LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.Trong sự phát triển đó, NHTW đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế, điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế, chống lạm phát, thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất. Đây là một công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Đồng thời, đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội. Là một công cụ có vai trò quan trọng như vậy, nên lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi người dân và có những ảnh hưởng rất to lớn tới nền kinh tế. Nó tác động mạnh đến quyết định tiết kiệm hay chi tiêu dùng của người dân, đầu tư công nghệ hay giảm thiểu chi tiêu của Doanh nghiệp . đồng thời có thể ảnh hưởng đến rất nhiều thị trường trong nền kinh tế mà đặc biệt là thị trường chứng khoán. Trên thực tế, vào ngày 19-05-2008 Ngân hàng Nhà nước ra quyết định tăng lãi suất cơ bản đồng thời huỷ bỏ mức lãi suất trần huy động vốn và khi quyết định này có hiệu lực thì thị trường chứng khoán đã chao đảo mạnh vì các nhà đầu tư rút tiền khỏi thị trường chứng khoán và gửi vào ngân hàng. Đây là một cú sốc mạnh và thị trường vẫn chưa thể phục hồi tại thời điểm này. Trong từng thời kỳ nhất định, việc tìm ra và thi hành một chính sách lãi suất phù hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò quyết định thuộc về ngân hàng nhà nước. Cùng với sự thay đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế, chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương cũng thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với các tình hình mới của nền kinh tế, tạo điều kiện cho phát triển cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế khác
Kết luận
4.Kết luận chung về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước và NHTW Việt Nam
4.1.Đối với NHTW các nước trên thế giới
Như vậy, nhìn lại hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn ta có thể thấy rằng:
Một là, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ - đặc biệt là chính sách lãi suất của các nền kinh tế lớn mang tính chu kỳ với khoảng thời gian gần 3 năm và thường gắn liền với những biến động mang tính chu kỳ của kinh tế Mỹ.
Hai là, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất của các khối nước khác như EU, Anh, Nhật và các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Mỹ. Tuy nhiên, nếu xét về thời gian, các nước phát triển thường có phản ứng tức thì trước những biến động mang tính chu kỳ trong điều hành chính sách tiền tệ của Mỹ, còn các nước đang phát triển lại có phản ứng chậm hơn gần 1 năm sau những thay đổi trong chính sách tiền tệ của Mỹ. Lý giải điều này là do độ mở cửa và hội nhập của các nước đang phát triển thường thấp hơn so với các nước phát triển, do vậy, tác động lan tỏa từ tác động điều hành chính sách tiền tệ của Mỹ với các nước đang phát triển cũng chậm hơn.
Ba là, từ những nhận xét trên đây có thể dự báo, trong năm 2008 nhiều dấu hiệu cho thấy khối các nước phát triển mà đứng đầu là Mỹ sẽ tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng mà biểu hiện là sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất, tuy nhiên khối các nước đang phát triển sẽ vẫn tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt với việc tiếp tục tăng lãi suất cơ bản. Chính sách cắt giảm lãi suất sẽ tiếp tục được các nước phát triển áp dụng cho tới nửa đầu năm 2009 nhằm ngăn chặn khủng hoảng tín dụng, giảm giá thành sản xuất, duy trì tăng trưởng. Với tác dụng của chính sách tiền tệ nới lỏng, tăng trưởng toàn cầu, đầu tư và thương mại trong năm 2009 sẽ tăng cao hơn so với năm 2008. Tuy nhiên, từ nửa cuối năm 2009, xét theo tính chu kỳ thì nhiều khả năng Mỹ và các nước phát triển sẽ đảo chiều chính sách tiền tệ - thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt hơn.
4.2.Đối với cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Việt Nam
Việt Nam là một nước đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vì thế việc nghiên cứu để có một chính sách lãi suất cho phù hợp là vô cùng cần thiết để xây dựng nền kinh tế. Trên thực tế, trong suốt thời gian qua chúng ta đã không ngừng thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp: năm 1990 chúng ta đã chuyển từ cơ chế lãi suất âm ang cơ chế lãi suất dương, đồng thời duy trì lãi suất vượt trên lạm phát và điều chỉnh theo biến động của nền kinh tế thị trường, có tham khảo sự thay đổi của các nước trong khu vực và quốc tế. Đầu năm 1996 lại có sự thay đổi theo hướng tự do hóa, hủy bỏ quy định về lãi suất tiền gửi điều chỉnh trần lãi suất cho vay phù hợp với cung cầu vốn và mức độ lạm phát.
Chúng ta phải có một chính sách lãi suất phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế, tuân thủ theo định hướng XHCN đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. Chính sách quản lý phải thống nhất ổn định và đi theo định hướng của thị trường, đồng thời khắc phục những biến cố phát sinh của nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN còn cần phải làm rõ phần chính sách lãi suất để thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho giáo dục, y tế . phải nhìn nhận chính sách lãi suất là một trong những chính sách tiền tệ chung và phải kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các chính sách tiền tệ khác.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1981 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tiền tệ ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách tiền tệ nới lỏng được xem là một trong những phương thuốc hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng này, với các biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hầu hết các ngân hàng trung ương lớn đã đều phải nhiều lần bơm tiền vào hệ thống tín dụng nhằm cứu vãn thị trường tài chính trước cơn bãokhủng hoảng thế chấp của Mỹ. Trong năm 2007. FED đã 3 lần bơm tiền nhằm cứu vãn thị trường tiền tệ. Lần thứ nhất là 88 tỷ USD tiền mặt để hỗ trợ các ngân hàng; lần thứ hai là 3,5 tỷ USD vào cuối tháng 8-2007; lần thứ ba là 20 tỷ USD vào tháng 12-2007.
Ngân hàng Trung ương Anh (ECB) cũng đã phải bơm tiếp 14,3 tỷ USD. Trước tác động lan tỏa của khủng hoảng tín dụng Mỹ, ECB cũng ngay lập tức quyết định rót 94,8 tỷ Euro vào Quỹ hỗ trợ khẩn cấp các thị trường và bơm tiếp 61,05 tỷ Euro vào hệ thống ngân hàng. Đến cuối tháng 12-2007, trước ảnh hưởng lan rộng của khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, ECB cũng đã tuyên bố sẽ chi 500 tỷ USD cho các ngân hàng khu vực với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường. Theo thông báo của ECB, hiện đã có tới 390 ngân hàng yêu cầu vay khoản vốn hỗ trợ từ ECB.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cũng đã phải bơm 8,4 tỷ USD vào thị trường tiền tệ khi mối lo về khủng hoảng vay thế chấp của Mỹ làm ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán nước này.
Ngân hàng Dự trữ Australia đã bơm 4,19 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ trong nước.
Thứ hai, hàng loạt ngân hàng trung ương các nước - đặc biệt là các nước phát triển đồng loạt thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất - mở ra một chu kỳ điều hành lãi suất mới. Từ tháng 9-1997 đến hết tháng 1-2008, FED đã 5 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 5,25% xuống còn 3%. Đồng thời với việc cắt giảm lãi suất cơ bản, FED cũng tiến hành cắt giảm lãi suất chiết khấu từ mức 6,25% xuống còn 5,75%. Tiếp sau Mỹ, ngân hàng trung ương Canađa cũng thực hiện cắt giảm lãi suất cơ bản 0,25% xuống còn 4,25% vào ngày 4/12/2007.
2.2.Chính sách điều hành lãi suất của NHTW mỹ
2.1.1.Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ
Hệ thống dự trữ liên bang (viết tắt là FED – Federal Reserve System) là một tổ chức nhà nước của Mỹ, chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của nước này trong quá trình cung ứng tiền tệ.
FED ra đời dựa trên Luật dự trữ liên bang năm 1913, nhằm điều tiết những mục tiêu về tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều chỉnh lãi suất dài hạn. Cấu trúc chính thức của Hệ thống dự trữ liên bang là nhằm phân rộng quyền lực theo vùng lãnh thổ, giữa khu vực tư nhân và nhà nước; giữa các ngân hàng, giới kinh doanh và công chúng.
2.1.2.Qúa trình điều chỉnh lãi suất
Từ 2001 đến hết tháng 1-2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã 35 lần điều chỉnh lãi suất, trong đó, mỗi đợt tăng giảm lãi suất cơ bản đều có quan hệ chặt chẽ với những biến động của kinh tế toàn cầu và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các nước trên thế giới.
Qua Biểu đồ 1, ta thấy sự tăng/giảm của lãi suất chủ đạo mà FED điều chỉnh tác động vào giá trị đồng đôla từ đó để thực thi chính sách điều hành nền kinh tế của mình.
Nguồn:
Cùng với sự thăng trầm của lãi suất, diễn biến của đồng USD trong thời gian qua vô cùng phức tạp. Từ năm 2001, lãi suất chủ đạo của nền kinh tế Mỹ bắt đầu giảm mạnh và giữ mức 1-2% từ 6 tháng cuối năm 2001 đến cuối năm 2003.
Nguồn:
Cuối quý I.2005 sau khi FED tiếp tục nâng lãi suất đồng USD lên 0,25%, đạt mức mới là 2,75% vào ngày 22.3.2005. Kết quả là đồng USD đã liên tiếp tăng giá tới 4% so với đồng Euro, bảng Anh, đồng Yên Nhật.
Đầu năm 2005 với chính sách một đồng đôla mạnh, nổ lực tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt ngân sách và việc tăng lãi suất. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2005, đồng USD đã tăng giá tới 13% so với đồng Euro, 7,5% so với đồng bảng Anh và đồng Yên Nhật. Lý do đầu tiên cho cuộc phục hồi này là do FED liên tục tăng lãi suất. Đến thời điểm bây giờ, tổng cộng FED đã tiến hành 17 lần tăng lãi suất chủ đạo.
Bảng 2: Diễn biến lãi suất chỉ đạo của FED trong năm 2004-2006
Nguồn:
3.Chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương việt nam
3.1.Thực trạng lãi suất ở Việt Nam trong những năm gần đây
Lãi suất thị trường ổn định và tiếp tục xu hướng giảm dần:
- Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng trưởng kinh tế quí I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quí I/2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại.
- Cho đến thời điểm hiện nay, có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao: Xét trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73 ngân hàng và 08 tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít các ngân hàng thương mại có vốn điều lệ và tài sản có lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (3 NHTM nhà nước, 2 NHTM mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, 1 Ngân hàng Chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín dụng khoảng 60%; mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản có quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường có tồn tại nhiều các NHTM có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008 và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quí I chỉ đạt 3,34%). Trong quí I/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng lên, điều đó cho thấy vốn của các NHTM là không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng.
Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
- Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột.
- Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường sẽ quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần lên. Như vậy có nghĩa là các NHTM sẽ vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát.
Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế.
- Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác (như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này.
Theo báo cáo của NHNN, trong tháng 5/2010, lãi suất cho vay ngắn hạn VND của nhóm các NHTM Nhà nước ở mức 13-14%/năm; trung và dài hạn ở mức 13,5-14,5%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn VND của nhóm các NHTM cổ phần là 14 – 14,5%/năm; trung và dài hạn ở mức 14,5-15,5%/năm; riêng đối với cho vay sản xuất nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu mức lãi suất thấp hơn từ 0,5- 1%/năm.
Để có được những kết quả này, trong những tháng đầu năm 2010, NHNN đã rất chủ động, khẩn trương và quyết liệt triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định lãi suất thị trường như: Yêu cầu các TCTD không được huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng vượt quá 20% tổng huy động vốn trên thị trường tín dụng; thực hiện mua vào trên 1 tỉ đô la Mỹ từ tháng 4/2010 để tăng cường cho quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia và tạo thanh khoản cho thị trường; tiếp tục hỗ trợ thanh khoản thông qua nghiệp vụ thị trường mở, SWAPS ngoại tệ, tái cấp vốn…cho các TCTD để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng; yêu cầu các TCTD báo cáo về lãi suất huy động và dư nợ cho vay ngoại tệ cũng như đưa ra cảnh báo sẽ thanh tra các TCTD có lãi suất huy động vượt quá 12%/năm; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng và chỉ đạo các NHTM nhà nước tiếp tục nâng cao vị thế và giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn, từng bước điều chỉnh giảm dần mặt bằng lãi suất cho phù hợp với diễn biến kinh tế và quy luật thị trường… Chính những động thái điều hành chính sách tiền tệ cương quyết, linh hoạt và đúng hướng đã đóng góp quan trọng vào việc ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô. Theo thống kê, tăng trưởng kinh tế quý 1 đạt 5,83% (dự báo 6 tháng tăng trưởng trên 6%), tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,2%; CPI 5 tháng tăng 4,55% so với 31/12/2009 và tăng 8,76% so 5 tháng cùng kỳ năm 2009.
Đến nay, tăng trưởng tín dụng đã lấy lại nhịp độ bình thường: tháng 1 tăng 0,26%; tháng 2 tăng 2,09%, tháng 3 tăng 2,26%, tháng 4 tăng 1,64%, tháng 5 tăng 1,7%. Mặc dù nhiều ý kiến cho rằng 6 tháng đầu năm tăng trưởng tín dụng đạt thấp so với chỉ tiêu định hướng cả năm là 25% nhưng trước bối cảnh hiện nay của kinh tế trong nước và quốc tế, mức tăng trưởng tín dụng dự kiến 10,52% trong 6 tháng đầu năm là tương đối hợp lý.
Cũng trong tháng 5/2010, Kho bạc Nhà nước đã tổ chức thành công 3 phiên phát hành trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn từ 3 - 5 năm, huy động được 8.125 tỉ đồng, lãi suất 10,9%/năm trong đó đối tượng mua trái phiếu Chính phủ phần lớn là các TCTD. Đây là những tín hiệu tích cực chuẩn bị cho việc hạ dần lãi suất, bởi trái phiếu Chính phủ là chứng từ có giá để TCTD thế chấp vay vốn từ NHNN với lãi suất 7%-8%/năm, kỳ hạn 7-28 ngày. Từ đó, các TCTD sẽ cân đối nguồn vốn để hạ lãi suất huy động, kéo lãi suất cho vay đi xuống.
Theo ý kiến của hầu hết các chuyên gia kinh tế, lãi suất, tín dụng ngân hàng hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các TCTD và doanh nghiệp hiện nay; chính vì vậy, việc Chính phủ chỉ đạo hệ thống ngân hàng tiếp tục hạ thấp mặt bằng lãi suất nhằm giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và những dấu hiệu tích cực về việc lãi suất tín dụng tiếp tục xu hướng giảm có được từ cam kết đồng thuận của các TCTD đã tạo kỳ vọng và động lực đáng kể cho nền kinh tế. Dự báo, lãi suất từ nay tới cuối năm lãi suất sẽ tiếp tục giảm hơn nữa.
3.2.Qúa trình điều chỉnh lãi suất trong những năm gần đây
Cơ chế lãi suất của Việt Nam dần dịch chuyển từ kế hoạch hóa tập trung, tách biệt với mặt bằng lãi suất của kinh tế thế giới sang điều chỉnh linh hoạt, từng bước tự do hóa, hội nhập với hệ thống tài chính toàn cầu. Thời gian qua, cơ chế điều hành lãi suất đã có những thay đổi căn bản, nhất là từ khi hệ thống ngân hàng hai cấp được thiết lập(1).
Cơ chế điều hành lãi suất trước năm 1996
NHTW can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định mức lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì suốt thời kì này với mức lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước thấp hơn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
NHTW đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương, xóa bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định mức lãi suất cụ thể bằng quản lí lãi suất theo một khung bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. Bắt đầu từ tháng 10/1993 trần lãi suất cho vay có hai loại (1,8%/tháng đối với DNNN và 2,1%/tháng cho kinh tế ngoài quốc doanh) và NHNH cho phép NHTM được thỏa thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kì phiếu – lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng
Điều hành lãi suất giai đoạn 1996-2000
Trần lãi suất được điều hành linh hoạt trong thời kỳ từ năm 1996 đến tháng 7-2000. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã bước đầu thực hiện tự do hóa lãi suất huy động. Thay thế cho khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và tối đa về tiền vay, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất "trần" theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động vốn bình quân ở mức 0,35%/tháng (tương đương 4,2%/năm). Quy định này nhằm khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn do biến động kinh tế khu vực và thế giới. Tới cuối tháng 1-1998, quy định chênh lệch lãi suất được xóa bỏ, chỉ giữ lại quy định trần lãi suất cho vay.
Song hành với việc nới lỏng kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm ngưỡng trần và mức khống chế, đặc biệt trong hai năm 1998-1999. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung – cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu của Chính phủ. Lãi suất tái cấp vốn năm 1997 là 1,1%/tháng, giảm xuống còn 0,7%/tháng kể từ ngày 4-9-1999.
Các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá cho ngân hàng thương mại cũng được đưa vào sử dụng để bổ sung thêm công cụ điều chỉnh lãi suất. Lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so với lãi suất tái cấp vốn. Từ tháng 7-2000, nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng với lãi suất hình thành qua các phiên giao dịch.
Trong một thời gian dài, từ cuối những năm 80 cho tới năm 2000, cơ chế lãi suất của Việt Nam luôn cố gắng duy trì mức lãi suất thực dương – như một giải pháp cho vấn đề lạm phát. Mục tiêu kiểm soát lạm phát đã đạt được. Thậm chí, có những thời điểm còn xuất hiện thiểu phát. Nếu chia lãi suất dương cho tỷ lệ lạm phát thì tỷ lệ này rất cao… Năm 1999 là 5.350% và năm 2000 là trên 6.000% (2). Lãi suất cao, trong tương quan với các nền kinh tế khu vực, là cơ hội tốt đầu tư vào trái phiếu Việt Nam trong thời kỳ này.
Cơ chế điều hành lãi suất với một mức cơ bản kèm biên độ dao động được NHNN áp dụng kể từ tháng 8-2000 thay cho cơ chế lãi suất trần. Hai chỉ tiêu này được công bố chính thức định kỳ hàng tháng và điều chỉnh kịp thời trong trường hợp cần thiết. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản, các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Đây là nền tảng cho việc xác định điểm cân bằng tỷ giá theo cách tính sức mua tương đương (PPP), từ đó, hình thành một cơ chế tự điều chỉnh.
Điều hành lãi suất từ sau năm 2000
Đến tháng 5-2001, NHNN từng bước chuyển sang áp dụng hình thức cho vay bằng ngoại tệ. Và kể từ sau tháng 5-2002, cơ chế lãi suất thỏa thuận được áp dụng trong hoạt động tín dụng.
Trước sự vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm 2008, NHNN thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Công cụ lãi suất được phát huy tối đa, liên tục có điều chỉnh và triển khai quyết liệt. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ bắt buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Lãi suất tái cấp vốn cũng tăng gấp hai lần trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 6-2008. Mức lãi suất chiết khấu so với cuối năm 2007 tăng thêm 8,5%, ở mức 13%/năm kể từ 10-6-2008. Thời điểm này, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Với quy chế điều hành là cho phép tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, trần lãi suất cho vay lên tới 21%/năm. Đặc điểm đáng chú ý trong giai đoạn các ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản này là lãi suất huy động ngắn hạn bằng, thậm chí cao hơn lãi suất huy động dài hạn.
Năm 2008 chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất với sự điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và uyển chuyển của NHNN. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo cả hai hướng mở rộng và thắt chặt tiền tệ đã không tạo tác động đáng kể nào tới lãi suất. Trong tuần thứ ba của tháng 2-2008, NHNN bổ sung 33.000 tỉ đồng vào lưu thông nhưng các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục tăng lãi suất huy động tiền gửi. Tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB), lãi suất huy động điều chỉnh 3 lần chỉ trong vòng 10 ngày và tăng lên 12,5%/năm với kỳ hạn 1 tháng. Thông báo phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc được đưa ra vào giữa tháng 2-2008 và thực hiện một tháng sau đó. Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang đi lên, rất khó xác định ảnh hưởng của nghiệp vụ này tới lãi suất. Trong tháng 6-2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại tiến gần tới trần lãi suất cho vay. Ngày 30-6-2008, Ngân hàng Kiên Long áp dụng lãi suất huy động tiền đồng cao kỷ lục là 20%/năm cho khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12 tháng. Hiệu lực không thật rõ ràng của các nghiệp vụ thị trường mở vào thời kỳ lạm phát gia tăng là tín hiệu sự tồn tại bẫy thanh khoản trong hệ thống tín dụng, tại thời điểm đó. Nếu đúng vậy, điều chỉnh tăng dần các công cụ lãi suất là giải pháp hợp lý và sớm mang lại kết quả bình ổn thị trường tiền tệ.
Cuối tháng 6-2008, 2 tỉ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm với lãi suất 11%/năm đã được huy động thành công(3). Mặc dù khối lượng không lớn nhưng dấu hiệu này gợi mở khả năng tiếp tục duy trì các chính sách tiền tệ – tài chính vĩ mô. Lưu ý rằng, chỉ hai tuần trước đó, phiên đấu thầu hai loại trái phiếu chính phủ ngày 13-6-2008 có kỳ hạn 2 năm và 3 năm đã không thu hút được bất kỳ thành viên nào tham gia. Trên thị trường, có tổ chức tài chính sẵn sàng chuyển nhượng lượng trái phiếu đang sở hữu với mức chiết khấu lên tới 40% mệnh giá, nhưng vẫn không tìm được đối tác quan tâm.
So với giai đoạn khủng hoảng tiền tệ khu vực 1997-1998, chính sách tiền tệ của Việt Nam trong năm 2008 sử dụng nhiều công cụ hơn và cường độ điều chỉnh dồn dập hơn. Nhằm hỗ trợ các đơn vị kinh doanh vượt qua khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực, chính sách tiền tệ được mở rộng trong các năm từ 1997 đến 1999. Với mức lãi suất thực dương, các liệu pháp tiền tệ đã phát huy tác động ổn định kinh tế vĩ mô. Chi phí lãi vay cao kết hợp với tăng giá đầu vào tạo ra áp lực lớn với sự vận hành sản xuất, kinh doanh trong năm 2008. Chấp nhận chi phí đầu vào tăng cao, hạn chế mở rộng tín dụng là những dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng thương mại cũng gặp khó khăn với vấn đề thanh khoản. Điều này có thể là kết quả của những khoản tín dụng chất lượng thấp đã cung cấp trong thời gian trước, với tỷ lệ không nhỏ dành cho các dự án bất động sản và đầu tư tài chính.
3.3.Thành tựu và những tồn tại trong qúa trình điều chỉnh lãi suất
3.3.1.Thành tựu:
Vào năm 1999 với việc áp dụng công cụ trần lãi suất cho vay thay vì khống chế lãi suất cho vay của các NHTM là cơ sở để các tổ chức tin dụng tăng lãi suất huy động vốn, tạo điều kiện cho việc huy động đủ vốn nhằm đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội, đồng thời phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn tín dụng đối với nền kinh tế. Sau này, với việc từ bỏ lãi suất trần huy động vốn và áp dụng mức lãi suất cơ bản đã tạo ra một mặt bằng lãi suất ổn định trên thị trường, giúp ngăn ngừa những biến động lớn trên thị trường tiền tệ và tín dụng. Nó là cơ sở để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh của mình và đưa hoạt động tín dụng đi theo đúng khuôn khổ pháp luật. Nó cũng giúp chấm dứt cuộc đua lãi suất giữa các NHTM diễn ra gay gắt trong thời gian trước đó. Ngoài ra, cơ chế này còn giúp xua đi những tín hiệu xấu về tình hình tài chính cảu các NHTM và phản ánh tình hình tài chính của các NH này.
Nhìn lại năm 2009, khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam đứng trước một năm đầy khó khăn và thách thức. Trên cơ sở bám sát chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cùng với sự nỗ lực của toàn ngành, hoạt động ngân hàng năm 2009 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong đó, nổi bật là việc triển khai kịp thời cơ chế hỗ trợ lãi suất, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) trong năm 2009 đã có sự ổn định tương đối so với năm 2008. Tuy nhiên, trên thực tế, những biến động và căng thẳng trên thị trường tiền tệ vẫn còn tồn tại, ở một số thời điểm, đã có những ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp và tâm lý của người dân trong nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối với hoạt động của ngành Ngân hàng trong năm 2010. Một trong những vấn đề của năm 2009, mặc dù đã có những giải đáp cụ thể về chính sách điều hành, song, trong những tháng đầu năm 2010, vẫn nổi lên những vấn đề tranh luận xoay quanh việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN, đặc biệt là việc dỡ bỏ trần lãi suất huy động có được thực hiện hay không đã gây ảnh hưởng không tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định. Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một, cách thận trọng. Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. 3.3.2.Hạn chế:
Điều hành lãi suất là một hành động quan trọng của ngân hàng trung ương đối với ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có những thành công trong việc điều hành hệ thống ngân hàng đem lại tăng trưởng và ổn định cho nền kinh tế, cách thức điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vẫn cho thấy một vài điểm chưa hoàn thiện.
Người ta luôn chứng kiến trong vài năm gần đây tình trạng lúc thừa, lúc thiếu thanh khoản, hay tình trạng căng thẳng trong lãi suất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Một trong những lý do giải thích những hiện tượng đó, có thể, bắt nguồn từ cách tiếp cận không hợp lý trong việc ra quyết định lãi suất của NHNN.
Chính sách lãi suất bị động, đi sau diễn biến kinh tế vĩ mô
Tại sao Việt Nam lại phải liên tục chứng kiến những biến động trái triều trong lãi suất và thanh khoản của hệ thống ngân hàng nhiều như vậy? Có lẽ hiện tượng này bắt nguồn từ cách điều hành lãi suất thường chậm so với diễn biến thực tế. Một đặc trưng hay yêu cầu cơ bản của điều hành chính sách tiền tệ chính là tính chất đi trước, dẫn dắt, và định hướng.
Trong khi đó, ở Việt Nam người ta dễ dàng nhận thấy hiện tượng chính sách chỉ được đề ra khi mà có quá nhiều phàn nàn từ thực tế, hoặc bản thân các nhà làm chính sách không thể không nhận thấy sức ép quá lớn từ thực tế. Và họ nhận thấy không làm sẽ phải đối mặt với những hậu quả to lớn và hết sức nghiêm trọng.
Chính đặc trưng ra quyết định chính sách như thế làm cho kinh tế vĩ mô luôn bị biến động. Và khi kinh tế vĩ mô biến động thì việc ra quyết định chính sách vẫn theo nếp chậm cũ, chờ tới khi ai cũng thấy sức ép lớn mới tiến hành lại càng làm cho sự biến động trở nên rất khó lường.
Năm 2008, sau nhiều tháng các ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản nặng nề, NHNN mới chấp nhận nâng lãi suất cơ bản (lên 14%).
Và trong năm 2009, hết quý III thì các chỉ số kinh tế trong nước đã cho thấy sự phục hồi khá chắc chắn sau chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ. Đặc biệt, những số liệu về việc làm đã cho thấy tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam đã thuyên giảm. Biến công việc làm (thất nghiệp) là biến được xem là chậm nhất trong kinh tế. Khi biến này đã thay đổi tích cực thì đó chính là thời điểm phải rút bớt các chính sách kinh tế. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ lãi suất đã được bãi bỏ quá chậm.
Điều hành lãi suất quá dựa vào tín hiệu từ các doanh nghiệp
Dường như, việc ra quyết định về lãi suất của NHNN Việt Nam là luôn chậm vì không chú trọng đủ mức vào những dấu hiệu vĩ mô phản ánh khuynh hướng của nền kinh tế.
Trái lại, NHNN dường như thường hay lại dựa vào những thông tin vi mô để đưa ra quyết định. Hiện tượng căn cứ vào lời kêu ca thiếu vốn làm ăn của doanh nghiệp là không thích hợp trong việc ra quyết định về lãi suất. Trong bất kỳ trường hợp nào được hưởng ưu đãi (lãi suất), các doanh nghiệp được hưởng rồi sẽ vẫn kêu thiếu chẳng ai nói đủ rồi bao giờ, còn những doanh nghiệp chưa được tiếp cận lại càng kêu to. Do cách tiếp cận như vậy, việc kéo dài chính sách ưu đãi lãi suất là tất yếu. Và hành động này là không hợp lý, nó giống bạn giữ chân ga quá lâu khi xe đã lên đỉnh dốc, làm cho xe quá đà, khó kiểm soát sau đó.
Có thể nói cách tiếp cận trong việc ra quyết định chính sách lãi suất như vậy là cách tiếp cận mang tính vi mô. Trong khi đó, chính sách lãi suất phải là chính sách mang tính khuynh hướng vĩ mô. Chính cách tiếp cận như vậy, chúng ta luôn có cảm giác là những chính sách lãi suất ở Việt Nam thường bị chậm so với những diễn biến của thực tế, và mang tính đối phó nhiều hơn là dẫn dắt thực tế.
Hậu quả, nền kinh tế lại đang phải chịu đựng tình trạng khan hiếm vốn do mở rộng quá mức lúc trước đó. Chưa kể là những dự án triển khai trong thời kỳ hưởng ưu đãi có thể là những dự án cần rất nhiều vốn trong khi có mức quay vòng chậm (do nhiều dự án lớn thuộc lĩnh vực bất động sản) cũng là một nguyên nhân của tình trạng khan hiếm vốn như hiện nay.
3.4.Định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam
NHNN đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam. Theo quyết định thì các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo nguyên tắc lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN quy định trong từng thời kì. Định kỳ hàng tháng, NHNN công bố lãi suất cơ bản, trong trường hợp khi cần thiết, NHNN công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản
Điều hành ổn định lãi suất thị trường, kiểm soát chặt chẽ lạm phát, tích cực hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2010
Để hạn chế những tác động không mong muốn do biến động của lãi suất trên thị trường tín dụng và thị trường liên ngân hàng đối với chỉ tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế; thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN Việt Nam đã rất kiên quyết, linh hoạt trong điều hành, triển khai đồng bộ các giải pháp cụ thể nhằm khẩn trương hạ thấp mặt bằng lãi suất huy động xuống khoảng 10%/năm và lãi suất cho vay xuống khoảng 12%/năm, tiếp tục duy trì ổn định thị trường tiền tệ, chủ động kiểm soát lạm phát và tích cực hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vĩ mô trong năm 2010.
Vào thời điểm hiện nay, việc giảm lãi suất cho vay đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết của toàn nền kinh tế. Các doanh nghiệp là những người lên tiếng đầu tiên, ngay từ những tháng đầu năm 2010, khi nền kinh tế nước ta có vẻ đang bắt đầu bước ra thời kỳ khủng hoảng.
Báo cáo quý III/2010 của Ngân hàng Nhà nước cho thấy lãi suất tín dụng tiền đồng ngắn hạn cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện phổ biến ở mức 12 - 12,5%/năm đối với nhóm ngân hàng thương mại quốc doanh và 12,5 - 13,5%/năm đối với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần; còn các loại lãi suất cho vay khác phổ biến ở mức 13 - 15%/năm.
Nhưng ngay cả nếu lãi suất cho vay bình quân là 13%/năm và lạm phát của năm nay là 7%, lãi suất thực (real rate) mà các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu lên đến 6%/năm, một gánh nặng quá sức trong điều kiện nền kinh tế vừa trải qua khủng hoảng suy thoái.
Đến tháng 10/2010, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam vẫn ở mức phổ biến 11,2%/năm, còn mức lãi suất trung bình chung của 36 ngân hàng đang là 11,10%/năm.
Tuy nhiên, bên cạnh mức lãi suất tiền gửi được công bố, hầu hết các ngân hàng đều đang tung ra nhiều chương trình khuyến mãi, tặng tiền mặt, tặng quà, tặng vàng, tặng lãi suất thưởng, khiến lãi suất tiền gửi thực tế bình quân lên đến 11,35%/năm, thậm chí trên 12%/năm tại một số ngân hàng.
Vào tháng 9 năm nay, Hiệp hội Ngân hàng đã có cuộc họp với các ngân hàng trên cả nước nhằm kêu gọi họ giảm lãi suất huy động và cho vay theo chủ trương của Chính phủ với mức lãi suất huy động tiền đồng mà Hiệp hội đề nghị là 11%/năm và mức lãi suất cho vay là 12%/năm, bắt đầu áp dụng từ ngày 15/10/2010.
ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TRONG THỜI GIAN TỚI
Một vài gợi ý hay kiến nghị đối với việc ra quyết định chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương như sau:
Thứ nhất, việc ra quyết định về chính sách lãi suất nên theo cách tiếp cận khuynh hướng vĩ mô tổng thể và có hành động sớm hơn dựa trên những dữ liệu phản ánh khuynh hướng, thay vì dựa trên những thông tin vi mô và chậm tới khi cảm nhận thấy sức ép mới thay đổi.
Theo cách tiếp cận này, NHNN nên tập trung xem xét và chỉ xem xét những động thái vĩ mô để đi đến nhận định về khuynh hướng của nền kinh tế vĩ mô mà thôi trong việc ra quyết định sẽ làm gì sắp tới với lãi suất. Tất cả những thông tin từ cấp vi mô và cục bộ cần phải bỏ qua bất chấp những lời phàn nàn từ thực tế.
Thứ hai, cần thay đổi chiến thuật truyền thông điệp vào nền kinh tế. Tránh hiện tượng che dấu thông tin hoặc đưa thông tin thiếu chính xác. Chúng ta đã chứng kiến đôi khi có những phát ngôn rất chính thức là sẽ không có thay đổi trong lãi suất (hay cả tỷ giá nữa) rồi ngay sau đó không lâu sự việc lại xảy ra trái ngược.
Cách thay đổi là nên có thông tin định kỳ với báo chí nói rõ những phân tích và xem xét của ngân hàng trung ương về hiện trạng nền kinh tế và dự báo những thay đổi trong chính sách lãi suất có thể trong tương lai. Hành động này sẽ có tác dụng lớn trong việc định hướng kỳ vọng của dân chúng và giới kinh doanh. Cải cách được việc này sẽ giúp tránh được sự thống trị của tin đồn, và hành động đầu cơ làm cho tình hình ngày càng trở nên rối ren.
Để thực hiện một hướng chính sách lãi suất nên chia nhỏ thành nhiều bước lãi suất nhằm truyền tín hiệu tới thị trường một cách từ từ, mềm mại; thay vì đưa ra những mức thay đổi lớn và đột ngột. Chẳng hạn việc nâng hay hạ lãi suất nên chia nhỏ thành nhiều lần trong một khoảng thời gia thay vì chỉ một hoặc hai lần với biên độ lớn cũng trong khoảng thời gian đó.
Tất nhiên, hành động này phải phù hợp với định hướng mà các thông điệp được đưa ra cho công chúng và giới kinh doanh. Hành động này có thể giúp làm cho chính sách mềm mại, nhịp nhàng với sự biến đổi của nền kinh tế và thị trường, là những thứ cần phải có thời gian điều chỉnh.
Trong trường hợp cảm thấy chưa cần thiết, NHNN có thể lùi lại một hay đẩy nhanh lên một bước nhỏ một cách dễ dàng mà không làm tổn hại đến sự ổn định của khu vực kinh doanh và của nền kinh tế.
Để bảo đảm an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục cương quyết, linh hoạt hơn nữa trong điều hành lãi suất, ổn định thị trường tiền tệ, tích cực hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện thành công chủ trương của Chính phủ về việc điều hành giảm lãi suất huy động xuống dưới 10%/năm và lãi suất cho vay dưới 12%/năm và triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
- Linh hoạt, đồng bộ trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu để kiểm soát mặt bằng lãi suất thị trường ở mức hợp lý, theo đó NHNN tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với TCTD với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế, đảm bảo an toàn hệ thống đồng thời có chính sách hỗ trợ cho các ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ tiếp cận được vốn thanh khoản giá rẻ hơn, thời hạn đến 3 tháng nhằm tăng thanh khoản qua đó chấm dứt cuộc đua tăng lãi suất trên thị trường. Hình thành đồng bộ và phù hợp các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ.
- Xây dựng lộ trình và tạo đồng thuận chung, chậm nhất đến cuối quý III giảm mặt bằng lãi suất huy động xuống quanh mức 10%/năm qua đó tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay xuống quanh mức 12%/năm để tích cực kiểm soát lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm 2010 trong đó ưu tiên giảm lãi suất các kỳ hạn ngắn trước và giảm lãi suất các kỳ hạn dài sau, chú trọng và tập trung vốn tín dụng vào các đối tượng khách hàng và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh như Chính phủ đã chỉ đạo trong Nghị quyết 18/NQ-CP.
- Tiến hành kiểm tra, thanh tra tất cả các TCTD nâng lãi suất huy động lên trên 12%/năm, có biện pháp hạn chế tiền dịch chuyển tiền gửi từ TCTD này sang TCTD khác, xếp hạng tín nhiệm và công bố rộng rãi thông tin hoạt động của các TCTD như tiến độ tăng vốn điều lệ, tỉ lệ nợ xấu, số lần kinh doanh phạm luật, mạnh tay xử lý ngân hàng thương mại làm rối thị trường.
- Bên cạnh đó, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành có biện pháp giảm bội chi ngân sách, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu qua đó cải thiện cán cân thanh toán, cán cân vãng lai, cán cân thương mại, giảm lãng phí trong đầu tư nhằm cải thiện hệ số ICOR, đơn giản hóa thủ tục hành chính; củng cố thị trường nội địa… đưa chỉ số tăng giá tiêu dùng giảm xuống đồng thời giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu Chính phủ và lãi suất kinh doanh ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có căn cứ giảm lãi suất kinh doanh mà vẫn thu hút được vốn từ nền kinh tế, trên cơ sở đó lãi suất tiền gửi sẽ giảm theo và lãi suất cho vay sẽ giảm.
- Các TCTD cần cân nhắc giữa hiệu quả và việc mở rộng quy mô huy động, tránh tình trạng tự gây sốc chi phí huy động đầu vào cao đồng thời tiếp tục đồng thuận, xác định rõ lộ trình và cùng cắt giảm mặt bằng lãi suất nhằm tránh các cú sốc tiêu cực trong đó tập trung vào nhóm khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh trước, nhóm khách hàng vay vốn tiêu dùng sau…và thực hiện cắt giảm lãi suất các kỳ hạn ngắn trước, cắt giảm lãi suất các kỳ hạn trung dài hạn sau nhằm khuyến khích người gửi tiền gửi kỳ hạn dài.
Kiên định theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của NHNN nhằm đưa thị trường tài chính minh bạch hơn, bình đẳng hơn và tiến gần hơn đến các thông lệ của thị trường tài chính quốc tế là một định hướng lâu dài, đúng đắn và đang trở thành hiện thực tại Việt Nam. Tuy vậy, song song với nó cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, từng bước ổn định lãi suất thị trường và kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2010 là kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 20% và tăng trưởng tín dụng khoảng 25%, đồng thời tiếp tục điều tiết lãi suất và tỷ giá theo hướng ổn định nhằm thực hiện thành công mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ trong năm 2010 là kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng dưới 7% và đảm bảo tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%, trong những tháng cuối năm 2010.
Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT, vì vậy, mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
- Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010, hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn, đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, theo đó, chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Do vậy, tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo qui luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
- Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
- Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Đồng thời trong thời gian này, NHNN cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Tuy nhiên, về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt và trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2010. Để thực hiện nhiệm vụ đó, ngành Ngân hàng đang triển khai những giải pháp ứng phó kịp thời. Tuy nhiên, để hỗ trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành trong dài hạn, bên cạnh sự nỗ lực của toàn ngành Ngân hàng, cũng rất cần thiết phải có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành hữu quan trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển các thị trường nợ một cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực ngân hàng trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước.
4.Kết luận chung về cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước và NHTW Việt Nam
4.1.Đối với NHTW các nước trên thế giới
Như vậy, nhìn lại hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của các nền kinh tế lớn ta có thể thấy rằng:
Một là, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ - đặc biệt là chính sách lãi suất của các nền kinh tế lớn mang tính chu kỳ với khoảng thời gian gần 3 năm và thường gắn liền với những biến động mang tính chu kỳ của kinh tế Mỹ.
Hai là, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất của các khối nước khác như EU, Anh, Nhật và các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Mỹ. Tuy nhiên, nếu xét về thời gian, các nước phát triển thường có phản ứng tức thì trước những biến động mang tính chu kỳ trong điều hành chính sách tiền tệ của Mỹ, còn các nước đang phát triển lại có phản ứng chậm hơn gần 1 năm sau những thay đổi trong chính sách tiền tệ của Mỹ. Lý giải điều này là do độ mở cửa và hội nhập của các nước đang phát triển thường thấp hơn so với các nước phát triển, do vậy, tác động lan tỏa từ tác động điều hành chính sách tiền tệ của Mỹ với các nước đang phát triển cũng chậm hơn.
Ba là, từ những nhận xét trên đây có thể dự báo, trong năm 2008 nhiều dấu hiệu cho thấy khối các nước phát triển mà đứng đầu là Mỹ sẽ tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng mà biểu hiện là sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất, tuy nhiên khối các nước đang phát triển sẽ vẫn tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt với việc tiếp tục tăng lãi suất cơ bản. Chính sách cắt giảm lãi suất sẽ tiếp tục được các nước phát triển áp dụng cho tới nửa đầu năm 2009 nhằm ngăn chặn khủng hoảng tín dụng, giảm giá thành sản xuất, duy trì tăng trưởng. Với tác dụng của chính sách tiền tệ nới lỏng, tăng trưởng toàn cầu, đầu tư và thương mại trong năm 2009 sẽ tăng cao hơn so với năm 2008. Tuy nhiên, từ nửa cuối năm 2009, xét theo tính chu kỳ thì nhiều khả năng Mỹ và các nước phát triển sẽ đảo chiều chính sách tiền tệ - thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt hơn.
4.2.Đối với cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Việt Nam
Việt Nam là một nước đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vì thế việc nghiên cứu để có một chính sách lãi suất cho phù hợp là vô cùng cần thiết để xây dựng nền kinh tế. Trên thực tế, trong suốt thời gian qua chúng ta đã không ngừng thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp: năm 1990 chúng ta đã chuyển từ cơ chế lãi suất âm ang cơ chế lãi suất dương, đồng thời duy trì lãi suất vượt trên lạm phát và điều chỉnh theo biến động của nền kinh tế thị trường, có tham khảo sự thay đổi của các nước trong khu vực và quốc tế. Đầu năm 1996 lại có sự thay đổi theo hướng tự do hóa, hủy bỏ quy định về lãi suất tiền gửi điều chỉnh trần lãi suất cho vay phù hợp với cung cầu vốn và mức độ lạm phát. Chúng ta phải có một chính sách lãi suất phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế, tuân thủ theo định hướng XHCN đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. Chính sách quản lý phải thống nhất ổn định và đi theo định hướng của thị trường, đồng thời khắc phục những biến cố phát sinh của nền kinh tế. Ngoài ra, NHNN còn cần phải làm rõ phần chính sách lãi suất để thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho giáo dục, y tế... phải nhìn nhận chính sách lãi suất là một trong những chính sách tiền tệ chung và phải kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các chính sách tiền tệ khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_in_719.doc