Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, không những thị trường có dung lượng lớn, mà hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và chất lượng. Tuy nhiên, tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất quyết liệt vì thị trường Mỹ hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh, hàng hoá của Mỹ nhập khẩu từ gần 150 nước.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ mặc dù chưa được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, nhưng có tốc độ tăng khá nhanh về kim ngạch cũng như chủng loại sản phẩm. Theo dự đoán sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được Quốc hội của hai nước thông qua, doanh số xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ ở giai đoạn đầu sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Mêhico, . thì khó có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị trường này.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mặc dù có những điểm mạnh nhưng cũng có những điểm yếu, có những cơ hội tốt để phát triển nhưng cũng có những nguy cơ đe doạ. Cho nên, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ cần áp dụng những giải pháp vừa mang tính đặc thù của ngành vừa mang tính chất chung mà bất cứ ngành hàng nào muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng phải áp dụng. Ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, thì cần sự hỗ trợ trực tiếp cũng như gián tiếp của Nhà nước để hàng dệt may Việt Nam có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường Mỹ.
Thâm nhập thành công ở thị trường Mỹ đó là một bước tiến giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập thành công ở khu vực và toàn cầu.
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á khoảng gần 900 tỷ USD năm 2000, nhiều loại hàng xuất khẩu cần đến nguyên liệu xuất khẩu.
Về chất lượng hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ rất linh hoạt, vì phương châm kinh doanh thương mại của Mỹ là “tiền nào của nấy”. Dân Mỹ có mức sống rất đa loại, nên có hệ thống cửa hàng cho người có thu nhập cao, cửa hàng cho người có thu nhập thấp. Chính vì vậy, hàng nhập khẩu vào Mỹ rất đa dạng, đa loại từ nhiều nước khác nhau phục vụ cho các phân khúc thị trường khác nhau. Kim ngạch nhập khẩu của Mỹ lên tới 918,8 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu về 6 mặt hàng ( mà ta có lợi thế) cũng khá lớn: hàng dệt, may 35 tỷ USD, hàng hải sản 6,5 tỷ USD, rau quả 5 tỷ USD, cao su 8 tỷ USD, đồ gỗ 14 tỷ USD, giày dép 15 tỷ USD, cộng 83,5 tỷ USD. Nếu chỉ cần chiếm 2% thị phần trên, thì kim ngạch xuất khẩu hàng năm của nước ta đã vượt 1,5 tỷ USD.
Đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu nước ngoài nói chung và Việt Nam nói riêng, Mỹ là một thị trường tiềm năng với những đặc điểm nổi bật sau:
* Mỹ là thị trường có lịch sử phát triển hơn 200 năm nay: Trừ một số ngành kinh tế có liên quan đến an ninh quốc phòng của Mỹ không cho phép người nước ngoài kinh doanh như ngành sản xuất và kinh doanh vũ khí, vệ tinh, viễn thông... thì các nhà kinh doanh nước ngoài đến Mỹ làm ăn được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ như các doanh nghiệp Mỹ.
* Hệ thống luật kinh doanh của Mỹ rất phức tạp vì ngoài luật của Liên bang, còn có luật của từng bang. Cho nên muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ cần có sự am hiểu nhất định về hệ thống luật của Mỹ và phải có những bước đi thận trọng.
* Mỹ là thị trường lớn nhất thế giới, hàng năm nhập khẩu hàng hoá hơn 1300 tỷ USD, hàng nhập khẩu rất đa dạng.
* Tính cạnh tranh của thị trường Mỹ rất cao vì đa số các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển như EU, Nhật , các nước ASEAN, Trung Quốc, ấn Độ... đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực để thâm nhập.
2. Tìm hiểu chính sách ngoại thương của Mỹ
Hiện nay chính sách ngoại thương của Mỹ được thực hiện theo 3 nội dung chính như sau:
* Mỹ và các nước bạn hàng của Mỹ phải đối xử bình đẳng với nhau trong quan hệ buôn bán. Nếu các nước khác muốn buôn bán sản phẩm và dịch vụ của mình vào thị trường Mỹ thì họ cũng phải để cho Mỹ bán các sản phẩm của Mỹ vào các nước đó trong những điều kiện như nhau.
* Nếu các nước khác muốn đầu tư vào các xí nghiệp của Mỹ thì Mỹ cũng yêu cầu họ tạo điều kiện để Mỹ đầu tư vào các nước đó.
* Nếu các nước khác muốn thành lập công ty tại Mỹ thì Mỹ cũng phải được đến thành lập công ty ở các nước đó và phải được hưởng mức thuế tương tự như công ty của nước sở tại.
Nguyên tắc bao trùm chính sách ngoại thương này của Mỹ là dùng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch để chống lại chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch thông qua các công cụ thuế quan, hạn ngạch, các biện pháp kỹ thuật hạn chế xuất nhập khẩu, các luật thương mại... Các nước muốn đẩy mạnh buôn bán với Mỹ thì phải mở cửa thị trường của mình theo Hiệp định song phương và đa phương.
3. Biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ, những bài học rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước có hàng hoá sang thị trường này là :
* Tận dụng lợi thế gần Mỹ và hợp tác kinh tế với Mỹ :
Đó là kinh nghiệm của Canada và Mêhicô, chẳng những các nước này tổ chức sản xuất để đưa hàng vào Mỹ, họ còn lập ra các khu kinh tế mở để thu hút vốn đầu tư từ các nước xa Mỹ như: Nhật Bản, Trung Quốc, các nước ASEAN..., tại đây các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất hàng hoá để đưa trực tiếp vào Mỹ vừa giảm được chi phí vận tải, chi phí bảo hiểm, vừa được hưởng quy chế ưu đãi thuế quan của khối NAFTA mà các nước thành viên Mỹ, Mêhicô, Canada giành cho nhau.
* Tận dụng kiều dân sống ở Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu:
Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines... Họ tận dụng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp gốc Hoa, gốc Hàn... để làm bàn đạp đưa mạnh hàng hoá voà thị trường Mỹ mà không cần buôn bán qua trung gian. Với những khu vực thương mại của người Hoa ở các thành phố lớn của nước Mỹ mà hàng hoá Trung Quốc, Đài Loan chiếm lĩnh thị trường Mỹ mau chóng và hiệu quả.
* Nâng cao tính cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh thị trường:
Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan, Peru... Thật vậy, thị trường Mỹ rất lớn, nhưng người Mỹ khá thực dụng: giá rẻ vẫn là một trong những yếu tố quan trọng để chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt là thị trường bình dân và thu nhập thấp. Chính nhờ chính sách giá rẻ nhưng không vi phạm luật chống phá giá của Mỹ mà nhiều mặt hàng như : quần áo, đồ chơi trẻ em, giày dép, hàng dệt kim... của Trung Quốc chiếm thị phần rất lớn ở Mỹ.
* Đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến mẫu mã thường xuyên cũng là biện pháp quan trọng để chiếm lĩnh thị trường Mỹ. Đó là kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Thật vậy, nhờ có đổi mới liên tục về mẫu mã mà xe hơi của Nhật Bản thâm nhập mạnh vào thị trường, cạnh tranh được với xe hơi sản xuất tại Mỹ. Hay như kinh nghiệm của Trung Quốc: lúc đầu khi mới được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, Trung Quốc thâm nhập thị trường Mỹ chủ yếu bằng những mặt hàng tận dụng lao động nhiều như: hàng dệt may, giày dép, đồ da... Nhưng hiện nay, Trung Quốc đã đưa hàng chục nhóm ngành hàng xuất khẩu vào Mỹ trong đó 10 mặt hàng sau đây chiếm 77% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vào Hoa Kỳ : máy móc thiết bị, máy móc cơ khí, giày dép, đồ chơi, đồ gỗ, may mặc, đồ nhựa, đồ da, dụng cụ quang học, hàng dệt kim.
* Có chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư nước ngoài để làm ra hàng xuất khẩu đưa vào thị trường Mỹ:
Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc và Campucha: sau khi được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc của Mỹ, các nước này giành những ưu đãi về thuế đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hàng xuất khẩu sang Mỹ, nhờ vậy mà Campuchia thu hút mạnh vốn đầu tư từ Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, họ “đổ xô” đến Campuchia để tận dụng ưu đãi về hạn ngạch của Mỹ giành cho nước này. Nếu năm 1996 doanh số xuất khẩu ngành may của Campuchia chỉ đạt 72 triệu USD (đây là năm Mỹ bắt đầu cho Campuchia hưởng quy chế Tối Huệ Quốc) thì năm 1999 tăng vọt lên 600 triệu USD (chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của nước này), 70% số này xuất khẩu sang Mỹ.
Nhìn chung, những kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ kể trên đều có thể áp dụng ở mức độ khác nhau cho Việt Nam.
III. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ
1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ
Từ trước đến nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện được việc xuất khẩu mặt hàng dệt may sang Mỹ, nhưng với số lượng nhỏ, chỉ chiếm từ 5% đến 10% tổng lượng sản xuất của cả nước, cụ thể kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ năm 1999 là 30 triệu USD, năm 2000 là 40 triệu USD. Sở dĩ như vậy là vì sản phẩm dệt may của Việt Nam tuy hoàn toàn không gặp trở ngại về mặt chất lượng khi thâm nhập thị trường Mỹ, nhưng phải chịu thuế suất nhập khẩu rất cao, từ 30% đến 90%, trong khi đó mức thuế suất thấp nhất mà các nước khác được hưởng là khoảng 20%. Với hơn 1000 doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may và với hàng vạn cơ sở sản xuất may cá thể, Việt Nam có lợi thế về nhân công lao động có thể làm ra lượng sản phẩm lớn, nhưng các nhà sản xuất hàng dệt may nắm rất ít thông tin về luật lệ kinh doanh và thị hiếu của thị trường Mỹ. Phần lớn sản phẩm dệt may Việt Nam trước đây không xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ, mà phải đi qua nước thứ 3 khiến giá thành bị đội lên rất nhiều nên chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường này.
Theo thống kê của Hải quan Mỹ, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may các loại vào Mỹ trong năm tài chính từ tháng 3/1999 đến tháng 3/2000 là 65,52 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 0,5% tổng nhập khẩu từ ASEAN và 0,7% tổng nhập khẩu của Mỹ từ tất cả các nước. Về trị giá, Việt Nam đứng thứ 8 trong số các nước ASEAN và thứ 57 trong tất cả các nước có hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ.
1.1 Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đa phần là hàng may mặc, chia ra làm hai chủng loại chủ yếu là hàng dệt kim và hàng dệt thường, với kim ngạch xuất khẩu qua các năm như sau:
Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
Mặt hàng
1996
1997
1998
Kim ngạch
(%)
Kim ngạch
(%)
Kim ngạch
(%)
Dệt thường
20,01
84,79
21,96
83,15
24,53
81,22
Dệt kim
3,59
15,21
4,45
16,85
5,67
18,78
Tổng cộng
23,60
100,00
26,41
100,00
30,20
100,00
Nguồn : Tạp chí ngoại thương số 12/99
Số liệu trên cho ta thấy hàng dệt thường của Việt nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Một trong những nguyên nhân, ngoài thị hiếu của công chúng Mỹ đối với hàng dệt thường, là do thực trạng công nghệ dệt Việt Nam đang chú ý đổi mới trang thiết bị, lắp đặt các dây chuyền sản xuất đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng hiệu quả xuất khẩu mặt hàng dệt kim vì lý do mặt hàng này có hiêụ quả kinh tế hơn.
1.2. Các phương pháp thâm nhập thị trường Mỹ Việt Nam đã áp dụng đối với hàng dệt may
Việt Nam hiện nay đang áp dụng hữu hiệu các phương thức thâm nhập thị trường Mỹ sau:
* Bán trực tiếp cho các nhà kinh doanh Mỹ ở những mặt hàng có mức thuế suất nhập khẩu chênh lêch không nhiều so với Quy chế tối huêh quốc;
* Gia công trực tiếp, nhưng rất ít;
* Gia công và bán qua trung gian các nước thứ ba như Hong Kong, Đài Loan, Singapore.
2. Những khó khăn của sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
2.1 Điểm yếu của hoạt động xuất khẩu ngành may:
* Giá thành sản phẩm may mặc còn cao vì năng suất lao động của công nhân ngành may còn thấp hơn so với một số nước trong khu vực; công nghệ, thiết bị máy móc vẫn còn thua so với các đối thủ cạnh tranh; nguyên vật liệu ngành may chủ yếu còn phụ thuộc vào nhập khẩu làm giá thành nguyên vật liệu cao.
* 70 % trị giá xuất khẩu hàng may mặc thực hiện qua phương thức gia công, trong khi đó thị trường Mỹ chủ yếu thực hiện nhập khẩu trực tiếp (mua đứt, bán đoạn sản phẩm).
* Sản phẩm may của Việt Nam chưa có thương hiệu nổi tiếng thế giới.
* Tiêu chuẩn hoá chất lượng sản xuất sản phẩm chưa được coi trọng. cho đến tháng 1/2000 ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 60% năng lực may mặc của cả nước mới có một Công ty Total Phong Phú đạt được tiêu chuẩn quản trị ISO 9000.
* Do xuất khẩu gia công, nên công tác thiết kế mẫu mã chưa được coi trọng.
* Trình độ tiếp thị yếu, phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài đặt gia công.
* Tay nghề công nhân chưa cao, vì đây được coi là ngành có sự dịch chuyển lao động lớn (hậu quả do chế độ tiền lương thấp).
* Am hiểu về thị trường Mỹ chưa nhiều.
2.2 Sản phẩm dệt may khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ thường gặp khó khăn do những quy định ngặt nghèo của Mỹ như sau:
* Luật pháp Mỹ quy định rất chặt chẽ về chất lượng sản phẩm, về nhãn mác hàng hoá, về giấy chứng nhận xuất xứ hàng dêth may;
* Sản phẩm dệt may không được ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng, chẳng hạn sản phẩm có nguồn gốc từ động vật phải được kiểm tra thật kĩ lưỡng để không lây lan mầm bệnh từ vật sang người... Tất cả hàng hóa xuất sang Mỹ phải đáp ứng các qui định an toàn, sức khỏe cộng đồng Liên bang cũng như yêu cầu từng khách hàng đặt ra. Điều quan trọng là người bán phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu cần thiết như thông báo trong danh mục an toàn sản phẩm đề cập dưới đây:
- Người tiêu dùng bị thương do sử dụng sản phẩm lỗi có thể kiện người mua ra luật pháp và nhà cung cấp có thể bị phạt một khoản tiền lớn vì những “thiệt hại” do tình trạng thương tật gây nên. Nghiêm trọng hơn nữa người mua có thể bị đưa ra tòa án Mỹ và ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Mỹ (CPSC) vì hoạt động nhập khẩu và tiêu thụ các sản phẩm vi phạm qui định về tính an toàn.
- Cơ quan Chính phủ và Cục thẩm phán Mỹ có quyền dừng hoạt động nhập khẩu vào Mỹ hoặc có thể yêu cầu người mua ngừng bán các sản phẩm lỗi.
- Chính phủ có thể yêu cầu người mua thu hồi các hàng hóa bị lỗi và bản thân người mua phải thông báo cho người tiêu dùng về tình trạng hàng hóa và hoàn lại tiền cho người tiêu dùng. Đây là quá trình rất tốn kém, mất nhiều thời gian và có thể bị phạt nặng nếu các biện pháp giải quyết không ổn thỏa.
- CPSC có chức năng đưa ra các qui định an toàn sản phẩm và các qui định này bảo vệ người tiêu dùng tránh khỏi các sản phẩm không an toàn và đặt trách nhiệm này lên các nhà sản xuất, nhập khẩu và bán lẻ. CPSC đưa ra các yêu cầu báo cáo chặt chẽ đối với các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ về các sản phẩm đã được liệt kê ra, kết hợp với đạo luật liên quan vấn đề thương tật và tử vong.
- Hơn nữa CPSC còn áp dụng mức phạt rất nặng đối với các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ có hành vi vi phạm. Vì vậy sẽ không có một chuyến giao hàng nào được thực hiện cho đến khi người mua nhận được kết quả kiểm tra liên quan đến tính an toàn sản phẩm.
- Tất cả các loại vải 100% bông, tơ, gai, axêtat hoặc lụa và vải pha có chứa các loại sợi kể trên với trọng lượng nhỏ hơn 2,6oz/sq yd.
- Tất cả các loại vải cào tuyết 100% bông hoặc tơ và các loại vải pha khác từ các loại sợi này. Tất cả màu sắc cũng đều phải kiểm tra vì nhuộm ở những lần khác nhau gây ảnh hưởng đến tỷ lệ đốt cháy vải cào tuyết.
* Riêng với sản phẩm len xuất khẩu vào Mỹ, còn phải có Visa nhập khẩu của Hải quan Mỹ nhằm ngăn chặn những sản phẩm không phù hợp với quy định có thể được đưa vào trong nước.
* Số lượng sản phẩm dệt may xuất khẩu vào Mỹ sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực sẽ được điều tiết bằng hàng rào hạn ngạch (quota), do vậy phải cạnh tranh bình đẳng với tất cả các nước và lãnh thổ xuất khẩu hàng dệt may khác trên thế giới đã có mặt rất lâu trên thị trường Mỹ như HongKong, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan...với kim ngạch hàng năm thực hiện rất lớn.
* Mỹ ít thực hiện gia công mà mua đứt bán đoạn ở sản phẩm dệt may.
3. Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
3.1 Cơ hội
Ngành dệt may Việt Nam hiện có 750 doanh nghiệp (149 liên doanh và 100% vốn nước ngoài), sử dụng khoảng nửa triệu lao động, năm 1999 xuất khẩu 1.680 triệu USD, nhưng trong đó có tới 74% là giá trị vật tư phía nước ngoài đưa đến gia công.
- Trước đây, hàng dệt may của nước ta vào Mỹ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn từ 4 đến 5 lần tuỳ theo từng mặt hàng so với các nước khác có quy chế NTR. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, thuế nhập khẩu hàng may vào thị trường Mỹ giảm bình quân 30-40% nên kim ngạch sẽ gia tăng. Theo ước tính sau 3-4 năm, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ có thể đạt trên 1 tỷ USD. Hơn nữa, chất lượng và chủng loại của hàng dệt may Việt Nam thời gian gần đây được các thị trường khó tính Nhật và Tây Âu chấp nhận, sẽ dễ dàng chinh phục khách hàng Mỹ.
- Nguồn lao động của Việt Nam khá dồi dào.
- Các bên có thẩm quyền của Việt Nam và Mỹ quan tâm chuẩn bị đàm phán Hiệp định về may mặc khi có điều kiện.
- Nhà nước có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu : xúc tiến thương mại, thưởng xuất khẩu.
3.2 Thách thức
Mặc dù hàng dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng thách thức cũng không ít :
* Trước hết, đối với hàng dệt may, khi hiệp định thương mại có hiệu lực thì một hiệp định về hàng dệt may Việt-Mỹ sẽ được đàm phán. Hiện hai bên vẫn chưa đưa ra lịch trình cụ thể về việc đàm phán hiệp định về hàng dệt may, trong đó có thể Mỹ sẽ áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam như đã từng áp dụng đối với Campuchia. Vì vậy vấn đề là phải tranh thủ hết mức trước khi Mỹ đưa ra hạn ngạch.
* Cần phấn đấu nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu, phụ liệu ở trong nước, đáp ứng yêu cầu ràng buộc về tỷ lệ nội địa hoá để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi hay quy chế thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ dành cho các nước đang phát triển. Yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá đối với ngành may rất cao, lên đến 60%, trong khi tỷ lệ nội địa hoá thực tế còn thấp hơn nhiều, do chất lượng vải của ta còn quá kém, nên hầu hết nguyên liệu sử dụng cho ngành may xuất khẩu hiện nay đều phải nhập. Ngay áo quần đang xuất khẩu vào EU, chỉ có tỷ lệ nhỏ đáp ứng tiêu chuẩn để cấp Form A, còn hầu hết xuất khẩu theo chứng chỉ xuất xứ Form T, nghĩa là chưa được hưởng mức thuế quan ưu đãi cao nhất. Đối với Mỹ, điều kiện để được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi đối với một số mặt hàng, trong đó có hàng dệt may còn khó khăn và phức tạp hơn so với quy định của EU, hơn nữa quy định này hàng năm đều được Mỹ xem xét điều chỉnh.
* Khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước để sản xuất ra sản phẩm dệt may còn rất thấp.
* Nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế
Chất lượng nguồn lao động hiện nay đang là vấn đề khó đối với các nhà quản lý ngành dệt may. Theo số liệu của hội Dệt-May-Thêu-Đan thành phố Hồ Chí Minh, số người lao động trong ngành tốt nghiệp cấp 3 chỉ đạt 4%, văn hoá cấp 2 chiếm 61%, cấp 1 chiếm 21% ; về chất lượng chuyên môn chỉ có 12,5% trưởng dây chuyền được đào tạo chính quy; 12,7% được đào tạo tại chức; 14,5% được đào tạo ngắn hạn, trong khi có tới 60,3% chưa hề được đào tạo bên ngoài. Và hiện rất ít công ty quan tâm đến việc đào tạo tay nghề cũng như kiến thức cho những lao động giữ vị trí then chốt trong dây chuyền sản xuất, hoặc nếu có thì cũng xuất phát từ việc sử dụng những lao động làm việc lâu năm, có năng suất cao, có kinh nghiệm lên đảm nhiệm.
Ông Lê Quốc Ân - chủ tịch HĐQT tổng công ty dệt may Việt Nam, trong bài viết Ngành dệt may với vấn đề hội nhập đã chỉ ra : “... một trong những yếu tố chính và điểm mạnh chính làm cho hàng dệt may Việt Nam tăng tính cạnh tranh được như hiện nay đó là chất lượng..., không ít công đoạn còn có sự can thiệp trực tiếp của con người làm cho chất lượng sản phẩm không ổn định...”.
Sau quyết định số 55/2001/QĐ/TTg của Chính phủ, các doanh nghiệp liệu có thực hiện được khi điểm 5 điều 2 của Quyết định cho phép “ Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Trong khi đó tại hội nghị khách hàng về nhu cầu tuyển dụng lao động năm 2001 do Sở lao động - thương binh và xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, nhiều doanh nghiệp rất bức xúc và thực sự quan tâm đến vấn đề đào tạo chuyền trưởng (CT), tổ trưởng (TT) và nhân viên kiểm tra chất lượng của sản phẩm (KCS), nhưng vẫn còn nhiều lúng túng không biết tổ chức giải quyết như thế nào.
* Mỹ không đặt đơn hàng nhỏ lẻ. Một đơn hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên cao và cần liên kết lại nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng.
* Sự cạnh tranh ở mặt hàng may mặc trên thị trường Mỹ rất quyết liệt. Thật vậy, Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá, giá rẻ. Một số nước ASEAN như Philippines, Thái Lan, Indônêsia là những nước xuất khẩu lớn, có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy giá nhân công cao hơn Việt Nam nhưng họ có ưu thế nhờ sự tự túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao nên đã góp phần giảm giá thành sản phẩm. Nhiều nhãn hiệu uy tín có thể kể đến là áo thun “cá sấu” của Thái Lan, quần lót hiệu “Soel” của Philippin... Bên cạnh đó, Mêhicô, Canađa và các nước vùng Caribê đang là các quốc gia có xu thế và điều kiện thuận lợi để gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong những năm tới đây, sẽ là những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất trong rất nhiều đối thủ cùng cung cấp mặt hàng này cho thị trường Mỹ.
* Việt Nam chưa là thành viên của WTO nên không được hưởng lợi ích từ hiệp định ATC (Agreement on Textile and Clothing), Hiệp định điều chỉnh việc xoá bỏ quota áp dụng trong hiệp định Đa Sợi MFA (Multifibre Agreement). Đặc biệt trong tương lai, đến năm 2005, WTO xoá bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ mậu dịch đối với hàng dệt may. Đến đó, nếu Việt Nam chưa ra nhập WTO thì khó có điều kiện cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường Mỹ.
4. Cơ chế - chính sách của Nhà nước về quản lý xuất nhập khẩu
Xét về mặt cơ sở pháp lý và chính sách, các chính sách quản lý cả vĩ mô và vi mô đều cần phải được cải cách triệt để và toàn diện. Việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành chậm, chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn. Thị trường tín dụng, tài chính vẫn còn manh nha, nhỏ bé. Việc quản lý đất đai, hình thành khung khổ điều tiết hành chính cũng là một phần của vấn đề đó. Chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách tài chinh tín dụng cũng là những vấn đề bức xúc hiện nay. Bên cạnh đó, cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may.
Cơ chế quản lý kinh tế nói chung và quản lý xuất nhập khẩu của nước ta nói riêng còn nhiều bất cập, gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp. Quy định thiếu nhất quán, thủ tục phiền hà, đặc biệt là thủ tục miễn giảm thuế quan và thủ tục hoàn thuế nhập khẩu. Doanh nghiệp cần in tên sản phẩm, tên doanh nghiệp, nơi sản xuất lên sản phẩm của mình cũng phải xin giấy phép của Bộ Văn Hoá thông tin để được in và giấy phép nhập khẩu máy in. Hàng dệt may xuất khẩu của ta chủ yếu theo hạn ngạch nhưng cơ chế phân bổ hạn ngạch hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Cơ chế phân bổ hạn ngạch đồng đều tuy giải quyết được những vấn đề xã hội nhưng còn nhiều hạn chế về phương diện kinh tế vì các nhà kinh doanh nước ngoài thường muốn ký hợp đồng với một hoặc một số doanh nghiệp có uy tín thay vì phải ký hợp đồng với nhiều doanh nghiệp cùng một lúc. Đó là chưa kể đến sự lãng phí do bỏ lỡ đặc tính “lợi ích tăng theo quy mô” của các doanh nghiệp có quy mô lớn song không đủ hạn ngạch để sản xuất. Khắc phục thiếu sót này, từ tháng 12/1998, việc đấu thầu một phần hạn ngạch dệt may đã được tiến hành thí điểm tạo ra một bước tiến mới trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.
Việc cung cấp các thông tin cần thiết (về thị trường, sản phẩm) cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam từ các cơ quan chức năng là chưa hiệu quả, thiếu một sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ cấp Nhà nước. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng là thông tin thị trường mà các doanh nghiệp có được thường chậm và thiếu chính xác, không đồng bộ ; việc sử dụng các thông tin của nhau cũng rất khó khăn. Đây là một trở ngại lớn, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
5. Kết luận - bài học kinh nghiệm
Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, không những thị trường có dung lượng lớn, mà hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và chất lượng. Tuy nhiên tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất quyết liệt vì thị trường Mỹ hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh, hàng hoá của Mỹ nhập khẩu từ gần 150 nước.
Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua đưa vào Mỹ mặc dù chưa được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, nhưng có tốc độ tăng khá nhanh về kim ngạch cũng như chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không cao hơn so với của các đối thủ cạnh tranh như : Trung Quốc, Thái Lan, Mêhicô, Philippines, ấn Độ... thì khó có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị trường này.
Cho nên, muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ cần phải áp dụng những giải pháp hợp lý mang tính đặc thù của ngành, vừa phải áp dụng các biện pháp chung mà bất cứ ngành hàng nào muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng phải áp dụng. Ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp, thì rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước để hàng hoá của Việt Nam có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường Mỹ.
Thâm nhập thành công ở thị trường Mỹ, sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập thành công ở khu vực và toàn cầu.
IV. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ
1. Giải pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam
1.1 Nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc nâng cao tay nghề công nhân, có chính sách ưu đãi để giữ công nhân giỏi.
- Tiếp tục đầu tư để đổi mới trang thiết bị, máy móc ; Đầu tư chiều sâu phải đồng bộ và hoàn thiện cho từng dây chuyền sản xuất để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, loại bỏ những thiết bị quá cũ và lạc hậu. Không nhất thiết phải sử dụng những thiết bị thật hiện đại mà tùy thuộc vào điều kiện tài chính, mặt hàng, tính đồng bộ về công nghệ trong dây chuyền để chọn thiết bị đầu tư cho thích hợp. Mặt khác, cần ưu tiên phụ tùng thay thế, công nghệ, thiết bị tạo ra các mặt hàng ưu tiên. Đối với từng chuyên ngành hẹp cần quan tâm:
Ngành sợi:
Các dây chuyền thuộc thế hệ thập kỷ 60, 70 cần được thay đổi. Các hệ thống máy bông cần được thay đổi trước. Nâng cấp máy chải để đạt độ phân chải cao. Bổ sung hệ thống chải kỹ bông hiện đại cho các dây chuyền làm sợi chất lượng cao. Thay thế bộ kéo dài máy ghép cũ bằng các bộ kéo dài hiện đại, bổ sung máy ghép mới để cân đối dây chuyền. Máy sợi và máy con cần thay thế các bộ kéo dài đã cũ để tăng tốc độ lên 10-15%. Trang bị máy nối vê hiện đại cho các dây chuyền làm sợi cao cấp, sợi cho dệt kim. Xây dựng các buồng bảo trì, sửa chữa nhỏ có trình độ tiên tiến được trang bị máy đủ chính xác. Hướng chọn thiết bị, công nghệ, phụ tùng cần tập trung vào những nhà máy có dây chuyền làm sợi cao cấp, sợi bông chất lượng cao, dệt sản phẩm xuất khẩu của các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản ... Trong khi đó, các nhà máy làm sợi chi số trung bình, có chất lượng đảm bảo tiêu chuẩn thì chọn thiết bị của châu á. Mặt khác, cũng tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp.
Ngành dệt:
Đối với dệt thoi, nhất thiết phải trên cơ sở mặt hàng mũi nhọn đã xác định để lựa chọn thiết bị và công nghệ cho phù hợp trên cơ sở 8 nhóm sản phẩm đã hình thành trong những năm qua và những sản phẩm mới theo yêu cầu của thị trường. Do đó, hướng đầu tư là hiện đại hóa công nghệ từng bước, song sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Về máy dệt, đầu tư các thiết bị không thoi hiện đại, giảm dần máy dệt có thoi, nhất là các máy khổ hẹp. Phấn đấu đến năm 2010 chỉ còn một lượng nhỏ máy dệt có thoi dùng để dệt một số mặt hàng truyền thống. Công đoạn hồ mắc các thiết bị cũ phải được thay thế để đạt được trục hồ chất lượng cao cung cấp cho dệt hiện đại.
Đối với dệt thoi, cho đến nay ngành dệt kim Việt nam có 4 loại thiết bị: dệt kim tròn, dệt kim đan dọc, dệt kim phẳng, dệt kim bít tất. Song để có được sản phẩm dệt kim hoàn chỉnh phải đặc biệt quan tâm đến hai khâu nhuộm - xử lý hoàn tất và cắt - may.
Từ nay đến năm 2005, Ngành dệt Việt nam cần thay thế toàn bộ thiết bị cũ, bổ sung nâng cấp một số thiết bị còn sử dụng được. Đầu tư đồng bộ một số dây chuyền sản xuất công nghệ tiên tiến để làm một số mặt hàng chủ yếu theo từng vùng qui hoạch làm nòng cốt cho từng khu vực. Hơn thế nữa, từng bước đầu tư các thiết bị xử lý hoàn tất để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Đến năm 2010, Ngành dệt cần hoàn thiện thiết bị cũng như công nghệ trong toàn Ngành đối với các doanh nghiệp lớn và sản xuất hàng xuất khẩu.
Ngành nhuộm - xử lý hoàn tất:
Đây là công đoạn quan trọng nhất trong Ngành dệt, ngoài yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, giá trị của sản phẩm được quyết định bởi khâu xử lý hoàn tất. Do vậy, lựa chọn thiết bị - công nghệ ở công đoạn này cần được đặc biệt quan tâm và đầu tư thích đáng. Muốn chất lượng sản phẩm cao và nâng cao giá trị mặt hàng phải nhanh chóng đổi mới thiết bị và công nghệ nhuộm - xử lý hoàn tất.
Ngành may:
Công nghệ Ngành may cần được đầu tư, nâng cấp để theo kịp các nước trong khu vực và đảm bảo yêu cầu của thị trường. Đối với Ngành may, thị trường mẫu mốt thay đổi rất nhanh và nhạy cảm. Vì vậy, công nghệ và thiết bị phải đáp ứng được những yêu cầu thay đổi nhanh chóng của thị trường. Đối với khâu sản xuất, áp dụng đưa thiết kế giác sơ đồ trên máy tính, máy trải vải tự động và khâu cắt cho các doanh nghiệp lớn.
Thay đổi, bổ sung các máy ép dính có chất lượng cao cũng như trang bị các máy cắt tự động theo chương trình, cắt bằng tia laze. Đối với khâu ráp sản phẩm, thay mới các máy may công nghiệp và may chuyên dùng có thời gian sử dụng trên 10 năm. Tăng tỷ lệ các máy may có cắt chỉ, lại mũi tự động. Đưa thiết bị tự động có chuyên môn hóa cao vào các dây chuyền sản xuất. Đối với khâu hoàn thiện sản phẩm, đầu tư cho các dây chuyền các loại máy: thùa khuyết, đính cúc tự động, máy là ép định hình sản phẩm, thiết bị là ủi chất lượng cao. Đầu tư thêm một số phân xưởng giặt mài hoàn thiện sản phẩm dệt may. Nói cách khác, trong hoạt động đầu tư chiều sâu, cần đầu tư các nhà máy mới trong toàn Ngành tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ công nghệ, tay nghề công nhân, vươn lên tiếp cận thị trường tiến tới hòa nhập dần vào khu vực và thế giới. Đây cũng là một bước thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo nghị quyết của Đảng đã đề ra. Ngành công nghiệp dệt may phát triển sẽ kéo theo và giúp một số ngành khác cùng phát triển theo như: cơ khí, giao thông, dịch vụ thương mại ... Ngành dệt may phát triển sẽ tạo ra một số sản phẩm công nghiệp dệt mới phục vụ lại cho các ngành khác, giảm kim ngạch nhập khẩu cho đất nước.
Do đặc thù của các doanh nghiệp dệt may phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Giải pháp cho vấn đề này có thể là hình thức tổ chức sản xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, đảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định. Hình thức tổ chức này có thể là giải pháp cho vướng mắc hiện nay của các doanh nghiệp nhỏ khi chế độ đấu thầu hạn ngạch được áp dụng. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các vệ tinh của mình. Quan hệ mật thiết hơn giữa công mẹ và các vệ tinh có thể là hình thức thay thế tốt hơn cho hình thức xuất khẩu ủy thác hiện đang được áp dụng ở một số doanh nghiệp may xuất khẩu. Nó cho phép gom những lô hàng lớn, thuận tiện hơn cho người nhập khẩu như hiện nay, khách hàng đặc biệt là các nhà nhập khẩu Đức thường xuyên yêu cầu, đồng thời giảm được chi phí về thủ tục xuất khẩu.
- Quan tâm thoả đáng để đầu tư vào công nghiệp thiết kế thời trang, có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho các công ty may lớn đầu tư vào máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất - công nghệ CAD - CAM (Computer Added Design - Computer Added Manufacturing); công nghệ CAD - CAM có nhiều công dụng : vẽ phác thảo trên máy, tạo ra những mẫu cắt chính xác, mô tả được chất liệu vải, tạo ra bản vẽ kỹ thuật đầy đủ... Việc sử dụng loại máy này giúp doanh nghiệp tạo ra được những mẫu mã đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường Mỹ.
- Tạo những thương hiệu sản phẩm may có uy tín;
- Chú ý đến tính độc đáo của sản phẩm thông qua việc sử dụng chất liệu thổ cẩm, sản phẩm thêu tay, đan, ren...;
- Chú ý đến chất liệu làm ra sản phẩm may : đa số người Mỹ có sở thích tiêu dùng hàng dệt kim, hàng vải cotton hoặc chất liệu có hàm lượng cotton cao.
- Đầu tư thoả đáng vào công nghệ bao bì cho sản phẩm dệt may. Bao bì không những phải tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn mà còn phải nêu được các thông tin về tính chất và chất lượng sản phẩm. Thiết kế bao bì phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (ghi rõ bằng tiếng Anh xuất xứ, có ghi mã vạch), bao bì phải đảm bảo gọn gàng để giảm chi phí vận chuyển, lưu kho. Nhiều người cho rằng: nâng cao chất lượng bao bì, nhãn hiệu sẽ làm tăng giá trị hàng hoá. Thực tế, ngược lại, chính bao bì chất lượng cao lại làm giảm giá hàng hoá do giảm tổn thất khi vận chuyển, nhập kho bảo quản và trong bán hàng. Đặc biệt, đây cũng là một trợ thủ đắc lực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ.
- Hiện nay công nghiệp may mặc Mỹ chưa hiểu biết nhiều về chất lượng hàng may mặc Việt Nam. Các công ty dệt may Việt Nam nên tiêu chuẩn hoá chất lượng sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000, tạo lòng tin cho khách hàng nước ngoài, trong đó có khách hàng Mỹ.
1.2 Đảm bảo thực hiện các hợp đồng xuất khẩu lớn đúng thời hạn quy định
Đây cũng là một biểu hiện khả năng cạnh tranh của nhà cung cấp vì các doanh nghiệp ngành may Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó các hợp đồng đặt hàng của Mỹ thường rất lớn : từ 50 - 100 ngàn đến cả triệu lố sản phẩm ( mỗi lố 12 sản phẩm), thời gian cung cấp thường là ngắn 3 tháng trở lại. Để cạnh tranh được với các nước trong khu vực, đặc biệt với các doanh nghiệp Trung Quốc về khả năng cung ứng thì việc tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp ngành may có ý nghĩa quan trọng. Vai trò của Hiệp hội ngành may cần phải được nâng cao lên một bước, trở thành đầu mối đưa ra các khuyến cáo về đầu tư, về hợp tác sản xuất... để đảm bảo một lô hàng may do nhiều doanh nghiệp thực hiện nhưng vẫn đạt được các tiêu chuẩn xuất khẩu đồng nhất, có chất lượng cao.
Các doanh nghiệp dệt may nên kết hợp đầu tư thiết bị chuyên dùng đồng bộ để đủ sức sản xuất ra những lô hàng với số lượng lớn, chất lượng cao, đáp ứng thời hạn giao hàng chính xác.
1.3 Nâng cao tính cạnh tranh về giá cho sản phẩm may
Qua khảo sát thị trường Mỹ cho thấy rằng trừ những “hàng hiệu” được các hãng của ý, Pháp có giá đắt, còn hàng may mặc do Trung Quốc, ấn Độ, Mêhicô sản xuất giá rất rẻ, nhiều thứ còn rẻ hơn ở Việt Nam.
Hàng may Việt Nam chưa có thương hiệu có tiếng trên thế giới, thì nên tiếp tục duy trì chính sách định giá thấp để thoả mãn thị trường bình dân của Mỹ. Để nâng cao tính cạnh tranh về giá cho sản phẩm may các doanh nghiệp ngành may cần phải chú ý đến các biện pháp :
- Xác định sản phẩm mũi nhọn, có thế mạnh để đầu tư công nghệ mới, tạo ra các sản phẩm tăng về số lượng, chất lượng và có khả năng cạnh tranh cao.
- Có chính sách khuyến khích nâng cao năng suất lao động để giảm chi phí nhân công trên một đơn vị sản phẩm.
- Xây dựng tiêu chuẩn quản trị ISO 9000 trong các xí nghiệp may, vì hợp lý hoá quy trình sản xuất góp phần giảm được sản phẩm hỏng, tăng thế cạnh tranh, đổi mới công nghệ, tăng khả năng phát triển phù hợp xu thế hội nhập.
- Tìm kiếm nguyên liệu trong nước, kể cả nguyên liệu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI và doanh nghiệp KCX để giảm giá thành sản phẩm.
Sản phẩm Ngành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của Ngành may. Tạo lập mối quan hệ qua lại mật thiết giữa dệt và may. Thành lập bộ phận chuyên trách nắm nhu cầu của Ngành may để đặt hàng cho Ngành dệt có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý.
Phát triển hệ thống công ty sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu phải đầu tư cho công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu.
Thiết lập các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Quỹ thưởng xuất khẩu có 5% dành cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước và ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu nội địa là biện pháp tốt cho vấn đề này.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng đội ngũ làm công tác thị trường năng động và vững mạnh, lập các văn phòng giao dịch tại các thành phố lớn của Mỹ và thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm để đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, phân phối, tăng cường quảng cáo, khuếch trương kinh doanh.
- Liên kết với các hãng nước ngoài để sử dụng thương hiệu sản phẩm của họ, điều này cho phép định giá sản phẩm cao, nhưng vẫn mang tính cạnh tranh so với giá của các hãng gốc sản xuất.
- Quan tâm đến công nghệ thiết kế thời trang vì thị trường Mỹ ít đặt gia công mà mua theo FOB.
Cũng cần lưu ý là các công ty may mặc xuất khẩu Việt Nam không nên định giá quá thấp so với giá hiện hành trên thị trường Mỹ. Nếu không thì sẽ bị xem là bán phá giá và sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá vào mặt hàng đó.
2. Các biện pháp đưa nhanh sản phẩm may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ
Trong 1-2 năm đầu kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, việc tăng nhanh khối lượng và doanh số xuất khẩu sang thị trường Mỹ có ý nghĩa quan trọng vì theo quy định của Luật Thương Mại Mỹ, Hiệp định song phương về hàng dệt may giữa Mỹ với nước xuất khẩu như sau : Mức quota nhập khẩu hàng dệt vào thị trường Mỹ sẽ được xác định trên cơ sở trị giá hoặc khối lượng hàng dệt đã đưa vào thị trường Mỹ ở thời điểm đàm phán.
Thường thì khối lượng hàng dệt đưa vào Mỹ đạt 100.000 tá sản phẩm thì Hải quan của Mỹ bắt đầu theo dõi và khi khối lượng này tăng lên 200.000 tá sản phẩm thì phía Mỹ chính thức đề nghị đàm phán để xác định hạn ngạch nhập khẩu. Như vậy, để Việt Nam có thể nhận được hạn ngạch nhập khẩu lớn, thì trong 1-2 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hoá lớn sang thị trường này.
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may cần áp dụng những phương thức thâm nhập sau đây :
2.1 Trong thời gian đầu vẫn duy trì gia công, bán và phân phối qua trung gian để đưa hàng vào Mỹ
- Nhận gia công cho các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông để qua họ đưa hàng vào Mỹ.
- Nhận gia công cho các hãng may lớn ở Mỹ.
- Xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường trung gian, để sau đó các doanh nghiệp nước này đưa sản phẩm vào thị trường Mỹ.
2.2 Xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp Mỹ (Selling to the US) :
Khác với thị trường EU và Nhật Bản, các doanh nghiệp Mỹ ít sử dụng phương thức đặt hàng gia công may sản phẩm, mà họ thường áp dụng phương thức mua đứt bán đoạn. Nên vấn để ở đây là doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải thực hiện các công việc :
- Tìm kiếm khách hàng Mỹ, đẩy mạnh hoạt động Marketing .
- Đầu tư vào công nghệ thiết kế thời trang, tạo ra những sản phẩm may có mẫu mã phù hợp với yêu cầu của người tiêu cùng Mỹ.
- Đăng ký nhãn hiệu bản quyền từng bước tạo lập thương hiệu có uy tín.
ở giai đoạn này, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách :
Cải thiện môi trường đầu tư để khuyến khích đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành sản xuất nguyên liệu phục vụ may xuất khẩu và xuất khẩu sản phẩm may sang thị trường Mỹ.
Nhà nước có cơ chế tài chính hỗ trợ sự phát triển của ngành dệt may, vì xuất khẩu trực tiếp cần nhiều vốn hơn so với xuất khẩu gia công.
2.3 Tiến tới năm 2006 - 2010 : Thiết lập hệ thống phân phối sản phẩm dệt may tại Mỹ (Selling in the US).
Sau khi thử nghiệm sự tiếp nhận của thị trường Mỹ đối với sản phẩm dệt may của mình qua việc bán cho một nhà nhập khẩu Mỹ (tức “Selling to”), khi có được uy tín và đủ tiềm lực, các doanh nghiệp có thể thiết lập việc phân phối trực tiếp hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Cách tốt nhất để thực hiện được điều này là :
* Tạo lập mối quan hệ công chúng
Trước mắt các doanh nghiệp lớn có thể tạo lập thông qua mối quan hệ tốt đẹp đã có với các hãng may và tập đoàn quốc tế nổi tiếng để giới thiệu với công chúng Mỹ về sản phẩm may mặc Việt Nam. Có thể liên kết với thương nhân Việt Kiều Mỹ để tạo lập từng bước quan hệ với thị trường Mỹ.
* Thiết lập các đại lý bán hàng ở Mỹ để giao hàng nhanh chóng đến tận tay người tiêu dùng, tạo lập mối quan hệ ngày càng gắn bó với khách hàng. Cần tìm các đại lý có uy tín và có chế độ hoa hồng thoả đáng để khuyến khích bán hàng ở đại lý. Trên thị trường Mỹ, cộng đồng người Việt, kể cả người Việt gốc Hoa ở Mỹ là những kênh quan trọng giới thiệu hàng hoá Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần chú ý thâm nhập thị trường Mỹ trước hết thông qua các khu phố, siêu thị và chợ nơi có cộng đồng người Việt sinh sống ở California, Boston, Washington D.C, New york, Houston... ở khu vực này, bà con người Việt đang rất cần những sản phẩm quê hương, hàng hoá của ta xuất khẩu sang đây chắc chắn sẽ được hoan nghênh.
3. Các giải pháp đối với doanh nghiệp
Để đạt được thành công trong việc thâm nhập thị trường Mỹ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú ý :
* Ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần xác định rõ phương hướng kinh doanh, các đầu mối tiêu thụ, các đối tác, bạn hàng thích hợp... để có thể gia tăng kim ngạch xuất khẩu ngay khi đến lúc thích hợp ;
* Hiện nay, sản phẩm dệt may của Việt Nam cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của một số các công ty Mỹ đã vào Việt Nam thăm dò, tìm kiếm nguồn hàng. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong tương lai, nhất thiết phải chuyên môn hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, cũng như cần đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất và biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.
* Có chiến lược đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu trong nước có chất lượng cao để giảm chi phí sản xuất sản phẩm dệt may nhằm nâng cao tính cạnh tranh về giá trên thị trường Mỹ.
*Các doanh nghiệp Việt Nam cần làm quen với việc sử dụng thương mại điện tử để cập nhật thông tin, thiết kế mẫu mã, tìm kiếm khách hàng, và đặc biệt là tạo phong cách kinh doanh hiện đại phù hợp với các đối tác doanh nghiệp Mỹ.
*Tăng cường vai trò của Tổng Công ty dệt may:
Trong các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải quyết được: tìm kiếm, mở rộng thị trường, tổ chức triển lãm, hội chợ, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, giao dịch buôn bán chuyển giao công nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hóa, cung cấp thông tin thị trường ... Phát huy vai trò của Công ty tài chính dệt may, các Công ty tài chính cần trở thành đầu mối thu hút vốn và cân đối nhu cầu của các đơn vị dệt may trong Tổng Công ty và các đơn vị trong Hiệp hội dệt may.
4. Giải pháp đối với Nhà nước
4.1 Nhà nước cần có những chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài
Để đẩy mạnh sản xuất và nâng cao kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ nói riêng cần đầu tư mạnh mẽ để huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vai trò bằng cách thay mặt cho tập đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các doanh nghiệp dệt may, phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra, ngành dệt đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn, cần có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức - các xí nghiệp liên doanh, cổ phẩn hay 100% vốn nước ngoài. Với Ngành may, hiện đang có hai quan điểm trái ngược. Thứ nhất, cho rằng hiện năng lực Ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể thu hút vốn từ cổ phần trong nước. Vì vậy, hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài - vốn có ưu thế hơn về nguồn vốn, công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường - với các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này vẫn rất cần thiết nếu như Việt nam muốn có một Ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này, với ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ “mở đường” cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hóa của Việt nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp hiện chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các qui định ISO 9000 và ISO 14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường của các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Canađa, ... mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực như ấn Độ, Nêpan đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm tốt để Việt nam giải quyết tốt vấn đề này.
4.2 Hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp ngành may
Để hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may vốn có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn còn hạn hẹp, Nhà nước cần tổ chức các đoàn thương mại qua lại nhau, các chuyến đi khảo sát thị trường, mở showroom, website, tham quan triển lãm hội chợ... Nên thành lập trung tâm thương mại, siêu thị thời trang dệt may hoặc trung tâm kinh tế may với các chức năng sau :
- Cung cấp những thông tin về cơ hội gia công, mua bán hàng may ở các khu vực thị trường thế giới, nhất là thị trường Mỹ.
- Môi giới thuê mướn, mua bán máy móc, trang thiết bị ngành may.
- Tổ chức bình chọn “Top-ten” trong sản phẩm dệt may để khuyến khích nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt Nam.
- Tư vấn kỹ thuật, buôn bán, thủ tục Hải quan... đối với các doanh nghiệp ngành may.
4.3 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
Để thực hiện giải pháp này, truớc hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẫu, bản vẽ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi hợp lý, chính sách thưởng đại lý, tổ chức đào tạo cho các đại lý, cần có chế độ trợ cấp giá thoả đáng cho các doanh nghiệp và thị trường Mỹ. Cơ chế phân bố hạn ngạch phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy các doanh nghiệp tiến ra thị trường không hạn ngạch. Việc phân bổ hạn ngạch bình quân như hiện nay sẽ dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp thừa, trong khi một số khác thiếu hạn ngạch nên có hiện tượng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến việc cân đối thị trường. Từ năm 1999, đấu thầu một phần hạn ngạch hàng dệt may đã được áp dụng thí điểm nhưng đây chưa phải là giải pháp tốt nhất trong giai đoạn hiện nay vì nếu đấu thầu hạn ngạch, sẽ có hiện tượng “thoả thuận ngầm” của một số doanh nghiệp lớn trong cả nước để thắng thầu và giữ toàn bộ hạn ngạch của cả nước. Đương nhiên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn sẽ lâm vào tình trạng bế tắc. Để khắc phục nhược điểm này, trong giai đoạn hiện nay nên áp dụng phổ biến hơn nữa cơ chế phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu vào thị trường không hạn ngạch của doanh nghiệp. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình đồng thời tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra việc cấp hạn ngạch cũng nên chú ý ưu tiên đối với các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước. Hạn ngạch dệt may năm 2000 không tăng nhiều so với năm 1999 nhưng quy chế phân bổ hạn ngạch có 4 thay đổi lớn nhằm khuyến khích xuất khẩu, cụ thể : tỉ lệ ký hạn ngạch công nghiệp, giao quyền phân bổ cho UBND Hà Nội và UBND thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện đấu thầu thống nhất trong cả nước và phí hạn ngạch được tính bằng VNĐ.
Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, Nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Hơn nữa Nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như cấp tín dụng dài hạn, lãi suất thấp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu quy chế tín dụng xuất khẩu vào Mỹ, chế độ ưu đãi phổ cập (102-103) để khai thác nguồn vốn này mua sắm nguyên liệu.
Trong chiến lược phát triển ngoại thương của nước ta hiện nay đến năm 2010, hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo vì nó rất phù hợp với điều kiện lao động và sản xuất của Việt Nam. Bước sang những năm đầu của thế kỷ mới, Việt Nam sẽ thực hiện hàng loạt những cam kết quốc tế và khu vực về hội nhập mà vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu là cắt giảm thuế quan. Để đối phó với sự cạnh tranh bình đẳng nhưng khốc liệt hơn rất nhiều khi chúng ta là hội viên chính thức của các tổ chức quốc tế, Nhà nước Việt Nam cùng với ngành dệt may phải thực hiện một cách nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các chính sách, biện pháp về quản lý và sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng.
Kết luận
Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, không những thị trường có dung lượng lớn, mà hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và chất lượng. Tuy nhiên, tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất quyết liệt vì thị trường Mỹ hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh, hàng hoá của Mỹ nhập khẩu từ gần 150 nước.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ mặc dù chưa được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, nhưng có tốc độ tăng khá nhanh về kim ngạch cũng như chủng loại sản phẩm. Theo dự đoán sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được Quốc hội của hai nước thông qua, doanh số xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ ở giai đoạn đầu sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Mêhico, ... thì khó có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị trường này.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mặc dù có những điểm mạnh nhưng cũng có những điểm yếu, có những cơ hội tốt để phát triển nhưng cũng có những nguy cơ đe doạ. Cho nên, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ cần áp dụng những giải pháp vừa mang tính đặc thù của ngành vừa mang tính chất chung mà bất cứ ngành hàng nào muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng phải áp dụng. Ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, thì cần sự hỗ trợ trực tiếp cũng như gián tiếp của Nhà nước để hàng dệt may Việt Nam có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường Mỹ.
Thâm nhập thành công ở thị trường Mỹ đó là một bước tiến giúp nền kinh tế Việt Nam hội nhập thành công ở khu vực và toàn cầu.
Tài liệu tham khảo
Tạp chí Kinh tế thế giới số 3 (65)/2000
Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 6/2001
Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 7/2000
Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam số tháng 2/2001
Tạp chí Kinh tế và phát triển số 41/2000
Tạp chí Ngoại thương 12-18/5/2000
Tạp chí Ngoại thương 18-25/5/2000
Tạp chí Thương mại số 10/1997
Tạp chí Thương mại số 23/2001
Tạp chí Thương mại số 5/2001
Tạp chí Nghiên cứu và trao đổi
Tạp chí Kinh tế và dự báo
Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 (Bộ thương mại)
Sách Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0716.doc