thắt chặt kỷ luật thu chi tàI chính côngkhai, không để một đồng vốn nào của nhà nước chi sai nguyên tắc, không đúng mục đích. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thu chi tàI chính, thựch hành tiết kiệm thu chi đúng nguyên tắc, chống tham ô, tham nhũng. Có cơ chế cho đấu thầu tự do công khai, nghiêm ngặt… Sẽ tránh được tình trạng đi đêm, móc ngoặc, tiết kiệm hàng tỷ đồng cho nhà nước. Kết luận Quan điểm toàn diện cho ta thấy khi xem xét một sự vật hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Phải phân biệt được từng mặt mối liên hệ của sự vật, vận dụng quan điểm này vào nền kinh tế nước ta, chúng ta thấy kinh tế nước ta không thể tự phát triển được mà phải hợp tác giao lưụ, làm ăn với các nước khác thì nền kinh tế nước ta mới theo kịp nền kinh tế thế giới. Bởi vậy chúng ta cần phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế, đó chính là mục tiêụ được đảng và nhà nước ta theo đụổi nó gúp cho kinh tế nước ta nhanh chóng phát triển và đi nhanh đến tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tuy trong quá trình thực hiện chúng ta có gập phải một số khó khăn thử thách bước đầu như trình độ quản l‎y, cơ chế kinh tế, vốn, khoa học kỹ thuật, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp….. Chính những điều đó sẽ giúp nền kinh tế nước ta có rất nhiều thuận lợi.: Sự đầu tư của nước ngoài, chủ trương đúng đắn của đảng,……. Chính những điều đó sẽ gíp nền kinh tế nước ta nhanh chóng đi lên để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tạp chí Cộng sản, số 22, năm 2001 2. Tạp chí Cộng sản, số 15, năm 2003 3. Tạp chí Cộng sản, số 26, năm 2003 4. Tạp chí Cộng sản, số 28, năm 2003 5. Tạp chí Cộng sản, số 29, năm 2003 6. Tạp chí Cộng sản, số 7, năm 2004 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35571.doc
Tài liệu liên quan