MỤC LỤC
PHẦN BỘ ĐỀ 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Lịch sử vấn đề và phạm vi nghiên cứu 2
3. Nguồn tư liêụ và phương pháp nghiên cứu 3
NỘI DUNG 4
I. TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XIX 4
1. Sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tư hữu về ruộng đất và sự suy sụp của chế độ chiếm hữu ruộng đất công làng xã 4
2. Nạn đói kém thường xuyên, nông dân phiêu tán ruộng đất hoang hóa là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân 8
II. NGUYỄN CÔNG TRỨ NGƯỜI KHẨN HOANG LỖI LẠC CỦA THẾ KỶ XIX 9
III. CHÍNH SÁCH ĐỒN ĐIỀN QUA HAI THỜI KÌ 11
1. Thời kỳ Nguyễn Ánh chiếm giữ gia Định 12
1.1. Hoàn cảnh lịch sử 12
1.2. Chính sách đồn điền 12
2. Thời kỳ thống trị của triều Nguyễn (1802 - 1833) 18
2.1. Thời kỳ Gia Long 1802 - 1819 18
2.2. Thời kỳ Minh Mệnh 1820 - 1840 20
2.3. Thời kỳ Tự Đức: 1848 trở đi 22
KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2754 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu chính sách đồn điền nhà Nguyễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
---------------
TIỂU LUẬN
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH ĐỒN ĐIỀN NHÀ NGUYỄN
PHẦN BỘ ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, công tác khẩn hoang có sự quan trọng đặc biệt, với một nước nông nghiệp là chủ yếu, lại có những sông lớn thường xuyên bồi đắp phù sa như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đáy, sông Cửu Long và một phần giáp biển Đông cho nên lãnh thổ Việt Nam thường xuyên, không ngừng được bồi đắp, mở rộng, vì vậy với việc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác, cải tạo và biến các vùng đất ven sông, ven biển thành những cánh đồng mầu mỡ là một việc làm không thể thiếu được trong mỗi thời đại và từng thời kỳ lịch sử. Từ xa xưa sau khi đánh bại phong kiến phương Bắc xâm lược, bắt đầu xây dựng nền móng cho một quốc gia độc lập, các triều đại phong kiến đã quan tâm thích đáng đến công cuộc khai hoang. Vào thế kỷ 13 năm 1226 vua Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã mộ dân nghèo, dân phiêu tán đi khai hoang lập nên các điền trang rộng lớn. Trong chính sách khẩn hoang mà nhà Nguyễn đã đề ra với 3 hình thức đồn điền, doanh điền, khai hoang trong đó em đi sâu vào nghiên cứu vấn đề đồn điền, hiểu được chính sách đồn điền ta có thể hiểu được một phần chính sách khai hoang của nhà Nguyễn tức là hiểu được chế độ ruộng đất của nhà Nguyễn, một bước ngoặt quan trọng từ chế độ phong kiến sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến thời cận đại và nghiên cứu giai đoạn này nhận biết được chế độ phong kiến Việt Nam trên đường khủng hoảng của nó, đồng thời xác định được vài trò và trách nhiệm của triều Nguyễn. Vì vậy em đã chọn đề tài trên.
2. Lịch sử vấn đề và phạm vi nghiên cứu
Đồn điền là một loại hình sở hữu của nhà nước, là loại đất khai hoang lập thành do nhà nước phong kiến đứng ra tổ chức và chi phí. Lực lượng khai hoang là binh lính, tù binh, người bị tội, có khi cả dân nghèo. Vấn đề đồn điền được nhiều các học giả và các nhà sử học nghiên cứu và tìm tòi. Dưới thời Pháp thuộc nhằm phục vụ cho lợi ích cai trị của mình và tìm hiểu về Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu, tìm hiểu về chính sách đồn điền thời Tự Đức: Maspéro với Empire khrmẻ, Maybon với Histore Moderne du pay d’Annan… Bước sang giai đoạn sau năm 1945 các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này có thể kể đến: lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn La 1973, lịch sử Việt Nam tập I của Uỷ ban Khoa học xã hội.
3. Nguồn tư liêụ và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu đa dạng và phong phú nói về chính sách này - đồn điền một loại hình sở hữu của nhà nước như: chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, H.1992 hay tình hình ruộng đất nông nghiệp và đới sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, 1997…. Đặc biệt là cuốn Đại Nam thực lục chính biên, gồm nhiều tập của Quốc Sử quán triều Nguyễn.
- Để nghiên cứu vấn đề này ta có thể sử dụng nhiều phương pháp như liên ngành, hay học tập những phương pháp nghiên cứu của các thầy cô.
NỘI DUNG
I. TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XIX
1. Sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tư hữu về ruộng đất và sự suy sụp của chế độ chiếm hữu ruộng đất công làng xã
Trong từng thời kỳ lịch sử, các vương triều phong kiến luôn luôn duy trì và bảo vệ ruộng đất công, vì đó là nguồn lợi tô thuế bảo đảm cho sự vững vàng của nhà nước trung ương, ở thế kỷ XVI, ruộng đất tư hữu phát triển, ruộng đất công bị thu hẹp à là nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của nhà nước phong kiến.
Thế kỷ 18 nền kinh tế hàng hoá có nhiều biến chuyển đã kích thích ruộng đất tư ptmạnh à làm cho chế độ chiếm hữu ruộng đất công làng xã bị suy sụp nhưng trong và sang thế kỷ XIX càng suy sụp nghiêm trọng hơn.
Theo cách “sĩ hoạn tu tri” của Nguyễn Công Tiệp cho đến đầu thế kỷ XIX có những tỉnh như tỉnh PhúYên không có công điền.
Căn cứ vào địa bạ Gia Long năm thứ 4 của 12000 xã thuộc 10 huyện của các trấn Sơn Tây, Sơn Nam Thượng cho ta biết tỉ lệ vuông đất công và ruộng đất tư trong tổng diện tích như sau:
STT
Huyện
số đơn vị
Tỉ lệ tư điền
Tỉ lệ công điền
Mỹ Lương
5
94,5%
0%
Minh Nghĩa
16
71,8%
0,11%
Yên Sơn
13
65,82%
0,21%
Sơn minh
36
84,72%
4,27%
Hoài An
10
83,1%
4,6%
Phúc Lộc
21
71,7%
5,2%
Đan Phượng
13
47,45%
5,96%
Từ Liêm
43
62,66%
11,3%
Hương Phúc
34
73,85
12,75
Tiền Phong
23
60,35
25,7
Huyện Từ Liêm có những xã khoongt có ruộng công như xã Nhân Mục, xã Hồng Đô, một số xã có sự chênh lệch về ruộng công và tư rất lớn.
Thôn
Tư điền
Công điền
Ngọc Kiêu
153 mẫu 3 sào
1 mẫu 7 sào 10
Xã Ngọc Hạnh
9 thước 8 tấn
thước
Xã Hoàng xá
317 mẫu 5 sào
11 mẫu 4 sào
7 thước 4 tấc
4 thước 5 tấn
Xã Đại Mỗ
788 mẫu
21 mẫu 7 sào
252 thước 2 tấc
11 thước 6 tấc
Thượng Hội
593 mẫu 5 sào
8 mẫu 5 sào
1 thước 8 tấc
13 thuốc
Vĩnh kỳ
391 mẫu 5 sào
11 thước 8 tấc
1 mẫu 6 sào 2 thước 5 tấc
Qua một vài số liệu cho ta thấy, những năm 30 của thế kỷ XIX ruộng đất công chỉ chiếm 1 tỉ lệ nhỏ, tình hình đó cũng được phẩn ánh trong nhận xét của Pham Huy Chú: “Nước ta tuy có trấn sơn Nam hà là rất nhiều ruộng đất công và đất bãi sông, phép quân cấp chỉ nên làm ở xứ ấy là phải còn các xứ khác các hạng ruộng công không có mấy dù xứ nào có mấy thì cungc chỉ đủ cung cấp lượng và ngu ngộc không thể san chia cho các hạng [2, tr.70]ư. Trong khi đó ruộng đất tư hữu đã chiếm ưu thế và ngày càng mở rộng.
Huyện Thụy Anh (phủ Thái Bình trấn Sơn Nam Hạ) đến những năm đầu thế kỷ 19 ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân cũng chiếm ưu thế (3/4 tổng số ruộng đất các loại) ở vung tây Thụy Anh trong đó có 54,2% số người là địa chủ có trên 10 mẫu ruộng chiếm 84,5% ruộng đất nhiều địa chủ có 130 mẫu, ở một trong những vùng đất được thành lập muộn hơn ruộng đất công còn tồn tại với số lượng và tỉ lệ ra lớn nhưng ruộng đất tư hữu vẫn phát triển theo hướng tập trung vào tay các tầng lớp khá giả và giai cấp địa chủ. Bọn địa chủ cường hào ở địa phương thường cậy quyền thế, ức hiếp dân nghèo, tìm mọi cách để biến công vi tư. Bọn địa chủ cường hào, chúng không chỉ dừng lại ở đó mà cỏn ẩn lậu ruộng đất, chốn thuế cho nhà nước, mà vùng đất bồi ven biển, nơi đất rộng là nơi chungd có điều kiện nhất.
à Đứng trước tình hình đó Nhà Nguyễn thấy cần phải có thái độ và biện pháp để giải quyết vấn đề ruộng đất.
1803 các quan lại ở bắc thành đã đề nghị tịch thu ruộng đất tư, 10 phần chỉ để lại cho quan lại 3 phần.
1804 Gia Long hạ chiếu, làm sổ điền ở mọi trấn Bắc hà tháng 4 năm đó ban hành bản điều lệ quân cấp công điền công thổ và có các điều cụ thể để mọi người tuân theo vĩnh viễn làm phép thường. Nhưng việc quản di chỉ trênh danh nghĩa mà thôi vì mức chia rất chênh lệch, quan nhất phẩm được gấp đôi người thường lại được nhận trước nên thường là ruộng tốt còn dân phải nhận sau ruộng xấu nên thường chán nản nên bỏ ruộng ra đi và ruộng ấy lại rơi vào tay địa chủ chiếm đoạt trong lúc đó nhà nhước vẫn dành một số ruộng cho lính.
à Bằng mọi cách nhà Nguyễn vấn duy trì ruộng công để bảo đảm nguồn lợi tô thuế cho nhà nước, đồng thời có dân đinh để đi lính và đi lao dịch nhưng tình trạng chế độ ruộng đất của địa chủ cường hào càng phổ biến thì kèm theo đó là dân nghèo không có đất ngày càng nhiều, chế độ tô thuế nặng nề với thiên tai lụt lội hạn hán dẫn đến những nạn đói lớn ở Bắc Hà làm hàng loạt nông dân phiêu tán, nhiều nơi ruộng đất bị bỏ hoang.
Bảng thống kê tình hình đói khổ và phiêu tán của nhân dân trong 3 thập kỷ đầu thế kỷ XIX.
Năm xảy ra
Những địa phương bị đói và tình trạng nông dân phiêu tán
1803
Thanh Hóa
1804
Sơn Nạ bộ
1806
Kinh Bắc, sơn tây, sơn Nam Hải Dương, Hưng Hóa.
1807
Quảng Trị
1808
Nghệ An
1809
Hải Dương, Kinh Bắc, Yên Quảng Sơn Nam Hạ
1810
Thanh Hóa, Nghệ An
1815
Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương
1816
Thanh Hóa , Nghệ An, 5 nơi trấn Bắc thành
1817
Thanh Hóa, Nghệ An
1818
Nghệ An, Thanh Hóa
1819
Nghệ An, Thanh Hóa, Bắc Thành
1820
Quảng Trị, Quảng Bình, Nam Định, Thanh Hóa
1821
Sơn Nam Kinh Bắc, Nghệ An
1822
Nghệ An, Quảng Trị, Hải Dương, Kinh Bắc
1823
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, 5 nơi trấn Bắc Kinh
1824
Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình, 5 nội trấn Bắc Thành
1825
Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương, 5 nội trấn Bắc thành.
1827
Nam Định, Sơn Tây, Ninh Bình, Thái Nguyên, Quảng Bình
Bảng thống kê cho ta thấy 30 năm đầu thế kỷ 19 tình hình đói kém và nạn dân phiêu tán liên tục xảy ra ở các vùng Nam Định, Ninh Bình, nạn đói vf phiêu tán càng xảy ra trầm trọng hơn vào những năm đầu của thập kỷ 20 dưới thời Minh Mạng.;
à Tình trạng dân đói kém phải bỏ đi phiêu tán đã đưa đến một diện tích lớn ruộng đất hoang phế không người cày cấy. Nó đã ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất nông nghiệp trong nước và làm thất thu đến ngân quỹ nhà nước. Dân nghèo mất đất, không có ruộng để làm ăn sinh sống, một bộ phận lớn thì phải sống nhờ vào canh tác ruộng đất công hoặc làm thuê cày mướn cho địa chủ. Sư triều Nguyễn cũng thú nhận “sau khi khẩn hoang, nông dân chỉ cày vài ba năm rồi bỏ đi, vì tô thuế quá nặng không thể tiếp tục được nữa” [44, tr 10]
2. Nạn đói kém thường xuyên, nông dân phiêu tán ruộng đất hoang hóa là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân
Tình hình kinh tế suy đốn, nông nghiệp thì khủng hoảng do lực lượng sản xuất bị phá hoại, giai cấp thống trị bóc lột thậm tệ lại thêm thiên tai lũ lụt, đói kém hoành hành đe dọa cuộc sống của người nông dân , sự bất bình sâu sắc của những người dân nghèo bị bần cùng phá sản với giai cấp thống trị đã đẩy họ đến một con đường duy nhất là tập hợp nhau lại và đứng dậy đấu tranh. Ngay từ khi Gia Long lên ngôi các cuộc khởi nghĩa nông dân ở đầu thế kỷ XIX thì cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho phong trào đấu tranhh của nhân dân vùng ven biển Nam Định, Thái Bình và cũng là cuộc khởi nghĩa nông dân có quy mô, phạm vi lớn nhất trong phong trào đấu tranh của nông dân ở đầu thế kỷ 19 muốn đàng Gia thế phả xã Quang Thiên huyện Kim Sơn ghi lại: “Nhân triều đình (Nguyễn) nhu nhược chuyên lo vơ vét của cải, luôn năm xây dựng thành quách, cung đình, bê trễ đê điều, đồng ruộng, nông trang, luôn năm lụt lội dân tình đói rách, làng mạc điêu tàn, nhũng loạn, khắp nơi , có ông Phan Bá Vành nhân nạn đói năm Canh Thìn (dầu 1821) tập hợp dân chúng chống lại triều đình được dân đi theo lập cắn cứ chính ở truyện ngắn Trà Lũ” Từ một cuộc khởi nghĩa có tính chất địa phương ở vùng ven biển Nam Định, chỉ trong một thời gian ngắn địa bàn hoạt động đã phát triển ra các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An, Hưng Yên, đây cũng là phong trào tồn tại lâu nhất (1821 – 1827) thu hút đông đảo nông dân nghèo ở các tầng lớp xã hội tham gia đã có tác động không nhỏ đến kinh tế, chính trị xã hội đương thời. Lo sợ trước sự phát triển mạnh của cuộc khởi nghĩa, triều đình đã phái những tướng giỏi như Trương Phúc Đặng, tiên phong đi thống chế Trương Văn Minh cùng với Nguyễn Hữu Thận trông coi việc đàn áp và phái tham hiệp trấn thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ cùng trấn Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận ra theo giúp, cuối cùng mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa.
à Động lực chính trong tất cả các cuộc khởi nghĩa ở đầu thế kỷ 19 đều là quần chúng nông dân nghèo đói không những ở miền xuôi còn có các dân tộc miền núi.
Và giải pháp có thể ổn định trật tự xã hội điều hòa mâu thuẫn giai cấp chỉ có thể bằng việc giải quyết ruộng đất cho nông dân để ổn định cuộc sống cho họ, tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển cũng là nhằm phục hồi nền kinh tế nông nghiệp, đáp ứng được yêu cầu mà đất nước đang đòi hỏi.
à có thể nói, bức tranh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19 là một bức tranh mang nhiều nét ảm đạm, vua quan nhà Nguyễn đã không tận dụng cơ hội quốc gia thống nhất để làm cơ sở cho sự phát triển tiến bộ đi lên cho đất nước sau nhiều nặm nội chiến kéo dài mà còn đẩy cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc hơn trước.
II. NGUYỄN CÔNG TRỨ NGƯỜI KHẨN HOANG LỖI LẠC CỦA THẾ KỶ XIX
*Nguyễn Công Trứ là một nhà trí thức có tài tên tuổi của ông còn lại đến ngày nay một phần là nhờ sự nghiệp khẩn hoang của ông, ông đã thừa kế những kinh nghiệm của người xưa và có những sáng kiến về khai khẩn đất dâi bỏ hoang, nó đã có ảnh hưởng lớn đến công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn…
-Dưới thời Nguyễn, Nguyễn Công Trứ là người hoạt động tích cực cho sự nghiệp cải biến những khu đất hoang thành ruộng đồng phì nhiêu trong khoảng thời gian tương đối ngắn (từ năm 1828 đến năm 1835) ông gửi liên tiếp 6 tờ tâu lên Minh Mạng xin trực tiếp tổ chức khai hoang, hoặc xin triều đình cử quan lại tổ chức khai hoang ở nhiều địa phương trong nước.
Trong những năm làm quan ở Bắc thành và tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa nông dân, Nguyễn Công Trứ có điều kiện để chứng kiến nỗi đau của dân chúng, tệ nạn mà bọn cường hào, quan lại gây lên. Nguyễn Công Trứ đã hiẻu được nguyên nhân của các cuộc khởi nghĩa nông dân và nhận thấy muốn khắc phục tận gốc nạn lưu tán và nông dân nổi dậy đấu tranh thì phải tiêu diệt nạn tham ô, trừng trị bọn cường hào gian ác, nắm quyền sinh quyền sát ở nông thôn, và đặc biệt là phải giải quyết yêu cầu về ruộng đất cho nông dân. Nhưng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân bằng cách nào, lấy ruộng đất từ đâu để cấp cho dân; Những năm tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Công Trứ đã mục đích được một thực tế của lối thoát khỏi bế tắc trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ đó là quang cảnh bãi bồi ven biẻn Nam Định - Ninh Bình mênh mông bát ngát có thể khai phá bằng đất canh tác với sự nhạy bén và sáng suốt của tài năng kinh tế lỗi lạc, Nguyễn Công Trứ biết chắc rằng đây là khả năng có thể thành hiện thực để giải quyết được vấn đề ruộng đất đang được đặt ra. Nếu tổ chức tập hợp nông dân nghèo vào tạo điều kiện cho họ tiến hành khẩn hoang trên một phạm vi và qui mô lớn.
Chủ trương khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ được trình bày sâu sắc trong bản điều trần. Khẩn hoang để yên nghiệp dân nghèo Ông viết: “Đời làm ăn xưa, chia ruộng đất của dân có nghiệp thường cho nên ở yên nơi làng mạc, không có gian tà. Ngày nay những dân nghèo từng ăn dưng chơi không, khi cùng thì họp nhau trộm cướp, cái tệ không ngăn cấm được trước thần đến Nam Định, thấy ruộng bỏ hoang ở các huyện Giao Thuỷ, Chấn Định mênh mông, bát ngát hỏi ra dân muốn khai khẩn những phí tổn không mấy mà cái lợi tự nhiên sẽ đến vô cùng, phàm các hạt xét thấy những dân du đãng, không bấu víu vào đâu đều đưa ra cả đầy như thế thì đất không bỏ hoang, dân đều làm ruộng. ông đã nêu ra lợi ích khai hoang.
Lợi ích khai hoang:
Theo Nguyễn Công Trứ khai hoang của nhà nước phong kiến, nó đêm lại lợi ích toàn diện cho nước, cho dân, trong bản điều trần 1828, ông nói tóm tắt lợi ích đó như sau:
“Như thế thì đất không sót lợi mà của nước được dồi dào… dân có nghề làm, thói phiêu lưu trở thành thuần hậu”.
+ Về mặt kinh tế: khai hoang khắc phục được được tình trạng “đất có thể reo trồng được còn bỏ hoang nhiều, đất rất màu mỡ mà chưa khai khẩn hết” góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, làm cho nguồn lợi tự nhiên lưu truyền mãi mãi.
+ Khai khẩn ruộng hoang còn làm tăng thêm thuế ruộng - nguồn thu nhập tài chính quan trọng nhất của nhà nước phong kiến đồng thời một bộ phận nông dân lưu tán không đăng kí hộ tịch được thu hút đến khu vực đất hoang, còn mở rộng thuế số người đóng thuế đinh, chịu lao dịch và bệnh dịch cho nhà nước. Mặt khác, việc huy động quân lính và tù phạm tham gia khẩn hoang, rồi trồng lúa và hoa màu, chăn nuôi gia súc để tự túc một phần nhu yếu phẩm (vừa rút bớt được số lương thực mà nhà nước phải cung cấp cho họ, vừa giảm bớt được chi phí vận chuyển lương thực đến những vùng xa xôi, hẻo lánh thu hẹp một phần khoản chi của công quỹ dành cho quân lính.
-Còn góp phần ổn định tình hình xã hội và chính trị vì việc làm này “gây nghiệp cho dân nghèo”, giải quyết được vấn đề ruộng đất trong khuôn khổ trật tư phong kiến cho một bộ phận nông dân, tạo ra cơ sở để nông dân an cư lạc nghiệp thanh toán một phần cái nạn “những dân đói nghèo rong ăn, rong chơi” nguồn gốc của “cái tệ giặc cướp không sao trừ diệt được”. Hơn nữa sự thành lập những làng ấp có đông dân cư sinh sống yên ổn trên những khu vực trước đây còn là “cỏ cây hoang rậm không có dấu chân người” không những mở đường làm ăn cho dân nghèo mà còn trừ được nơi ẩn lánh “của các lực lượng chống đối lại chính phủ phong kiến”.
Ngoài ra việc di dân và chuyển tù phạm đến biên giới hoặc khu vực mới chinh phục để họ khai khẩn” thêm đất trồng trọt, vừa củng cố và làm mạnh biên giới khi tình hình yên ổn, vừa có lực lượng bổ sung cho quân đội mỗi khi cần tiến hành công việc bành trướng hoặc chống lại quân địch vượt qua biên ải.
III. CHÍNH SÁCH ĐỒN ĐIỀN QUA HAI THỜI KÌ
Cũng như các triều đại phong kiến khác, căn bản dựa trên kinh tế nông nghiệp, nhưng với tính chất phản động cao hơn luôn luôn tìm mọi cách đối phó với sự chống đối của nhân dân, triều Nguyễn ngay từ đầu đã chú trọng khai khẩn ruộng hoang, coi đó là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong việc chiếm lấy và giữ vững ngôi vua. Suốt trong thời gian thống trị của triều Nguyễn từ lúc bắt đầu khởi nghiệp đến khi sắp sửa mất nước vào cuối đời Tự Đức, vấn đề khẩn hoang vẫn được thường xuyên nêu ra nhằm giải quyết nạn dân lưu tán, nguồn gốc của mọi cuộc khởi nghĩa nông dân. Trong chính sách khẩn hoang của nhà Nguyễn ông đề ra chính sách đồn điền, doanh điền, khai hoang trong đó chính sách đồn điền được ông chú trọng và phát triển .
1. Thời kỳ Nguyễn Ánh chiếm giữ gia Định
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Nhà Tây Sơn đánh đổ chúa Nguyễn vào năm 1977 và chiếm giữ toàn bộ đất phía Nam. Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Châu và luôn tìm cách đánh chiếm Gia Định. Dựa vào bọn địa chủ làm nội ứng bên trong đem quân về đánh chiếm Gia Định và đã chiếm được một vùng Gia Định lớn tức Nam Bộ ngày nay. Trong tình hình lực lượng còn quá yếu chỉ dựa vào sự chia rẽ của đối phương mà thu được thắng lợi nên Nguyễn Ánh nghĩ ngay đến việc sắp đặt tổ chức để vững chắc tạo thời cơ thuận lợi đánh lại Tây Sơn. Việc đầu tiên quan trọng là cung cấp lương thự2c nuôi quân lính tiến hành cuộc chiến tranh chiếm đất nước. Trong tình trạng chiến tranh, sản xuất nông nghiệp luôn luôn bị đe doạ và ở một vùng nhỏ hẹp, sự bóc lột nhân dân khôn khéo bằng mọi cách và đến tột độ cũng không thể nào có được đủ số dự trữ để nuối số quân ngày càng tăng. Cho nên suốt trong một thời gian dài việc khẩn hoang đã được Nguyễn Ánh nêu lên là một vấn đề sinh tử. Trong chính sách khai hoang đó đồn điền là biện pháp đầu tiên lúc bấy giờ
1.2. Chính sách đồn điền
Ở nước ta đồn điền đã xuất hiện dưới thời bị nhà Minh thống trị đầu thế kỷ 15 nhưng lịch sử của nó chỉ thực sự bắt đầu dưới triều đại nhà Lê từ cuối thế kỷ đó, theo sách cương mục 43 đồn điền đã được xây dựng năm 1481 chỉ dụ của vu Lê nói rõ mục đích các đồn điền này nhằm phát triển sức sản xuất nông nghiệp và tăng cường việc cung cấp lương thực. Chính sách của Lê Thánh Tông đã mở rộng thêm sản xuất cho thời kỳ chế độ phong kiến phát triển toàn thịnh ở cuối thế kỷ 15. Trong thời kỳ hoà bình thì chính sách này có tác dụng tích cực ở nhiều mặt. Có lẽ trong buổi ban đầu này, binh lính đóng đồn ở đâu thì làm ruộng ở đấy, chỗ nào cần bảo vệ thì ở đó lập đồn điền. Vì vậy theo sách Thiên nam dư hạ tập. Trong tổng số 43 đồn điền thời Lê đại bộ phận đều xuất hiện ngoài Bắc (30 địa điểm) càng về phía nam càng ít đi, nhưng từ khi đất nước phân chia thành đàng trong và đang ngoài trải dài xuống phía Nam, thì đồn điền được phát triển nhiều hơn trước kia ở đàng trong. Đồn điền cứ tồn tại và phát triển như vậy như vậy trong vòng gần 3 thế kỷ. Tuổi thọ của đồn điền chứng minh vai trò quan trọng của nó trong lịch sử dân tộc.
Năm 1757 khi xã hội phong kiến đang run lên trong cơn sốt khủng hoảng và cao trào nông dân khởi nghĩa thì các đồn điền đều bị bãi bỏ, ruộng đất trao lại cho dân làm để nộp thuế cho triều đình, binh lính làm đồn điền đều bị rút về Cương mục Nxb Sử học, Hà Nội, 1960.
và giai đoạn lâu dài nhất của lịch sử đồn điền chấm dứt. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ XVIII đồn điền lại bắt đầu một giai đoạn phát triển nữa và đây là giai đoạn cuối cùng của nó.
Thời kỳ này đồn điền vẫn thuộc sở hữu của nhà nước, song phương thức canh tác cũng có nhiều thay đổi, vì vậy hình thức đồn điền cũng biến dạng đi nhiều, không còn thuần tuý như trước nữa. Như theo quyết định nắm 1773 đời Lê Hiến Tông lại tái lập đồn điền ở vùng biển phủ Trường An (Ninh Bình). Nhưng đồn điền này không gồm binh lính mà lại thu nạp các dân mộ tuyển vào, thế là đã nảy sinh một loại đồn điền không do binh lính canh tác. Hình thức này đã được nhà Nguyễn bắt trước theo trong ít năm sau ở miền Nam. Năm 1785 trên đường chạy trốn và sống ở Long Kỳ ngoại thành Vọng Các Nguyễn Ánh đã phải cho quân lính làm đồn điền tự túc và ở đây đồn điền không thuộc sở hữu của Nguyễn Ánh. 5 năm sau khi đã chiếm giữ được Gia định rồi, Nguyễn Ánh đã áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” và bắt đầu đặt đồn điền ở đây kể từ tháng 10 năm 1790. Qua lời Nguyễn Ánh nói với quan lại có thể hiểu rõ mục đích chủ yếu của việc đồn điền là nhằm khai hoang, sản xuất lương thực “… đạo trị nước trước hết phải cho đủ ăn… bốn dinh Gia Định đất đai rộng trước kia việc quân chưa xong, đói kém xảy ra luôn, đến nỗi ruộng vườn bỏ hoang, của nước, lương quân còn chưa đủ. Đồn điền là phép hay đời xưa…” Đại Nam thực lục chính viên, đệ nhất kỉ, Nxb Sử học, T.II, tr 59.
. Ngay từ cuối năm 1970, Nguyễn Ánh đã cho lập hai loại đồn điền:
+ Loại đồn điền do binh lính canh tác.
+ Loại đồn điền do các hạng dân mộ canh tác.
Theo tác giả Chu Thiên trong tạp chí nghiên cứu lịch sử, đã chỉ rõ rằng có 3 loại đồn điền:
+ Đồn điền với tính chất quân sự thuần tuý.
+ Đồn điền với tính chất quân nhu thuần tuý
+ Đồn điền của dân cư khai hoang.
Cả 5 loại đồn điền này thực chất mang hình thức khác nhau nhưng về tính chất và ý nghĩa đều giống nhau, loại đồn điền (3) của tác giả Chu Thiên nó nằm trong loại đồn điền thứ hai là do các hạng dân mục canh tác. Sử nhà Nguyễn chép: “Tháng 6 năm Kỷ dậu (1789) Nguyễn Ánh bắt đầu cho đặt chức quan Điền Tuấn, tất cả gồm 12 người chia nhau đi 4 dinh Giả Định để khuyến khích việc làm ruộng và mộ dân ngoại tịch lập làm điền tốt thuộc về quan Điền Tuấn, cấp cho ruộng hoang, trâu cày và đồ dùng làm ruộng, nếu không đủ thì nhà nước cho vay, sau mùa gặt thì nộp thóc trả nợ” Theo Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 56 tháng 11/1963, tr 46.
. Trong tài liệu này quan Điền Tuấn lập đồn điền, song chữ điền tốt gợi ra một nội dung tương tự như dần đồn điền và cả hai loại người đều do tuyển mộ mà nên, ngoài ra loại tài liệu trên cũng không cho biết việc đóng sưu hay thuế của các điền tốt như thế nào, chỉ nói tới các điền tốt phải nộp thóc để trả nợ nhà nước và về các khoản vay trước như Trâu cày và đồ làm ruộng. Căn cứ vào một chi tiết trả nợ thì có thể xem “Điền tốt” như một hạng dân tự do nhiều hơn đồn điền. Bởi vì khi đã trả nợ thì hết nợ và việc trả nợ tự nó có ý nghĩa là sự bù lại tài sản của một chủ sở hữu này cho một chủ sở hữu khác. Đây có thể là loại đồn điền thứ hai hoặc đây không phải là đồn điền mà chỉ là việc khuyến khích khai hoang, phát triển sản xuất.
a. Loại đồn điền do binh lính canh tác.
Do quân đội chính quy, quân đội chiến đấu, chọn đất chống doanh trại, sau đó khai hoang làm ruộng, trong khi làm ruộng, quân lính vẫn vẫn giữ nguyên biên chế đội ngũ và kỉ luật chiến đấu như thường, công việc khai hoang là phụ, việc luyện tập chiến đấu là chính. Quân lính thay phiên nhau mà làm ruộng, khẩn hoang, chia theo đội ngũ mà làm và tuân theo kỉ luật của đội ngũ . Mỗi khu đồn điền thì giao cho một viên võ quan tứ phẩm chuyên trách. Các loại đồn điền quy mô quân sự chính quy này được thi hành đầu tiên và khoảng năm Kỉ Dậu 1789.
Các binh lính phải đi làm đồn điền đều được nhà nước cấp phát nông cụ để khẩn hoang và cày cấy. Sản phẩm làm ra đều nộp hết vào kho đồn điền. Mệnh lệnh của Nguyễn Ánh 10 năm Canh Tuất 1790 nói rõ: “Cho các đội túc trực và các vệ thuyền dinh trung quân ra vỡ ruộng ở vàm cỏ, đặt tên là trại đồn điền, cấp cho trâu bò, nông cụ và thóc ngô, đậu giống. Đến ngày thu hoạch đem hết về kho Kho chữ tích sau đổi làm kho đồn điền.
.
Lấy cai cơ hiệu tiền dực là Nguyễn Bình trông coi việc ấy Đại Nam thực lục chính biên
. Như vậy thì binh lính trong đồn điền không được lợi nào do tay họ làm ra à điều đó sẽ không kích thích nang suất phát triển nhưng nếu không hiểu rõ tính chất quân sự thì thân phận của họ giống như nông nô vậy. Loại hình này không phải tạm thời mà có thể lâu dài và đã xuất hiện của dinh Gia Đinh.
b. Đồn điền do các hạng dân mộ canh tác.
Song song với loại lập đồn điền loại thứ nhất, Nguyễn Ánh cho lập loại thứ nhất, Nguyễn Ánh cho lập lại đồn điền thứ 2 giống như loại đồn điền thiết lập ở miền biển Ninh Bình dưới thời Lê Hiến Tông 1773. Loại đồn điền này do các dân mộ tuyển vào chia thành đội nậu giống như tổ chức quân đội, các đội này chuyên làm ruộng với nông cụ do nhà nước cấp trên các mảnh vuông hoang của Nhà nước. Hàng năm sau khi thu hoạch, dân đồn điền phải nộp thóc sưu. Nếu như lính đồn điền loại thứ nhất không được hưởng sản phẩm làm ra phải nộp hết vào kho. Thi ngược lại, ở loại đồn điền này dân đồn điền chỉ phải đóng sưu. Như vậy nhà nước chỉ thu của họ một phần, và một phần khá lớn họ được quyền sử dụng à Vậy nếu họ làm ra được càng nhiều thì phần họ được hưởng càng nhiều hơn, bởi vì phần thóc đóng sưu nó là một khối lượng được qui định trước. Đây là điểm khác với yhàng lính, đồn điền. Đây là loại đồn điền tổ chức theo kiểu quân ngũ, nhưng chỉ phiên chế theo đội ngũ để làm việc, không phải thao luyện chiến đấu, nên kỷ luật không chặt chẽ, số người không cần chọn lục như ở loại đồn điền loại một họ không cần học tập về quân sự. Mục đích chính của đồn điền này là khai hoang, cày cấy và chăn nuôi để cung cấp lương thực cho quân lính và những nhu cầu đặc biệt của triều đình. Do sự trù tính phải tích trữ lương thực cần thiết đề đánh nhau lâu dài với nhà Tây Sơn, ngay từ năm ất Tỵ (1785) khi còn lưu vòng lần thứ 2 ở bên Xiêm, Nguyễn Ánh đã sai người chuyên làm việc đồn điền để cung cấp lương thực cho quân lính. Rồi đến năm canh tuất 1790, thấy rõ lợi ích của loại đồn điền này, Nguyễn Ánh lại lệnh cho các nhà văn võ mở dân lập đồn điền chia thành từng đội, nậu, cắm đất khẩn hoang, mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 6 hộc, người dân nào mộ được 10 người trở nên cho làm cai trại, trừ cho người tạp dịch ở sở của thôn (theo tạp chí nghiên cứu lịch sử số 56/11/1963 trong chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn).
Đây là loại đồn điền mà tác giả Chu Thiên gọi là đồn điền với tính chất quân nhu thuần tuý mà tác giả Vũ Huy Phúc cho là loại đ do các hạng dân mộ canh tác.
Theo Chu Thiên còn một loại đồn điền nửa là đồn điền của dân phu khai hoang tháng 6 năm Kỷ Dậu 1789, cùng với việc đặt ra chức quan điền trấn để trông coi, đôn đốc việc canh nông ở 4 dinh miền Gia Định (tức toàn bộ hạt Nam bộ ngày nay, Nguyễn Ánh đã sai các quan điền Tuấn mộ dân ngoại tịch làm điền tốt cấp cho ruộng hoang mà cày cấy, đồ dùng thì quan cấp cho đến khi thu hoạch thì trả thóc bù.
Còn dv Vũ Huy Phúc 2 loại ruộng đất mà Chu Thiên nêu ra tất cả chỉ là một loại ruộng là loại đồn điền do các hạng dân mộ canh tác như đã trình bày.
Để mộ người làm đồn điền thậm chí chính quyền phong kiến còn áp dụng những biện pháp tuyển mộ hoàn toàn có tính mệnh lệnh cưỡng bức. Hiện tượng này đã xảy ra đặc biệt ở Long Xuyên dv người Việt, người Hoa và người Miên tháng giêng năm Tân Hợi (1791) Nguyễn Ánh ra lệnh cho các hạng dân và người Đường (người Hoa) cũ mới ở đạo Long Xuyên, ai muốn làm đồn điền mà đồ làm ruộng bằng không đủ thì nhà nước cho vay… kẻ nào không muốn làm đồn điền thì bắt phải thu dịch tòng chinh để răn đe kẻ chơi bời lười biếng. Những người Phiên và người Đường ở hai phủ Ba xắc và Trà Vinh cũng cho khẩn đất làm đồn điền chính sách cưỡng bức này làm cho người ta liên tưởng đến thái độ khinh ghét nghề thương mại của nhà Nguyễn trước sau vẫn coi buôn bán là “một nghề” và có thể vì vậy mà nảy sinh sự cưỡng ép mọi hạng dân, kể cả ngươi Hoa, phải làm đồn điền. Đường lối “ức thương” có thể xem đây là một thủ đoạn, một lối thoát.
Cùng với biện pháp cưỡng bức, mức độ bóc lột cao dv đồn điền, điều này cũng là một hiện tượng rõ rệt. Hồi đó chính quyền phong kiến qui định mỗi người dân đồn điền phải nộp sưu mỗi năm 6 hộc thóc, không kể người đó lao động như thế nào, theo sách Đại Nam thực lục, hồi cuối thế kỷ XVIII cỏ 3 loại hộc ở Gia Định. Loại hộc dùng ở đồn điền là loại hộc nhỏ bằng 37 thăng 4 hợp. Nếu mỗi thăng tương đương với 0kg 7 thì 1 hộc bằng 100,98 kg và lượng thóc sưu mỗi năm người dân phải nộp là 605,880 kg. Trong khi đó thuế ruộng các loại ở Gia định chỉ phải nộp từ 1 hộc đến 4 hộc riêng loại ruộng tốt nhất gọi là thảo điền thì phải nộp đến 6 hộc còn ở ngoài Bắc thuế ruộng công vùng đồng bằng thời Gia Long, Cũng chỉ cao nhất là 120 bát. Vậy mức thuế, sưu đồn điền vàng nhất. Đó chưa kể đến các trường hợp các đ chăn nuôi trâu bò, ở đây chăc schắn các loại xúc vật nuôi đưỡng đều bị nhà nước sử dụng, cả chứ không thể thuộc về cá nhân được. Năm ất Mão (1795) Nguyễn Ánh cai giám thầu sứ “trông nom các đôi Nâu đồn điền trâu bò, dê để cung cho việc tế tự, yến tiệc Đại Nam Thực lục
. Đồn điền chăn nuôi chắc không có nhiều và phổ biến nên không thấy nói tới sưu thuế và thóc sưu đồn điền là nặng nhất.
Có lẽ chính vì tính chất cưỡng bức và bóc lột nặng nề nói trên mà xảy ra hiện tượng các dân đồn điền bỏ trốn đi nhiều. Đến nỗi Nguyễn Ánh phải đặt ra lẽ phạt vác viên cai đồn điền. Sử nhà Nguyễn cho biết: “khi nghe dân trại đồn điền trốn nhiều, không còn được mấy “sắc cho Bộ Hộ báo cho các trại phải mộ thêm mà bổ sung, mỗi trại lấy 15 người làm hạn. Nếu trong 1 tháng mà không đủ thì các trại phải sung làm binh.
Nhiều dân đồn điền bỏ trốn phản ánh tính chất cưỡng bức và bóc lột nặng nề của chế độ đồn điền loại thứ 2 này. So với loại đồn điền thứ 1, người dân đồn điền có vẻ khá hơn nhưng thực ra không thể so sánh vì thế về mặt sở hữu ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước người dân đồn điền có ra sức vỡ hoang và gieo trồng thì họ chỉ làm tăng thêm số sản phẩm thừa.
2. Thời kỳ thống trị của triều Nguyễn (1802-1833)
2.1. Thời kỳ Gia Long 1802-1819
Từ năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi nắm chính quyền toàn quốc, thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế tập trung triều Nguyễn trên đất nước ta. Bọn phong kiến nhà Nguyễn lòng đầy tham vọng nên ngay từ đầu đời Gia Long, kể cả sau này nữa binh đao và áp bức đô hộ thường khấy động nhiều vùng. Trong hoàn cảnh đó các đồn điền vẫn được Gia Long tiếp tục phát triển và cải biến cho phù hợp với mục đích từng thời kỳ.
- Đồn điền do binh lính canh tác.
Trước hết là quyết định năm 1804 phát triển đồn điền loại thứ nhất ra toàn tỉnh Quảng Ngãi. Các kiên, cơ binh lính ở đây phái đi vỡ hoang, cày cấy 2 vụ một năm theo đúng chế độ đồn điền loại thứ nhất như các nămn trước.
- Đồn điền do các hạng dân mộ canh tác.
Còn đối với các đồn điền loại 2 Gia Long cho giảm thóc sưu bớt đi 2 phần 10, (quyết định năm 18020 sau đó còn giảm tới 4 phần 6 rồi 5 phần 10 (riêng đối với các nậu đồn điền người Hoa và các hạng lão tật trong dân đồn điền - Theo quyết định năm 1804). Như vậy từ 1802 trở đi, dân đồn điền mỗi năm mỗi người chỉ phải nộp 2 hộc thóc, dân đồn điền người Thanh (người Hoa) nộp 5 hộc thóc, các hạng Lão tật trong dân đồn điền chỉ phải nộp 1 hộc thóc (từ 1804) những biến đổi quan trọng hơn ở đồn điền loại 2 này bắt đầu xảy ra từ năm 1810. Nam ấy, đồn điền loại 2 ở toàn vùng Nam Kỳ đều bị quân sự hoá, tức là mỗi đồn điền đều phải trích ra một nửa số dân lập làm hương binh tại chỗ. Trong bản chiếu dịch của Gia Long có đoạn nói rất công khai: “… Việc võ vị ở nơi biên cương không thể thiếu được. Nếu lại điều động binh ở nơi khác đến thì không quen phong thổ, quyết không bàng dân bản địa các người trước biết rõ tình thế biên cương hoà hoãn hay cấp bách thế nào mới có thể sai phải được. Vậy hạ lệnh số dân của phủ huyênbj… cùng số dân đồn điền biệt nạp đều lấy một nửa lập làm hương binh, biên thành đội ngũ, có việc thì làm lính, không việc thì làm ruộng. Đó là thượng sách để cùng nhau giữ gìn yên ổn.
Nhìn chung lại, Gia Long đã phát triển thêm đồn điền loại 1, giảm thóc sưu nhưng quân sự hoá đồn điền loại 2, để nhằm đạt tới những mục đích cả kinh tế lẫn quân sự, chính trị. Số liệu đồn điền năm 1822 phân bố như sau ở cả 4 phủ thành Gia Định:
Tân Bình
3 hiệu
22 trại
Nhân số
150 người
Định Viễn
14 hiệu
142 trại
-
6174 người
Phúc Long
1 hiệu
4 trại
-
138 người
Kiến An
8hiệu
79 trại
-
2641 người
Tóm lại, 1809 đến 1819, đồn điền vẫn dược duy trì, phát triển. Đồn điền loại 2 được quân sự hoá rõ rệt và do đó gần giống đồn điền loại 1.
2.2. Thời kỳ Minh Mệnh 1820 - 1840
- Đầu tiên do binh lính canh tác bằng đồn điền do các hạng dân mộ canh tác.
Minh Mệnh đã biến đồn điền loại 1 thành đồn điền loại 2 do yêu cầu về trị an và quân sự miền Nam được đặt lên hàng đầu trong các mối quan trọng được đặt lên hàng đầu trong các mối quan tâm của triều Nguyễn, toàn thể các dân đồn điền đều trở thành lính đồn điền và việc làm đồn điền trở thành một việc lớn của quân đội. Những người này được cấp ruộng đất hoang, trâu cày, nông cụ và giống má. Song tất cả quân số đều tham gia làm ruộg nơi thì trích ra 1/3 đến 1/2 hoặc chỉ làm ruộng từng thời vụ sau đó để lại một ít người làmtiếp, có khi chỉ làm ruộng vào lúc nhàn rỗi hay vừa cày vừa diễn tập”.
- Minh Mệnh ban hành những qui định có tính chất khuyến khích quân đồn điền để họ yên tâm phấn khởi làm ruộng. Trước kia sản phẩm làm ra đều nộp vào kho cả. Năm 1826, các lính đồn điền ở Quảng Ngãi được phép giữ lại 1/2 sản phẩm để chi dùng. Ngoài số thóc làm giống gieo mạ chia làm phần, nộp còn 5 phần giữa lại chi dùng. Có nơi nhà nước còn cho giữ lại toàn bộ sản phẩm làm ra mà “tự ăn, tự tiêu” vài năm sau nhà nước chỉ phải cấp tiền, không cấp gạo nữa.
+ Nhà nước còn ban thưởng bằng tiền cho các đồn điền đạt thành quả cqo, tiền thưởng càng nhiều nếu số thóc thu càng lớn.
- Chính sách đồn điền được khuyến khích như vậy ở miền Nam để phcụ vụ chính sách cai trị của nhà Nguyễn sau 1836.
- Có thể nói hình thức đồn điền đã được Minh Mệnh phát huy hết sức lực, tận dụng hết khả năng của mình để phục vụ tham vọng cai trị và đô hộ của họ Nguyễn.
Chế độ đồn điền thời Minh Mệnh phát triển mạnh hơn so với thời Gia Long ở tất cả các tỉnh Nam kỳ và Quảng Ngãi đảo Côn lôn đều có đồn điền, mỗi tỉnh đều khai khẩn được từ vài trăm tới gần 1 ngàn mẫu ruộng, có nơi làm được tới 3000 mẫu.
- Diện tích ruộng đồn điền được biến đổi:
Do ở thời kỳ này chỉ tồn tại loại đồn điền thứ 1 mcủa binh lính, mặc dù diện tích khai hoang của lính đồn điền khá nhiều, nhưng không phải tất cả số ruộng đất đó đều có thể được trồng cấy liên tục và lâu dài mà binh lính cũng không hoàn toàn nhàn rỗi. Huống chi binh lính không thể không di chuyển, trong khi ruộng đất là bất động sản và đòi hỏi phải được canh tác và chăm sóc liên tục. Do đó, đến cuối đời Minh Mệnh đã ban hành một quy định năm 1840: “Theo lời bàn của Bộ Hộ, từ Khánh Hoà trở vào Nam, những nơi có đồn điền đều lượng trích những ruộng đã thành điền, cho tù phạm quản nhận cày cấy. Đến khi thu hoạch, một nửa nộp quan, một nửa cho ăn dùng. Còn khẩu lương thì thôi không cấp nữa. Những ruộng tù phạm làm không hết cho dân nào tiện gần đấy cày cấy nộp thuế, sung làm công điền”. Với quyết định này, một bộ phận ruộng đất đồn điền đã tách ra và mang hình thức khác. Nếu nó biến thành công điền xã thôn thì đó là một sự chuyển biến về chế độ sở hữu, sau đây sẽ đề cập tới. Những việc này, như đã ghi tỏng quy định trên, chỉ là hãn hữu và không phổ biến. Còn nếu bí được giao cho các tù phạm thì về mặt sở hữu không có gì thay đổi cả. Đây vẫn là ruộng đất của nhà nước. Song quan hệ sản xuất và do đó hình thức ruộng đất có thay đổi. Người trực tiếp sản xuất không còn là binh lính, mà là tù phạm. Tù phạm là kẻ mất tự do, nhưng trong trường hợp này họ được trao một quyền tự do duy nhất, tự do sản xuất. Họ không được nhà nước cấp gạo nữa, như vậy họ được thừa nhận có quyền tự túc mà sống. Vậy nói chung họ không phải dân thường, nhưng nói riêng trong sản xuất họ được tự do sản xuất. Vì vậy đối với kẻ sở hữu ruộng đất họ giống như thân phận kẻ nông nô đối với lãnh chúa. Nếu xét về mặt phân phối sản phẩm thì nhà nước bắt họ phải nộp một khoản cố định về tỷ lệ là50%. Cách quy định theo tỷ lệ này là một biểu hiện của quan hệ địa chủ tá điền theo lối phát canh thu tô mà lúc đó đã rất phát triển trong xã hội. Vì vậy đứng về mặt nào cũng thấy ruộng đất đồn điền loại này là thuộc loại sở hữu nhà nước phong kiến. Tính chất phong kiến Việt Nam ở đây rất rõ rệt. Tính hình càng như vậy nếu xét tới khả năng biến chuyển của loại đồn điền này. Một khi đã giao ruộng đất cho tù phạm thì ruộng đất ấy không thể gọi là đ được nữa. Mặt khác người tù phạm sau khi đã làm ruộng ít lâu có thể là dễ chuyển thành người dân thường. Dĩ nhiên ruộng đất họ cày cấy vẫn thuộc về nhà nước. Tuy vậy, đây vẫn chỉ là khả năng. Có ý kiến quá nhấn mạnh vào khả năng này nên cho rằng: “Dù thành viên là lính, là dân hay là tù phạm, các đồn điền đều tổ chức giống nhau vàtheo như điều lệ quy định, sau một thờigian 6 hay 10 năm, ruộng đất đã thành thục rồi, đã lập thành địa bạ hẳn hoi, số lớn dân đồn điền đã trở thành dân cốp định rồi, hình thức đồn điền sã bỏ đi, dân cư ở đây sẽ chuyển thànhthôn ấp, lập thành tổng xã, sáp nhập vào những huyện sở tại, chịu công sưu, thóc thuế và binh đạo tạp dịch như các làng xóm khác. Điều khẳng định trên đây không dẫn ra bằng cứ nào, và có lẽ có thể đúng đối với chế độ đồn điền thời kỳ tự Đức sau này. vậy nếu khả nang nói trên đây quả đã thành sự thực thì điều đó cảng khẳng định rằng chế độ đồn điền thời Minh Mệnh không lúc nào rời bỏ tính chất sở hữu nhà nước phong kiến của nó.
2.3. Thời kỳ Tự Đức: 1848 trở đi
Trước hết phải nói rằng, từ năm 1841 đến 1847 thời Thiệu Trị, chế độ đồn điền không được chú ý, thậm chí có thể bị giải tán hầu hết. Bởi vì trong vòng 6, 7 năm đó, không hề có một quyết định nào về việc duy trì, phát triển đồn điền, ngược lại có một mệnh lệnh đem toàn bộ đồn điền ở 4 tỉnh: Sơn Tây, Định Tường, Khánh Hoà và Biên Hoà, cấp cho xã dân làm công điền (năm 1841). Sở dĩ có tình trnạg này có thể vì Thiệu Trị phải lo cố sức giữ gìn nền thống trị của triều Nguyễn. Trong những cố gắng không kết quả đó, dĩ nhiên toàn bộ quân đội đều được huy động và do đó chế độ đồn điền không còn điều kiện tồn tại nữa. Mặt khác triều Thiệu Trị là giai đoạn mờ nhạt, không có gì đặc biệt so với các vua Nguyễn khác.
Từ 1848 trở đi, đối với nhà Nguyễn, vấn đề cơ bản đặt ra là củng cố ổn định trật tự và ở ngay đất nam kỳ. Vì vậy vấn đề lập đồn điền đang được đặt ra từ khi tự đức cử nguyễn tri phương vào làm kinh lược sứ xứ này .. nhậm chức tháng giêng năm canh tuất 1850) nguỹen tri phương đã dâng sớ xin thực hiện 13 việc mà điều khản đầu tiên là “họp dân làm đồn điền để giúp sinh kế” đây là loại đồn điền loại 2 trước kia . việc đồn điền mà nguyễ tri phương đặt ra song song với việc mộ dân khai hoang lập thôn ấp định cư. Sau đó nguyễn tri phương lại xin “họp những dân ngèo túng làm đồn điền để giúp kế sinh nhai” nhưng triều đình tự đức lại cho rằng “ việc họp dân chúng làm đồn điền có nhiều bất tiện” Đại Nam thực lục chính biên.
.
Việc lập đồn điền được giao phó cho Nguyễn Tri Phương thi hành. Nguyễn Tri Phương xin mở rộng việc đồn điền ra khắp 6 tỉnh Nam Khf, không chỉ giới hạn trong hai tỉnh An Giang, Hà Tiên là hai tỉnh biên giới. Lý do được nêu lên là: “Nay đồn điền, lập ấp không thông hành ở 6 tỉnh mà chỉ thi hành ở hai phủ ấy thì bọn dân dễ bị nghi hoặc, khó hiểu biết lẽ kia, sợ hoặc do đó mà sinh sự…” Đại nam thực lục chính biên.
. Như vậy triều Tự Đức cho lập đồn điền vì vấn đề biên giới là chủ yếu. Dĩ nhiên các ích lợi kinh tế khác không phải không quan trọng. Bởi vậy, các đồn điền này được hình thành theo kiểu đồn điền loại thứ hai như đã phân biệt rõ trong mục trên. Tính chất quân sự ở đồn điền này cũng vẫn rất rõ rệt. Ngoài việc dân đồn điền phải ghép vào đội ngũ như quân đội, họ còn được cấp ao trung khai (tức áo lính mở thành 2 vạt ở giữa bụng) và hàng năm phải tập luyện quân sự. Tuy vậy đó chỉ là trên nguyên tắc. Còn trong thực tiễn mấy việc đó được hoãn mấy năm và nếu có thực tiễn mẫy việc đó được hoãn mấy năm và nếu có thực hiện cũng không liêntục và mạnh mẽ. Cuối năm 1854, sau khi nghe lời tâu của Thự Tổng đốc An, Hà Cao Hữu Phùng xin tạm đình việc cấp áo lính và diễn tập quân sự của dân đồn điền ở các tỉnh Nam kỳ; Tự Đức nói: “Việc may cấp quân phục và lệ diễu binh hàng năm cũng là việc không cần lắm, cho tạm ợi sau 3 năm sẽ làm dần” Đại nam thực lục chính biên T26.
. Suy cho cùng, các đồn điền thời Tự Đức dầu sao cũng vẫn có những đặc điểm quân sự của nó. Được thành lập song song với chính sách lập ấp khai hoang, đồn điền không thể không có nhiều điểm giống với thôn ấp, và đây chính là nguyên nhân làm nhiều người lầm lẫn đồn điền với thôn ấp. Nhìn vào cách thức tuyển mộ và khuyến khích tuyển mộ đồn điền, người ta có cảm giác như đồn điền rất dễ biến thành thôn ấp bình thường. Quyết định năm 1853 cho thu nhận cả người Hoa vào đ; và khi tuyển mộ người nào mộ đủ 1 đội thì bổ thụ làm chánh đội trưởng suất đội.
Trong việc lập ấp khai khoang, nhà nước chỉ ban thưởng nhưng về việc lập đồn điền , thưởng mjưmg về việc lập đồn điền, thưởng và phạt đi song song với nhau. Điều đó càng chứng tỏ tính chất cưỡng bức và tầm quan trọng của đồn điền. Năm 1854 Tự Đức quy định: các phủ huyện đều xét hiện số đinh điền mộ khẩn nhiều ít chia làm 4 hạng rồi chiếu hạng chia làm 10 thành, hạn cho 3 năm lập đinh căn cước. Năm Tự Đức thứ 7 (tức 1854) là lần đầu đốc suất cho dân đến đồn điền cày cấy khai khẩn, cần phải được 4 thành. Năm thứ 8, thứ 9 mỗi lần đều 3 thành, cộng 10 thành đủ số. Phủ nào mà lần đầu đốc suất dân mộ ấy làm nhà khẩn ruộng đều được 4 thành là hạng nhất, thưởng gia một cấp, hạng nhì thưởng kỷ lục 2 thứ, hạng ba thưởng kỷ lục 1 thứ, hạng tư thì thưởng cho 3 tháng tiền lương. Nếu trong 4 thành màtính cả đinh điền không thủ 1 thành sẽ được miễn nghị; thiếu 1 thành trở lên phạt lương 6 tháng; 2 thành trở lên giáng 1 cấp, được lưu ở lại. Năm thứ 8 , thứ 9 hai hạn ấy đủ thiếu cũng chiếu theo lần đầu mà thi hành. Cứ đủ 1 năm 1 lần, quan tỉnh xấy khám rõ chiếu hạng tâu xin thi hành. Xét về hạn lập sổ và thu sưu thế, đ cũng khác với ấp mới lập. Vấn đề này liên quan mật thiết tới chế độ sở hữu ruộng đất. Dân mộ lập ấp sau 3 năm mới kê khai lập sổ đinh điền. Và sau 10 năm mới thu thuế theo ngạch ruộng tư.
KẾT LUẬN
Vấn đề ruộng đất là vấn đề cơ bản của bất cứ xã hội phong kiến nào, vậy muốn hiểu rõ xã hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX cũng như tính chất và vài trò của nhà nước phong kiến triều Nguyễn trong thời kỳ lịch sử đó, đặc biệt là chính sách đồn điền. Có thể nói rằng nghiên cứu về chính sách đồn điền dưới triều Nguyễn cho ta thấy một bức tranh nông nghiệp khá đậm nét. Đó là một chương trình khẩn hoang hết sức tiến bộ và thu được nhiều thành tựu nhất định. Chính sách đó bao gồm nhiều giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau, trong đó đáng kể nhất là giai đoạn đầu trong những năm tiếp theo do hoạt động lịch sử cũng như các điều kiện kinh tế xã hội khác làm cho nó dần bị thu hẹp lại đặc biệt là sự mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp, chính sách đồn điền phát triển mạnh dưới thời các vua triều Nguyễn, đến Tự Dức nó đã trở thành hiệu, được thi hành rộng khắp trên cả nước với những thể lệ cho từng miền khác nhau. Chính sự chặt chẽ đó và sự đôn đốc chu đáo đã tạo ra những hiệu quả nhất định dv nông nghiệp, xã hội và nhất là an ninh quốc phòng vùng biên ải. Các nhà nước phong kiến Việt Nam đều hết sức chú trọng nông nghiệp, nông nghiệp có bền vững thì mới có thể đảm bảo nhiều mặt ổn định trong kinh tế-xã hội. Vì mục tiêu cao cả đó mà chính sách đồn điền đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của triều Nguyễn. Khách quan mà nói, nhiều vấn đề của chính sách đồn điền trong giai đoạn này còn ảnh hưởng nhất định trong xã hội miền Nam (trong vấn đề kinh tế), với xã hội Việt Nam và nền kinh tế nông nghiệp nước ta. Chứa đựng nhiều vấn đề mang tính thực tiễn cao, trong quá trình chúng ta tiến hành khẩn hoang nhiều vùng đấ còn hoang hoá của tổp quốc.
Chính sách đồn điền là một chính sách toàn vẹn, chứa đựng đầy đủ những thể lệ trên một quy mô cho phép, nó khai thác được những mỗi lợi to lớn từ đất đai không chỉ riêng vùng đất Nam bộ mà các vùng miền khác nữa. Về cơ bản, việc triều Nguyễn dưới thời Tự Đức tăng cường thực hiện chính sách đồn điền ở các vùng biên ải nhằm đẩy mạnh quá trình ảnh hưởng của mình tại các vùng đất mới, đồng thời qua đó đưa dân đến đây cày cấy bảo vệ và biến vùng đấtm mới khai phá thành chủ quyền quốc gia lâu dài. Suy cho cùng đó là mối lợi lâu dài mà Tự Đức đã nhìn thấy, đó là cái nhìn chiến lược.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Thị Thu Lương, Chế độ sở hữu canh tác ruộng đất ở Nam bộ nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại nam thực lục chính biên, tập XXVII, Nxb KHXH.
Trương Hữu Quýnh (Cb), Vũ Văn Quân, Đỗ Bang… Tình hình ed nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, 1997.
Vũ Huy Phúc, Tìm hiểu chế độ sở hữu ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb KHXH, H. 1979.
Nguyễn Thế Anh - Kinh tế Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Nxb lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập III, Nxb Giáo dục. H.
Nguyễn Khánh Toàn (cb), Nguyễn Công Bình, Văn Tạo… lịch sử Việt Nam, tập II (1858 -1945), Nxb KHXH, H. 2004.
Nguyễn Phan Quang, Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, H.1986.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử.
Tạp chí kinh tế số 47 năm 1969
Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (thế kỷ XV) của Phan Huy Lê, Nxb Văn Sử địa.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (70).doc