Tiểu luận Thực trạng và giải pháp phát triển, phát huy các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Có thể khẳng định việc hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế của nhà nước là một thành tựu to lớn của Việt Nam trong công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Các tập đoàn kinh tế này đã khắc phục được những hạn chế của những doanh nghiệp nhà nước riêng lẻ trước đây như hạn chế về vốn, về quy mô, về công nghệ, về thị trường v.v để không ngừng lớn mạnh và khẳng định được vị trí trụ cột của mình trong nền kinh tế quốc dân. Các tập đoàn kinh tế này hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như dầu khí, hàng không, điện lực, quốc phòng làm tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế đồng thời là trung gian quan trọng đối với chính phủ để quản lý các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mô hình tập đoàn này vẫn tồn tại những vấn đề cần khắc phục đặc biệt là tình trạng độc quyền, hay một số lượng không nhỏ các tập đoàn kinh tế của nhà nước còn kinh doanh kém hiệu quả Trong phạm vi của bài tiểu luận này tôi đã tập trung nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển, phát huy các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Tiểu luận cũng đưa ra các giải pháp, chính sách có liên quan, cũng như những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại của mô hình tập đoàn này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế. Để hoàn thành bài tiểu luận này, em xin chân thành cám ơn TS. Lê Ngọc Thông đã tận tình hướng dẫn

doc42 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp phát triển, phát huy các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c Tổng Công ty được tổ chức lại từ các liên hiệp xí nghiệp đã được thành lập theo mô hình cũ. Thực tế hoạt động của các Tổng Công ty thời gian qua đã mang lại một số kế quả như: - Phần lớn, các Tổng Công ty đã chủ động xây dựng kế hoạch phát triển Tổng Công ty đến năm 2010, chủ yếu hướng vào phát triển nội lực là chính. Nhiều Công ty đã xây dựng được chiến lược phát triển kỹ thuật – công nghệ nhằm tăng năng lực canh tranh, hạn chế đầu tư dàn trải. - Việc thành lập các Tổng Công ty tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn va thực hiện điều phối các nguồn lực hợp lý, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng vị thế doanh nghiệp trên trường quốc tế. - Có sự hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường trong và ngoài nước, tăng khả năng đấu thầu cho các doanh nghiệp thành viên. Sự hoạt động của các Tổng Công ty đã nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần mở rộng thị phần xuất nhập khẩu. Đảm bảo cân đối nền kinh tế: Hầu hết các Tổng Công ty đảm nhận vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu cung cấp các sản phẩn chủ yếu, điều hòa giá cả, phân phối hàng hóa, góp phần ổn định kinh tế –xã hội . Bên cạnh những thành công mà các Tổng Công ty đem lại cho nền kinh tế trong thời gian qua, chúng vẫn còn tồn tại một số yếu kém như: - Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế Xã hội, cụ thể tình trạng thiếu vốn ở các Tổng Công ty và doanh nghiệp là phổ biến, năng xuất lao động còn thấp, chi phí sản xuất lớn làm cho giá thành cao, hàng hóa chưa có sức cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới. - Nội dung sở hữu về vốn chưa được xác định rõ ràng giữa Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. Tổng Công ty chưa điều tiết được vốn giữa các đơn vị thành viên theo mục tiêu đầu tư phát triển chung của toàn Tổng Công ty. Do đó bộ máy Tổng Công ty còn mang nặng tính chất hành chính trung gian, chưa thực sự làm được vai trò của bộ máy quản lý và điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Kết quả là nhiều Tổng Công ty được hình thành bằng “Phép cộng số học” đơn thuần các doanh nghiệp thành viên lại với nhau, nên chúng không có quan hệ mật thiết trong sản xuất kinh doanh hoặc về công nghệ tài chính. Nhiều Tổng Công ty biến thành cơ quan quản lý hành chính cấp trên mà không có tác dụng gì đối với các doanh nghiệp thành viên. Quan hệ Tổng Công ty với các thành viên mới chỉ là hình thức, chưa có nội dung. Trong hoạt động chưa tạo ra mối quan hệ dính kết giữa Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. - Về địa vị pháp lý và thành phần Hội đồng quản trị quy định chưa phù hợp, chưa rõ ràng, khó phân biệt quyền hạn và trách nhiệm giữa Hội đồng quản trị với Tổng Giám đốc, do đó có sự tranh chấp quyền lực giữa Hội đồng quản trị với Tổng Giám đốc. - Trong mối quan hệ kinh tế với các tập đoàn kinh doanh nước ngoài còn nhiều hạn chế cả về năng lực và nhận thức. - Cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhất là cơ chế tài chính chưa tạo điều kiện huy động đa dạng các nguồn vốn. Do đó chậm đổi mới quy trình công nghệ, sản phẩm kém cạnh tranh, khả năng mở rộng sản xuất bị hạn chế. Chính vì vậy mà hoạt động của các Tổng Công ty đạt hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trong sự nghiệp đối mới nền kinh tế. Như vậy, chúng ta chưa có các tập đoàn kinh tế theo đúng nghĩa của nó và việc hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh vẫn là yêu cầu bức thiết đặt ra cho nền kinh tế nước ta. Hơn nữa nền kinh tế Việt Nam về cơ bản cũng đã hội tụ được một số yếu tố cho phép thành lập và phát triển các tập đoàn kinh tế lớn như: - Trình độ tích tụ, tập trung và liên kết kinh tế ở một số ngành đã đạt mức nhất định. Những ngành này đều giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo những yêu cầu cần thiết cho thị trường và có triển vọng phát triển. Chính sự ra đời của các TĐKT lớn sẽ thúc đẩy hơn nữa trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất. - Đội ngũ các chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý điều hành đã được nâng cao về trình độ trí thức, chuyên môn, vững vàng bản lĩnh chính trị, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Tiềm lực khoa học - công nghệ đã được nâng lên đáng kể: từ năm 1997 đến nay, nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ của cả nước đã tăng gấp nhiều lần. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ đại học đạt tăng và hàng năm bổ sung thêm khoảng 180.000 người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ đã tăng lên đáng kể. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số ngành và trình độ đội ngũ cán bộ nghiên cứu cơ bản đã được nâng cao. Nhìn chung đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi với công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới, ở một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. - Nước ta đã mở rộng quan hệ ngoại giao và quan hệ thương mại với nhiều nước trên thế giới. Do thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987 và đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần qua các giai đoạn cho phù hợp….nên đã thu hút được khá nhiều các tập đoàn kinh tế nước ngoài vào hoạt động, mở rộng các mối quan hệ kinh tế. Vì vậy các Tổng công ty và các doanh nghiệp của nước ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình cả trên thị trường trong nước và nước ngoài, dủ sứ mạnhh vươn lên trên con đường hội nhập thế giới. - Sự phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đã góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sống động hơn. Sự phát triển của chúng không chỉ góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước mà còn tạo tiền đề tạo ra các yếu tố để liên kết các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước tại Việt Nam, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của đất nước; là trung tâm tạo công ăn việc làm, thu hút hơn 210.000 lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp và hàng chục nghìn lao động trong các công đoạn phụ trợ cho sản xuất chính; góp phần đào tạo, nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới… - Về môi trường kinh doanh: chúng ta đã có hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy tương đối chặt chẽ, cụ thể và ngày cang được hoàn thiện cho phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Trên cơ sở những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi như vây, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa IX đã chỉ rõ: “Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc doanh, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh”. Để các tập đoàn kinh tế phát triển bền vững, đạt được những mục tiêu đề ra, chúng ta cần phải khắc phục được những khuyết điểm đã mắc phải khi xây dựng các Tổng công ty trước đây đồng thời học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của các nước khác, tiêu biểu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan – các nước đã đi trước chúng ta trong việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế của nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. 2.2. Thực trạng hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế Trong thời kì đầu của cải cách doanh nghiệp, chính phủ Việt Nam đã nhận thấy tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong sản xuất, marketing và đổi mới công nghệ. Điều này là để thích ứng với sự phân tách nặng nề về ngành và thị trường giữa các cơ quan hành chứ nính nhà nước. Các hoạt động trong nhiều ngành thường được thực hiện theo kế hoạch chứ không phải là hoạt động tự thân của các doanh nghiệp, do đó không cần phải có các tập đoàn doanh nghiệp. Kể từ khi thực hiện cải cách, hệ thống kế hoạch hoá tập trung bắt đầu bị phá bỏ cùng với mức độ cải cách kinh tế và mở cửa ngày càng sâu rộng, nhu cầu điều phối ở cấp độ doanh nghiệp tăng nhanh. “Cùng quản lý”, hình thức đầu tiên của tập đoàn kinh tế bắt đầu xuất hiện để đáp ứng yêu cầu này. Quá trình hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam đã trải qua 5 giai đoạn khác nhau: Giai đoạn 1: Sự phôi thai của các tập đoàn kinh tế. Đặc điểm chính của giai đoạn này là tạo điều kiện cho việc cùng quản lý giữa các doanh nghiệp có liên quan mà không làm thay đổi cơ cấu sở hữu. Cải cách doanh nghiệp đã mang lại nhiều quyền tự chủ hơn cho các doanh nghiệp nhà nước. Các lãnh đạo doanh nghiệp bắt đầu chịu trách nhiệm tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trở nên quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Việc cùng quản lý đã loại bỏ được những rào cản giữa các lĩnh vực và các ngành công nghiệp, tái thiết lại ngành công nghiệp tạo điều kiện cho chuyên môn hoávà tránh được những trùng lặp về dự án. Tuy nhiên, những hạn chế của việc cùng quản lý cúng rất lớn. Sự thay đổi cơ cấu sở hữu, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan hành chính nhà nước (chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước) và sự thay đổi của hoạt động tài chính và cách thức phân chia lợi nhuận là không được phép. Giai đoạn 2: Sự xuất hiện của các tập đoàn kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước được khuyến khích thành lập các tập đoàn kinh tế mà không có bất kì một hạn chế nào về địa bàn, lĩnh vực và ngành nghề. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “tập đoàn kinh tế ” xuất hiện trong văn bản chính thức của chính phủ và có nghĩa là đánh dấu sự ra đời của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam. Một thời gian ngắn sau đó, hầu hết đều trở thành các tập đoàn kinh tế. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực sản xuất sau đó lan ra các lĩnh vực khác như nghiên cứu và đổi mới công nghệ, cung cấp nguyên liệu thô, bán sản phẩm, tiếp cận nguồn tín dụng và đầu tư các dịch vụ chia sẻ thông tin. Trên cơ sở những lĩnh vực vày, nhiều đơn vị, dù có quan hệ chặt chẽ hay lỏng lẻo đều liên kết với nhau thông qua vốn, sản phẩm, công nghệ chiến lược phát triển, dịch vụ, thông tin, v.v… Việc hình thành sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và sau đó là các tập đoàn doanh nghiệp đã làm giảm đáng kể sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp, phát triển thị trường khu vực, và phá vỡ sự xé lẻ theo lĩnh vực của hệ thống kế hoạch hoá. Giai đoạn 3: Sự hình thành các tập đoàn doanh nghiệp. Tuy nhiên, chính sách sau đó đã không cho phép việc sáp nhập và mua lại giữa các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp có thể thiết lập hợp tác chiến lược nhưng không được phép tái cơ cấu để tận dụng những lợi thế của việc liên kết. Để giải quyết vấn đề này, Uỷ ban kinh tế nhà nước đã đề xuất tiếp tục thúc đẩy hình thành các tập đoàn doanh nghiệp dựa trên hợp tác doanh nghiệp qua “Đề xuất thành lập và phát triển các tập đoàn doanh nghiệp ” bao gồm các đề xuất sau: Thứ nhất: Lý do thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế là để thống nhất thị trường bị phân tách, cải cách các doanh nghiệp nhà nước đã tự đảm bảo cho hoạt động của mình, tái cơ cấu các ngành, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng với quá trình chuyên môn hoá, tận dụng những lợi thế kinh tế nhờ quy mô và phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Hơn nữa, tập đoàn doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự đổi mới công nghệ và củng cố công nghệ cho các doanh nghiệp, và do đó sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thứ hai: Các nguyên lý cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi, và chống lại độc quyền trong hoạt động. Thứ ba: Những đòi hỏi cho việc thành lập các tập đoàn kinh tế là rõ ràng. Với cấu trúc doanh nghiệp có cấp độ, tập đoàn kinh tế được phép thống nhất quản lý trong đầu tư, tài sản, các chiến lược kinh doanh và marketing. Đồng thời tập đoàn kinh tế cũng khai thác được khả năng thành lập các công ty cổ phần, tách rời sở hữu với quản lý. Thứ tư: Các chính sách đặc biệt thúc đẩy sự hình thành các tập đoàn kinh tế cũng được đưa ra. Tập đoàn kinh tế cần có tự chủ trong quản lý, quyền định giá, quyền quyết định bán ở đâu, đầu tư vào đâu, và sản xuất cái gì, quyền xuất khẩu sản phẩm và nhập công nghệ nước ngoài. Hầu hết các quyền kiểm soát do các cơ quan hành chính nhà nước nắm giữ phải được chuyển giao sang cho lãnh đạo của các tập đoàn doanh nghiệp. Giai đoạn 4: Chính thức hoá các tập đoàn kinh tế. Để thúc đẩy sự phát triển của tập đoàn kinh tế, nhà nước đã phê chuẩn “Đề án thí điểm tập đoàn doanh nghiệp”. Mục tiêu chủ yếu của việc thí điểm là xác định những mô hình hiệu quả cho tập đoàn kinh tế, cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách để đưa ra các chính sách thuận lợi cho tập đoàn kinh tế và thúc đẩy mạnh hơn sự phát triển của các tập đoàn kinh tế. Những tập đoàn kinh tế thực hiện thí điểm mô hình tập đoàn với cơ cấu theo cấp độ gồm các pháp nhân liên kết với nhau bằng đầu tư cổ phần hoặc hợp tác sản xuất. Những doanh nghiệp này được hưởng những chính sách thuận lợi nhằm mục tiêu giao thêm quyền tự chủ cho các tập đoàn kinh tế, cho phép chúng trở thành đơn vị lập kế hoạch độc lập không phụ thuộc vào chính quyền địa phương và các cơ quan hành chính nhà nước khác, thành lập các thể chế tài chính phi ngân hàng, quản lý xuất nhập khẩu trực tiếp, và được hưởng đặc quyền nộp thuế chung ở cấp tập đoàn. Các biện pháp cụ thể về việc xây dựng các tập đoàn kinh tế cũng được đưa ra. Những biện pháp này mang lại cho doanh nghiệp nhiều quyền kiểm soát hơn. Công ty mẹ (công ty tập đoàn) được: (1) Báo cáo trực tiếp cho cơ quan chính phủ có thẩm quyền về kế hoạch hàng năm và kế hoạch phát triển của mình. (2) Ký kết các hợp đồng trực tiếp với cơ quan chính phủ được chỉ định và sau đó ký hợp đồng phụ với các công ty con hoặc doanh nghiệp thành viên của mình. (3) Chịu trách nhiệm đối với việc hoàn trả các khoản vay cho các đầu tư lớn trong tập đoàn. (4) Quản lý các hoạt động kinh doanh và thương mại khác. (5) Báo cáo tất cả việc mua bán tài sản cho Uỷ ban quản lý và giám sát tài sản của nhà nước. (6) Bổ nhiệm lãnh đạo của các công ty thành viên. Việc kiểm soát công ty mẹ được đảm bảo thông qua: + Thành lập mối quan hệ công ty mẹ – công ty con thông qua đầu tư. + Trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhà nước thành viên được phê duyệt. Nền kinh tế thị trường XHCN trở thành mục tiêu của việc cải cách kinh tế, chính phủ Việt Nam cũng điều chỉnh các mục tiêu của việc thí điểm, đó là, chiến lược phát triển các tập đoàn là thúc đẩy phát triển các tập đoàn kinh tế lớn. Công ty mẹ và công ty con của tập đoàn kinh tế cần phải được liên kết chủ yếu trên vốn đầu tư. Sự phát triển trong tương lai của các tập đoàn kinh tế cần phải hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, ngoại thương và trao đổi thông tin. Giai đoạn 5: Tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế: Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh quốc tế nhiều hơn. Điều này cũng có thể được phản ánh trong chiến lược phát triển của các tập đoàn kinh tế. CHƯƠNG 3: GIảI PHáP PHáT TRIểN Và PHáT HUY VAI TRò CủA TậP ĐOàN KINH Tế ở Việt nam 3.1. Đánh giá mô hình tập đoàn kinh tế 3.1.1. Những kết quả đạt được và hạn chế của mô hình tập đoàn * Những kết quả đạt được : Từ khi xuất hiện tập đoàn kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng khu vực này. Số lượng các tập đoàn kinh tế không ngừng được tăng lên và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế không ngừng được cải thiện. Các tập đoàn kinh tế nói chung ở Việt Nam không ngừng gia tăng về số lượng cũng như không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Các tập đoàn kinh tế góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực, kết hợp tối ưu các yếu tố sản xuất, đạt được tính kinh tế nhờ quy mô, điều mà một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một hiệp hội với các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ lỏng lẻo không thể làm được, do vậy kinh tế là một sức mạnh khung và ngày càng trở thành một tổ chức kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân . Cùng với sự phát triển chung của các tập đoàn kinh tế, các tập đoàn kinh tế nhà nước ngày càng lớn mạnh khẳng định vị trí trụ cột trong nền kinh tế quốc dân. Thực tế tại các tập đoàn kinh tế nhà nước đã thể hiện được sức mạnh kinh tế quốc gia. Trước đây cơ cấu kinh tế không hợp lý là một vấn đề lớn, thể hiện ở chỗ số lượng doanh nghiệp thì rất lớn nhưng quy mô của từng doanh nghiệp lại nhỏ và mức độ tập trung hoá sản xuất thấp; các doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật thấp, sản phẩm tương tự nhau và năng lực nghiên cứu và phát triển độc lập còn yếu; các doanh nghiệp cũng có những đặc trưng không tốt như “lớn và tất cả”, “nhỏ và tất cả”, cơ cấu ngành nghề trong khu vực là tương tự nhau, trình độ chuyên môn hoá và hợp tác thấp. Do đó với với việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế, Việt Nam đã tiến hành một cách hiệu quả việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, thực hiện kinh tế quy mô và dần thay đổi tình trạng vô lý của cơ cấu tổ chức không hợp lý. Dựa vào tập đoàn kinh tế hiện nay, Việt Nam có thể đưa một số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống chuyên môn hoá và hợp tác hoá thông qua các kênh hợp tác về sản phẩm để tiếp tục điều chỉnh và tối ưu hoá việc xác định năng suất lao động và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một giai đoạn phát triển mới. Khi nền kinh tế Việt Nam ở giai đoạn trình độ thấp, thị trường của người mua sản phẩm xây dựng được hình thành và xuất hiện sự mâu thuẫn về dư thừa năng lực xây dựng so với tốc độ tăng trưởng GDP, sự thay đổi cơ cấu về cầu trong nước và các điều kiện cung cấp và sự thay đổi của môi trường quốc tế. Nhưng đồng thời một số sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm sử dụng nhiều vốn và công nghệ lại phụ thuộc rất nhiều vào hàng nhập khẩu, chẳng hạn như các thiết bị đồng bộ, máy móc chính xác và các tàu biển lớn, v.v…cần trên 50% là hàng nhập khẩu. Đó là lý do tại sao Việt Nam cần phải điều chỉnh cơ cấu công nghiệp và nâng cao chất lượng của nó. Việc điều chỉnh trong ngành xây dựng như vậy đòi hỏi phải chuyển trọng tâm từ sự chú ý vào từng doanh nghiệp riêng lẻ sang chú trọng vào chiến lược điều chỉnh toàn bộ và có tính hệ thống. Do vậy, việc điều chỉnh trong xây dựng phải được xem xét trong mối quan hệ với việc cải cách có tính chiến lược đối với cải tổ nhân sự doanh nghiệp, tận dụng hết vai trò của doanh nghiệp lớn để thúc đẩy qúa trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp. Vì nội dung chính của quá trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp là xây dựng và phát triển một nhóm các ngành kỹ thuật mới và kỹ thuật cao hoặc các ngành công nghiệp với kỹ thuật mới và cao, việc tăng cường toàn bộ ngành công nghiệp có đặc trưng là tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và nâng cao vị thế so sánh và vị thế công nghiệp trong hệ thống phân công quốc tế. Các ngành công nghiệp có công nghệ cao và mới có đặc trưng là sử dụng nhiều vốn và công nghệ và đòi hỏi các yếu tố sản xuất phải được tập trung và kết hợp lại với nhau thành quy mô lớn. Trong khi đó chỉ có tập đoàn kinh tế lớn có khả năng phát triển những ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ ở quy mô lớn và nó có thể tận dụng được sức mạnh kinh tế và lợi thế kỹ thuật của mình để nắm được xu hướng của thị trường trong và ngoài nước, tự xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, một bước tiến quan trọng đối với đất nước để thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia. Việt Nam có một số lượng lớn các doanh nghiệp nhỏ trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp này chiếm thị phần lớn hơn nhờ có cơ chế hoạt động linh hoạt và giá rẻ, nhưng họ cũng gặp khó khăn do trình độ công nghệ thấp, chất lượng sản phẩm thấp nhất và khả năng cạnh tranh yếu, v.v… nếu những doanh nghiệp nhỏ này tham gia trên thị trường mà chỉ dưạ vào sức mạnh của bản thân họ, thì họ sẽ phải đối mặt với vấn đề tồn tại hoặc bị loại bỏ. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp nhỏ có thể gia nhập tập đoàn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình đồng thời nhận được sự bảo vệ hoặc đỡ đầu và nhiều cơ hội phát triển hơn từ phía tập đoàn. Các doanh nghiệp nhỏ gia nhập tập đoàn bằng cách thiết lập những lợi ích chung với các thành viên khác của tập đoàn và thu được lợi ích có thể có đối với một doanh nghiệp độc lập bằng cách cùng sử dụng các yếu tố sản xuất như công nghệ, vốn và thông tin với các thành viên khác của tập đoàn nhằm làm giảm chi phí giao dịch và tận dụng những lợi thế riêng có của mình như tính độc lập và sự linh hoạt vì họ có thể gia nhập hoặc rút khỏi một tập đoàn kinh tế nào đó hoặc đồng thời trở thành thành viên của hai tập đoàn khác nhau tuỳ theo lợi ích của mình. Lợi ích lớn nhất từ việc thiết lập mối quan hệ giữa tập đoàn kinh tế với các doanh nghiệp nhỏ này là sẽ hình thành một thị trường nội bộ với sự hợp tác nhiều hơn và cạnh tranh ít hơn giữa các thành viên. Bởi vì chính tập đoàn sẽ đóng vai trò chủ chốt trong quá trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia khi xoá bỏ hoặc phát triển một số ngành, nên các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với tập đoàn có thể nắm chắc định hướng điều chỉnh cơ cấu và nhận được sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật thị trường, v.v…từ các doanh nghiệp chủ chốt hoặc cơ bản để điều chỉnh cơ cấu sản phẩm và định hướng hoạt động của mình với chi phí và trở ngại thấp vào thời điểm điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia. Đây là cách tốt nhất để tồn tại và phát triển đối với các doanh nghiệp nhỏ này. Đồng thời, tập đoàn kinh tế lớn cũng trở thành người thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô vì chúng đã đưa một lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống sản xuất và hợp tác của mình. Và chỉ kênh này thôi đã là cách thức tốt nhất để thực hiện các chính sách công nghiệp quốc gia. Việc xây dựng các tập đoàn kinh tế tạo nền tảng cho việc tham gia vào cạnh tranh quốc tế. * Những hạn chế của tập đoàn kinh tế Mặc dù tập đoàn kinh tế tăng trưởng rất nhanh, đóng vai trò chi phối và thậm chí là quyết định trong nền kinh tế quốc dân về phát triển kinh tế nói chung, nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề giữa các tập đoàn kinh tế ở các khía cạnh dưới đây: - Tập đoàn kinh tế có quy mô tương đối nhỏ, sức mạnh kinh tế thấp và cơ cấu tổ chức không bình thường. Việc tổ chức xây dựng tập đoàn kinh tế thường là sự gia tăng đơn giản về số lượng doanh nghiệp và khối lượng hàng hoá sản xuất được. Về mục đích liên kết, nhiều tập đoàn kinh tế chưa xác định rõ nghĩa vụ và mục đích xây dựng tập đoàn đã vội vã đăng ký xin giấy phép đăng ký kinh doanh. Các mối liên kết thường xảy ra tình trạng chạy theo phong trào, không tìm hiểu nghiên cứu kỹ tính khả thi của tập đoàn kinh tế dẫn đến kết quả là xây dựng tổ chức bừa bãi các tập đoàn kinh tế. Nhiều doanh nghiệp hơi lớn một chút đã tự xưng là tập đoàn kinh tế. Do vậy, quy mô của các tập đoàn kinh tế thiên về nhỏ, thực lực yếu khó có thể tạo ra sức cạnh tranh quốc tế. Mặt khác, các tập đoàn kinh tế chưa xây dựng được thể chế kinh doanh nhất thể hoá trong nội bộ tập đoàn nên thiếu mục tiêu kinh doanh đa dạng hoá giữa các ngành nghề phù hợp với kinh doanh quốc tế hoá. - Hầu hết các doanh nghiệp cần được tổ chức lại từ bên trong: Có hai con đường hình thành tập đoàn kinh tế: Một là bằng biện pháp hành chính mà chính phủ sử dụng để bắt buộc hình thành nên một tập đoàn, điều này làm cho các đơn vị thành viên phân phối tài sản với nhau một cách thiếu trật tự và làm giảm hiệu quả hoạt động của họ; cách thứ hai là các doanh nghiệp tự nguyện liên kết với nhau tuy vậy vẫn có vấn đề là các doanh nghiệp không tỉnh táo khi tìm cách mở rộng quy mô mà phải trả giá là hiệu quả hoạt động giảm. Rõ ràng là sự phân phối không hợp lý các nguồn lực là rất phổ biến trong cả hai cách do thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa các ngành nghề kinh doanh, thiếu ngành nghề chính có hiệu quả và lợi thế thị trường và năng lực cạnh tranh còn mơ hồ. Do đó, cần phải tổ chức lại và phân phối lại tài sản của tập đoàn để nâng cao lợi nhuận và năng lực cạnh tranh của tập đoàn. Doanh nghiệp muốn có lợi thế cạnh tranh trên thị trường sẽ phải có năng lực cạnh tranh của chính mình, đều này thể hiện hoàn toàn ở năng lực sáng tạo công nghệ. Ngoài ra, việc thiếu đầu vào khoa học là nhân tố chính làm cản trở quá trình sáng tạo công nghệ và nâng cao năng lực chuyên môn chính. - Thể chế quản lý của nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế chưa hoàn toàn hợp lý: Những quy định về mở rộng quyền tự chủ đã ban bố hiện nay là những quy định đối với các doanh nghiệp đơn lẻ chứ chưa giải quyết vấn đề tự chủ cho các tập đoàn kinh tế. Quyền phê duyệt, quyền nhận đầu tư đều bị hạn chế, mức tiền vay bị hạn chế theo từng khoản chứ không được dựa theo kế hoạch, việc nộp thuế trùng lặp. Đặc biệt, việc quản lý trong nội bộ tập đoàn chưa hoàn thiện, nó thể hiện ở chỗ: Một là: Yêu cầu về chương trình hoạt động của một số doanh nghiệp chưa rõ ràng, tính đúng đắn chưa đủ, sức ràng buộc không mạnh rơi vào hình thức chủ nghĩa. Hai là: Trong nội bộ tập đoàn chưa hình thành những biện pháp và chế độ quản lý kinh doanh có hiệu quả, nhất quán. Trong tình hình môi trường kinh doanh ở bên ngoài có những biến động tương đối lớn như điều chỉnh giá cả, điều chỉnh thu thuế làm cho quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp phức tạp, ảnh hưởng đến sức mạnh tập trung của tập đoàn. Ba là: Về mặt sắp xếp bộ máy, quản lý nhân sự còn ít cán bộ tháo vát, ban giám đốc hoặc nhân sự ban quản lý còn có nhiều biến động, tạo nên tình trạng thiếu người làm việc. Thiếu sự đảm bảo về phát triển trong phát triển tập đoàn kinh tế: Các hạng mục đầu tư lớn có chu trình dài, các bên liên hợp đều có rủi ro lớn nhưng không có sự đảm bảo của pháp luật. Trong điều kiện thị trường biến động các bên đều có thể đơn phương xoá bỏ hợp đồng, rút ra khỏi liên hợp. Tình hình này rất bất lợi cho việc phát triển lâu dài và ổn định của các tập đoàn kinh tế, đồng thời giữa các doanh nghiệp luôn có va chạm về quản lý và phân phối lợi ích làm cho việc củng cố và phát triển tập đoàn bị hạn chế. - Chưa thiết lập được các cơ chế khuyến khích và trách nhiệm hiệu quả. Vì tài sản cuả các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước có giá trị lớn, nên giám đốc của tập đoàn phải có trách nhiệm rất lớn đối với số tài sản này. Nhưng trong thực tế, quyền lợi và nghĩa vụ của người giám đốc không cân xứng nhau. Hệ thống bổ nhiệm và lương bổng của ban giám đốc là theo tiêu chuẩn của cán bộ công chức nhà nước, điều này làm cho ông ta có thể điều hành hoạt động bình thường của tập đoàn với rủi ro và nghĩa vụ thấp dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp của cả tập đoàn. Một số tập đoàn kinh tế gặp trở ngại trong kinh doanh vì gánh nặng xã hội trong quá khứ và khó khăn trong việc tách khỏi các nghĩa vụ xã hội đó. Mặt khác, các gánh nặng nghĩa vụ truyền thống có từ thời kinh tế kế hoạch hoá cũng đang làm giảm khả năng sinh lời của tập đoàn. Ngoài ra, một loạt các chi phí do cải cách, sáp nhập, tổ chức lại, phá sản, đánh giá lại tài sản, dịch vụ trung gian và chính sách không tốt đã trở thành gánh nặng mới cho tập đoàn. 3.1.2. Đánh giá chung về tập đoàn kinh tế Qua quá trình hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế của Việt Nam có thể nhận they rằng đây là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ tiến hành cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Việt Nam phát triển tập đoàn kinh tế qua nhiều giai đoạn, tiến hành thử nghiệm, rút kinh nghiệm để tìm ra phương thức quản lý nhà nước hiệu quả nhất đối với các tập đoàn kinh tế này. Mô hình này phù hợp với các đặc điểm của nền kinh tế nước ta- nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Các tập đoàn kinh tế nhà nước góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh, ổn định trong những năm gần đây. Các tập đoàn kinh tế nhà nước có hai dạng, một là thuộc sở hữu nhà nước hòan toàn, hai là đa sở hữu trong đó sử hữu nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Do đó thành phần kinh tế nhà nước vẫn duy trì được vị trí chủ đạo trong nên kinh tế quốc dân. Nhà nước có thể thông qua các tập đoàn kinh tế để định hướng phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước đồng thời thúc đẩy các thành phần kinh tế khác hoạt động hiệu quả hơn. Nhà nước tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế phát triển sẽ tích cực hơn trong việc tạo dung một môi trường kinh doanh thuận lợi, hình thành đồng bộ các hệ thống thị trường… Tuy nhiên, như bất kỳ một mô hình kinh tế nào, tập đoàn kinh tế nhà nước cũng có những nhược điểm. Quá trình hình thành và phát triển còn chịu nhiều ảnh hưởng các lực lượng phi thị trường. Các tập đoàn kinh tế nhà nước thường là độc quyền hoặc nửa độc quyền dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng. Nhiều địa phương chạy theo số lượng vội vã khi ra quyết định thành lập các tập đoàn kinh tế không tìm hiểu kỹ cũng tới hiệu quả kinh doanh kém. Để các tập đoàn kinht tế nhà nước phát triển hơn nữa cần tiến hành cải cách sâu rộng hơn, thực hiện triệt để các chính sách pháp luật liên quan. Bên cạnh phát triển cac tập đoàn kinh tế nhà nước cũng cần tạo điều kiện để các tập đoàn kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo môi trường cạnh tranh, cùng phát triển. 3.2. Giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế 3.2.1. Về vai trò của Nhà nước. Lịch sử hình thành các tập đoàn trên thế giới cho thấy sự hình thành phát triển các tập đoàn kinh tế thường là quá trình phát triển tự nhiên, là kết quả tất yếu của sự tích tụ và tập trung sản xuất đến một mức độ cao trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Quá trình phát triển tự nhiên này diễn ra dưới sự tác động của vô số yếu tố tự thân của doanh nghiệp và của môi trường kinh doanh bên ngoài. Có thể nói, các điều kiện bên ngoài có tác động quan trọng không kém gì các yếu tố vận động nội tại của tập đoàn. Các điều kiện hay môi trường bên ngoài này có thể chia làm hai loại: - Sự phát triển của nền kinh tế thị trường. - Môi trường do Nhà nước tạo ra, bao gồm môi trường chính trị – xã hội, hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý Nhà nước. Hai bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ, nhân quả với nhau. Chính sự phát triển theo quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi và thúc đẩy Nhà nước ban hành hệ thống luật pháp phù hợp và cơ chế quản lý tương ứng; đồng thời sự tác động của Nhà nước trong việc bảo đảm môi trường chính trị, xã hội, xây dựng hệ thống luật pháp và không ngừng hoàn thiện quản lý Nhà nước là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế thị trường. Việc hình thành các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam chịu sự tác động có tính quyết định của Nhà nước. Lý do là: - Sự hình thành tập đoàn kinh tế ở nước ta tuy trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, song sở hữu Nhà nước vẫn phải giữ vai trò nòng cốt. Vì vậy, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc lựa chọn lĩnh vực, phương hướng hình thành tập đoàn kinh tế. - Việc phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi Nhà nước phải vạch ra chiến lược lâu dài về phát triển kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, bảo đảm cho các tập đoàn kinh tế đó phục vụ định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. - Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển tập đoàn kinh tế theo định hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư của đất nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Vai trò của nhà nước trong việc hình thành các tập đoàn kinh tế được thể hiện trên các mặt sau đây: Thứ nhất, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường chính trị xã hội. ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh doanh của các tập đoàn kinh tế. Việc giá cả thay đổi thất thường, tỷ giá tăng mạnh hoặc giảm mạnh sẽ làm cho chủ đầu tư không tính toán được lỗ lãi. Chỉ trong môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, các tập đoàn kinh tế mới có thể tiến hành kinh doanh một cách lành mạnh, thực hiện hạch toán đầy đủ và bảo những kết quả kinh doanh không bị bóp méo do sự biến động bất thường của thị trường. Việc ổn định nền kinh tế vĩ mô tránh cho nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng dẫn đến tàn phá nền kinh tế, tạo ra sự tin tưởng của các nhà kinh doanh vào tương lai. Để thực hiện được điều đó, nhà nước cần chú trọng đến những nội dung sau: - Gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư cho phát triển. - Duy trì sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm có thể kiểm soát được lạm phát. - Duy trì sự cân đối trong cán cân thương mại bằng một tỷ giá hối đoái hợp lý. - Bảo đảm sự cân đối giữa tích luỹ và đầu tư, tránh sự lệ thuộc vào nước ngoài. - Đẩy lùi các tệ nạn tieu cực như nạn quan liêu, tham nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại. Sự ổn định về chính trị - xã hội tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong một xã hội ổn định về chính trị, các TĐKT được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại tài sản khác, do đó họ sẵn sàng đầu tư những khoản tiền lớn và thực hiện các dự án dài hạn. Nhà nước đảm bảo sự ổn định về xã hội có nghĩa là nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng tích cực, cho phép các tổ chức kinh doanh có điều kiện hoạt động có hiệu quả hơn. Những vấn đề xã hội đó bao gồm: vấn đề dân số, vấn đề việc làm, dân chủ, công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, xoá bỏ các tệ nạn xã hội, thái độ lao động, đạo đức kinh doanh, việc bảo vệ môi trường, việc cung ứng các dịch vụ về y tế, giáo dục và pháp luật. Các giá trị chung của xã hội, các tập tục truyền thống, lối sống của nhân dân, các hệ tư tưởng tôn giáo, vấn đề cơ cấu dân số, thu nhập của đân cư cũng lànhững yếu tố xã hội có tác động nhiều mặt đến hoạt động của các tổ chức kinh doanh. Thứ hai, Nhà nước có chiến lược và chính sách phát triển kinh tế phù hợp, lựa chọn đúng các ngành hoặc lĩnh vực để phát triển tập đoàn kinh tế. Nhà nước chuẩn bị điều kiện và thúc đẩy sự ra đời của các tập đoàn kinh tế nhằm tạo ra những đầu tàu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Trong những năm gần đây, các tập đoàn kinh tế có vai trò ngày càng lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là những tập đoàn kinh doanh xuyên quốc gia. Các tập đoàn kinh tế không chỉ chi phối sự phát triển của quốc gia đó, mà với sự bành chướng ra thế giới, chúng còn chi phối cả thị trường thế giới. Các tập đoàn kinh tế ra đời và phát triển nhanh chóng tạo nên nòng cốt về tiềm lực kinh tế của một quốc gia. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được những ngành kinh tế đầu tàu mũi nhọn, tiếp cận với trình độ khoa học – công nghệ tiên tiến trên thế giới, có các dụng đưa nước ta đi tắt, đón đầu trong một số lĩnh vực có lợi thế so sánh nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Việc hình thành các tập đoàn kinh tế trong các lĩnh vực này – thông qua sự tích tụ và tập trung vốn ở quy mô lớn, với mô hình quản lý kinh doanh hiện đại – sẽ trực tiếp tác động đến sự phát triển của ngành, lĩnh vực, tạo thế và đà cho sự phát triển. Trong bối cảnh nước ta hiện nay, trước mắt cần thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế ở một vài ngành mà ta có lợi thế cạnh tranh so với các nước khác như ngành hàng điện tử tin học, dệt may, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, chế biến nông lâm sản…trên cơ sở những tổng công ty hiện có. Thứ ba, phát triển các tập đoàn kinh tế theo hướng đa dạng hóa về sở hữu, về ngành nghề, về lĩnh vực kinh doanh. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã và đang thúc đẩy sự liên kết đa dạng giữa các doanh nghiệp cho thích ứng với môi trường cạnh tranh trên thị trường. Trong bối cảnh đó, xuất hiện sự liến kết kinh tế theo hướng liên kết ngang, liên kết dọc và kiên kết hỗn hợp giữa các doanh nghiệp để tạo nên các tập đoàn kinh tế. Liên kết đa ngành, đa lĩnh vực, đa sở hữu ngày càng trở thành một xu hướng chủ đạo trong sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế. Việc hình thành các Tổng Công ty 90, 91 ở nước ta vừa qua dựa trên sự liên kết ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành là chủ yếu. Trong tương lai, chúng ta phải xây dựng các tập đoàn kinh tế không chỉ theo hướng liên kết ngang, mà còn phải tạo điều kiện cho sự liên kết dọc và liên kết hỗn hợp nhằm phát huy tốt nhất sức mạnh tổng hợp của các tập đoàn và của từng doanh nghiệp trong tập đoàn. Thứ tư, đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các tập đoàn kinh tế. Các tập đoàn kinh tế là đơn vị sản xuất kinh doanh – dù có quy mô rất lớn thì chúng vẫn là đơn vị sản xuất kinh doanh. Vì vậy, hoạt động của chúng vẫn tuân theo quy luật kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Để có thể tạo ra lợi nhuận lớn nhất, các tập đoàn kinh tế này phải được bảo đảm sự chủ động và quyền quyết định độc lập về phương hướng sản xuất sản phẩm, thị trường tiêu thụ, thu hút vốn, phương án đầu tư ta, áp dụng khoa học công nghệ, về giá cả… Thứ năm, Nhà nước đóng vai trò định hướng phát triển, tạo môi trường kinh doanh và hỗ trợ cho các tập đoàn kinh tế, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của tập đoàn kinh tế. Nhà nước không những phải bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của tập đoàn kinh tế, mà còn phải tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi cho tập đoàn kinh tế để phát huy các khả năng của mình để đạt hiệu quả kinh doanh lớn nhất. Nói cách khác, Nhà nước chỉ thực hiện quản lý các tập đoàn kinh tế thông qua việc ban hành hệ thống pháp luật phù hợp, điều tiết các tập đoàn kinh tế thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách đòn bẩy kinh tế, góp phần xây dựng và hoàn thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ tập đoàn kinh tế những điều kiện cần thiết để giúp tập đàon kinh tế khẳng định được chỗ đứng của mình. Nhà nước cần nhận thức rằng trong tương lai, sức mạnh của nền kinh tế đất nước sẽ phụ thuộc không nhỏ vào tiềm lực của các tập đoàn kinh tế hùng mạnh. Vì vậy tạo điều kiện và hỗ trợ cho sự phát triển của các tập đoàn kinh tế không phải là sự trợ giúp một nhóm người nào đó làm giàu, mà là việc thực hiện chức năng của Nhà nước trong phát triển kinh tế, là sự tác động cần thiết để đưa nền kinh tế đi lên. Thứ sáu, Xây dựng môt hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường với sự quản lý của nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò quan trọng bậc nhất trong việc thực hiện quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Tập đoàn kinh tế là một mô hình kinh doanh còn mới mẻ trong điều kiện nước ta là biểu hiện đến mức độ cao của tích tụ và tập trung sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy xây dựng một hệ thống luật pháp thích hợp cho sự ra đời và hoat động của tập đoàn kinh tế là một yêu cầu quan trọng và cơ bản trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước. Các đạo luật cơ bản cần thiết cho sự ra đời của tập đoàn kinh tế bao gồm các đạo luật sau: Luật về công ty tài chính, luật thị trường chứng khoán, luật liên kết kinh doanh, luật đầu tư trong và ngoài nước, luật cạnh tranh, luật chống độc quyền…Các đạo luật nói trên tạo ra một môi trường luật pháp đồng bộ tạo điều kiện cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của tập đoàn kinh tế. Thứ bảy, thúc đẩy sự hình thành đồng bộ hệ thống thị trường. Tập đoàn kinh tế cũng giống như các doanh nghiệp khác có quan hệ với các loại thị trường: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vật tư, thị trường hàng tiêu dùng, thị trường công nghệ…Để tạo điều kiện cho sự hình thành các tập đoàn kinh tế , cần đặc biệt chú trọng đến các thị trường như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản. Thứ tám, quan tâm đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ các nhà nghiệp chủ, đội ngũ các nhà quản lý và quản trị kinh doanh thích ứng với nền kinh tế thị trường có kiến thức, có bản lĩnh, dám quyết đoán và dám chịu trách nhiệm, có khả năng dự đoán và giải quyết nhanh nhạy các tình huống xảy ra trong sản xuất kinh doanh. Có chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng sử dụng nhân tài, kịp thời, đúng mức; chính sách đãi ngộ phù hợp và thích đáng với chất lượng, trình độ lãnh đạo của cán bộ, công nhân viên; chính sách ràng buộc chặt chẽ giữa lợi ích và trách nhiệm tạo lực đẩy thôi thúc họ phấn đấu đi lên. Xử lý kịp thời và nghiêm minh với những cán bộ quản lý làm thất thoát tài sản của công ty, tập đoàn. Phát triển giáo dục - đào tạo là phát triển mặt chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả và mọi thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, đẩy nhanh sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế, tạo lực cho nền kinh tế đi lên hội nhập vào nền kinh tế thế giới vững chắc. Thứ chín, xây dựng các kết cấu hạ tầng cần thiết cho sự phát triển tập đoàn kinh tế . Cơ sở hạ tầng nói chung được chia làm hai loại: cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. Thuộc nhóm cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống giao thông bến cảng, hệ thống bưu chính viễn thông và các bất động sản công nghiệp khác. Thuộc nhóm cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm: các cơ sở giáo dục đào tạo, các cơ sở nghỉ ngơi giải trí, bệnh viện, công trònh vệ sinh môi trường, phục vụ hiếu hỉ, tang lễ, các căn cứ bảo vệ an ninh quốc phòng… Việc tạo ra những cơ sở hạ tầng cần thiết là một điều kiện thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất. Đặc biệt, những cơ sở hạ tầng quan trọng như bưu chính viễn thông, hệ thống cảng, sân bay, đường sắt… là rất cần thiết co sự phát triển của các tập đoàn kinh tế, bởi vì tập đoàn kinh tế bao gồm hệ thống các doanh nghiệp thành viên có quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế, tài chính, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, thông tin, nghiên cứu, tiếp thị…Các mối quan hệ này chỉ có thể được thực hiện nhanh chóng, có hiệu quả với sự hỗ trợ của các phương tiện vật chất hiện đại. 3.2.2. Về bước đi và con đường hình thành. Việc hình thành các tập đoàn kinh doanh xuất phát từ tất yếu phát triển kinh kế đến một mức độ nhất định, do vậy, Nhà nước cần tôn trọng sự tự nguyện tham gia của các đơn vị thành viên. Phát triển các tập đoàn kinh tế là yêu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là sự phản ánh lực lượng sản xuất của xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định. Bài học thất bại của Trung Quốc trong thiết lập TĐKT là nếu chính phủ, các bộ, ngành có liên quan cố gắng tổ chức lại các công ty bằng mệnh lệnh hành chính, sáp nhập công ty kinh doanh hiệu quả với công ty thua lỗ sẽ không thu được kết quả. Chỉ khi các công ty và các DNNN sẵn sàng kết hợp với nhau để thiết lập các TĐKT, việc quản lý của các tập đoàn này mới có thể thu được hiệu quả. Do vậy, mặc dù nhận thức được sự cần thiết hình thành tập đoàn kinh tế ở nước ta, song chúng ta không nên lập nên các TĐKT bằng các lệnh hành chính. Thực tế cho thấy việc thành lập các Tổng Công ty bằng các mệnh lệnh hành chính không đem lại hiệu quả và sức mạnh thống nhất của tập đoàn theo cấp số nhân như chúng ta mong muốn, mà đó vẫn chỉ là con số cộng thuần tuý của các kết quả hoạt động có tính tách rời của các doanh nghiệp thành viên. Vì vậy, để tập đoàn kinh tế có thể ra đời, Nhà nước cần tạo ra những điều kiện cần thiết và tác động bằng những biện pháp gián tiếp để tạo thành một tất yếu tích tụ và tập trung sản xuất, dẫn đến việc liên kết tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên vào TĐKT. Trong điều kiện về cải cách DNNN ở nước ta hiện nay, việc chuyển đổi các Tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty con, chuyển đổi các DNNN thành các công ty cổ phần hoạt động theo luật doanh nghiệp là giải pháp phù hợp, tạo khả năng liên kết các doanh nghiệp với nhau một cách tự nhiên thông qua sự thâm nhập, chi phối nhau bằng vốn đầu tư. 3.2.3. Về cơ cấu tổ chức của các TĐKT. Trung Quốc thực hiện tổ chức tập đoàn theo mô hình công ty mẹ – công ty con lấy mối quan hệ chủ yếu là vốn và tài sản, khai thông mối quan hệ trong tập đoàn. Các TĐDN đều thành lập một hoặc một vài công ty khống cổ. Nhiệm vụ của công ty khống cổ là quản lý vốn và tài sản nhà nước của tập đoàn đầu tư vào công ty con và bán cổ phiếu thu hút vốn cổ phần ngoài xã hội để đầu tư vào công ty cổ phần (công ty con). Qua công ty khống cổ, tập đoàn bước đầu xác lập mối quan hệ chủ yếu về vốn và tài sản của tập đoàn (công ty mẹ) với công ty con (loại 100% vốn nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh) và xác định mối quan hệ chi phối của công ty mẹ về đầu tư, điều hoà vốn, kinh tế và mậu dịch đối ngoại,…để công ty mẹ đóng vai trò quyết định về phát triển chiến lược, điều chỉnh cơ cấu, điều hoà lợi ích trong tập đoàn, hạ phóng quyền quản lý kinh doanh cho công ty con. Như vậy để TĐKT sớm ra đời Việt Nam cần chuyển hướng liên kết theo kiểu hành chính, thu gom đầu mối của Tổng công ty nhà nước sang liên kết bằng tài chính phù hợp với mối quan hệ công ty mẹ – công ty con. Để thực hiện được điều này cần ban hành nghị định về tổ chức, chuyển đổi Tổng công ty, DNNN theo mô hình công ty mẹ – công ty con để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý hoạt động theo mô hình trên. Trong đó công ty me là một DNNN (nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối), có thể được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty mẹ có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh mà chỉ thực hiện hoạt động quản lý và kinh doanh vốn đầu tư ở các công ty khác. Đồng thời, tuỳ theo tính đa dạng về ngành nghề hoạt động cùng số lượng và loại hình doanh nghiệp thành viên tập đoàn, công ty mẹ có thể trực tiếp chi phối các công ty con hoặc chi phối thông qua công ty đầu tư tài chính của tập đoàn. Xây dựng cơ cấu quản lý của TĐKT bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Bộ máy điều hành, giám đốc các đơn vị thành viên. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của TĐKT, gồm các chủ sở hữu hoặc đại diện chủ sở hữu (đối với DNNN) chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu về sử dụng bảo toàn và phát triển vốn, về sự phát triển của tập đoàn vàa các nhiệm vụ được giao. Hội đồng quản trị sẽ quyết định các vấn đề lớn và quan trọng như: chiến lược phát triển, phương án sản xuất kinh doanh, điều hoà và quản lý vốn, lựa chọn và quyết định tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên. Thành viên Hội đồng quản trị có thể được cử làm chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần – con (hoặc cháu). Ban kiểm soát có thể nằm trong hoặc ở ngoài Hội đồng quản trị, có nhiệm vụ kiểm tra giám sát hoạt động của tập đoàn và sự điều hành của bộ máy điều hành trong việc chấp hành pháp luật, nghị quyết của Hội đồng quản trị. Bộ máy điều hành gồm Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc và bộ máy giúp việc.Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của TĐKT, là người xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh , là người điều hành. Các Phó tổng giám đốc do Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Bộ máy giúp việc do Tổng giám đốc lựa chọn và quyết định sau khi được sư chấp thận của Hội đồng quản trị. 3.2.4. Về quản lý các TĐKT. Việc quản lý TĐKT phải đi cùng với quá trình mở rộng quy mô. Như chúng ta đều biết, khó có thể đảm bảo được sự phát triển lành mạnh của tập đoàn nếu như chúng ta không làm cho việc quản lý theo kịp với quá trình mở rộng tập đoàn vì kết quả sẽ rất tai hại một khi chúng ta mất khả năng kiểm soát quản lý và mở rộng quá mức quy mô của tập đoàn. Sự lựa chọn phù hợp hơn đối với việc mở rộng tập đoàn là xác định rõ mục tiêu phát triển của toàn bộ tập đoàn để điều phối các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên và phân bổ tốt các nguồn lực có thể kiểm soát được nhằm thực hiện chiến lược phát triển của toàn bộ tập đoàn. Xử lý tốt mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền. Cách tốt nhất để khai thác khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là để doanh nghiệp tự cạnh tranh trên thị trường. Và cạnh tranh là con đường duy nhất để tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, chúng ta không thể bỏ qua tình trạng hiện nay là TĐDN phát triển thành công hơn đều thuộc những ngành có khả năng sinh lời cao và có một số lợi thế về độc quyền tự nhiên. Đặc biệt khi chúng ta phát triển các TĐKT thuộc sở hữu nhà nước, như trường hợp của Trung Quốc do chưa có Luật chống độc quyền, nên các TĐDN nhà nước thường là độc quyền hoặc nửa độc quyền. Sự độc quyền này ngăn cản sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp nói chung và giữa các TĐDN nói riêng. Như vậy, nhà nước thể hiện là chủ sở hữu những doanh nghiệp đầu đàn nắm giữ một số ngành then chốt quan trọng, thuộc độc quyền nhà nước, nhưng tuyệt đối không được biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh và làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của người tiêu dùng. Kết luận Có thể khẳng định việc hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế của nhà nước là một thành tựu to lớn của Việt Nam trong công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Các tập đoàn kinh tế này đã khắc phục được những hạn chế của những doanh nghiệp nhà nước riêng lẻ trước đây như hạn chế về vốn, về quy mô, về công nghệ, về thị trường v.v… để không ngừng lớn mạnh và khẳng định được vị trí trụ cột của mình trong nền kinh tế quốc dân. Các tập đoàn kinh tế này hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như dầu khí, hàng không, điện lực, quốc phòng…làm tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế đồng thời là trung gian quan trọng đối với chính phủ để quản lý các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mô hình tập đoàn này vẫn tồn tại những vấn đề cần khắc phục đặc biệt là tình trạng độc quyền, hay một số lượng không nhỏ các tập đoàn kinh tế của nhà nước còn kinh doanh kém hiệu quả… Trong phạm vi của bài tiểu luận này tôi đã tập trung nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển, phát huy các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Tiểu luận cũng đưa ra các giải pháp, chính sách có liên quan, cũng như những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại của mô hình tập đoàn này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế. Để hoàn thành bài tiểu luận này, em xin chân thành cám ơn TS. Lê Ngọc Thông đã tận tình hướng dẫn Tài liệu tham khảo. 1.Vũ Huy Từ – Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá - NXB Chính trị Quốc gia, 2002. 2. Báo Diễn đàn doanh nghiệp. 3. Báo Đầu tư 4. Báo Thương mại 5. Đề án hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế trên cơ sở Tổng công ty nhà nước – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. 6. Các Tập đoàn doanh nghiệp của Trung Quốc - quá khứ, hiện tại và tương lai phát triển - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37285.doc
Tài liệu liên quan