* Giá cả: Vấn đề giá cả hàng hoá trong cơ chế thị trường rất phức tạp vì mỗi thị trường có một giá cả khác nhau. Hiện nay, giá cả thị trường bấp bênh, không ổn định. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải phán đoán để lựa chọn mặt hàng XNK sao cho phù hợp với thị trường về giá cả và sở thích.
* Ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.
* Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm thay thế sản phẩm nhập khẩu. Nó sẽ làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu đồng thời các sản phẩm xuất khẩu sẽ được nâng cao chất lượng. Như vậy, nguồn hàng hoá xuất khẩu tăng lên tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng cung cấp các sản phẩm nhập khẩu và thúc đẩy hoạt động này. Bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt đối với hàng hoá xuất khẩu trong nước.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước của các doanh nghiệp thương mại quyết định sự chu chuyển lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế. Bởi vậy nó tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu.
Như vậy, các nhân tố bên ngoài tạo ra cả những cơ hội lẫn nguy cơ đối với mỗi doanh nghiệp, nó gắn bó chặt chẽ với môi trường nội bộ tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại một cách khách quan, gây ra những khó khăn và thuận lợi tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nắm bắt một cách thích ứng để ra các quyết định kinh doanh của mình một cách đúng đắn, đem lại hiệu quả kinh doanh ngày càng cao. Đó là mục tiêu lâu dài của từng doanh nghiệp.
32 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu Cơ bản về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cơ cấu kinh tế.
Theo quan điểm thứ nhất, XK chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta hiện nay, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ chờ vào sự thừa ra của sản xuất thì XK vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Quan điểm thứ hai coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
Một là, XK tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển XK gạo, cơ hội cho ngành chế biến, chăn nuôi, ngành sản xuất bao gì, ngành hoá chất là rất lớn.
Hai là, XK tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định khi khả năng sản xuất đã được mở rộng, thị trường trong nước trở nên nhỏ hẹp thì thị trường ngoài nước là nơi tiêu thụ, đem lại ngoại tệ đồng thời hướng sản xuất theo yêu cầu thoả mãn nhu cầu của thị trường đó.
Ba là, XK tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Bốn là, XK tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Bởi vì xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật thu hút công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam.
Năm là, thông qua XK hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lươngụ. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
Sáu là, XK còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Thực tế cho thấy dù vốn của doanh nghiệp có lớn đến đâu mà người chủ không quản lý tốt thì doanh nghiệp cũng không phát triển mạnh được.
Qua những tác động kể trên ta thấy quan điểm này cần được quán triệt đối với một nền kinh tế như nước ta.
a.3. XK có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Hàng XK của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng thô và nguyên liệu hoặc mới chỉ qua sơ chế. Tuy vậy, cũng đã có hàng triệu lao động được thu hút để sản xuất những mặt hàng này. Tới đây, khi chúng ta tăng hàm lượng chế biến hàng xuất khẩu, cho dù có sự hỗ trợ của máy móc thì một lượng không nhỏ nữa sẽ có thêm thu nhập.
Đẩy mạnh XK, tham gia vào thị trường thế giới tức là chúng ta đã đi sâu hơn vào phân công lao động quốc tế, con đường tốt nhất để tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Đời sống của người lao động được cải thiện dần theo thu nhập ngày càng tăng lên dựa vào đà tăng của kim ngạch XNK cả nước. Cần lưu ý rằng không chỉ những người lao động tham gia một cách trực tiếp vào xuất khẩu mới có thu nhập tăng lên. Những người lao động khác dù ở những ngành có hay không liên quan đến xuất khẩu nếu không được hưởng những quyền lợi vật chất chẳng hạn như lương cao thì cũng được hưởng những phúc lợi xã hội do sự đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách này hay cách khác vào ngân sách Nhà nước. Nếu chỉ dựa vào những thành tựu trong nước thì đến nay chúng ta đã không được hưởng những phát minh khoa học như máy giặt, tủ lạnh, máy ảnh hay ti vi,... Do đó cần phải nhận thức rõ vai trò của xuất khẩu, tập trung sức lực để đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa và XK còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu nhưng hiện đại phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong phú của nhân dân.
a.4. XK là để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
XK là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Nó ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển.
XK tăng sẽ tạo đà cho các quan hệ kinh tế phát triển. Bạn bè thế giới sẽ biết đến nước ta. Ngoài những người có nhu cầu tham quan du lịch, tìm hiểu văn hoá, phong tục còn có những người tiến hành tìm kiếm thăm dò thị trường thông qua du lịch và hoạt động này đã khiến ngành du lịch tăng trưởng và phát triển nhanh chóng.
Khi XK nhiều lên, nhu cầu về vận tải, bảo hiểm tăng, quan hệ tín dụng cũng phát triển theo. Và đầu tư cũng gia tăng bởi bạn hàng nước ngoài thấy được khả năng phát triển của Việt Nam thông qua hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh.
Ngược lại, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa kể trên cũng tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu trong khi ngành vận tải của Việt Nam chưa lớn mạnh, ngành bảo hiểm còn non trẻ, những kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế còn chưa nhiều.
* Vai trò của XK đối với các doanh nghiệp
Cùng với xu hướng hội nhập của đất nước thì xu hướng vươn ra thị trường thế giới của doanh nghiệp cũng là một tất yếu khách quan. Bán hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau:
- XK mở ra những thị trường rộng lớn hơn, giúp doanh nghiệp có cơ hội tiêu thụ hàng hoá, điều này đặc biệt quan trọng khi dung lượng thị trường nội địa còn hạn chế như ở nước ta.
- XK buộc doanh nghiệp phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh đến từ khắp nơi trên thế giới. Vì vậy doanh nghiệp luôn phải nâng cao khả năng quản lý để tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Đây là điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được.
- XK giúp doanh nghiệp mở rộng quan hệ, kịp thời nhận được những thông tin mới để điều chỉnh chiến lược của mình cho phù hợp.
b. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống. Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế nghĩa là nhập những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật.
Trong điều kiện nước ta hiện nay vai trò của nhập khẩu thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhập khẩu sẽ thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Thứ hai, nhập khẩu sẽ bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
Thứ ba, nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
Như vậy hoạt động XNK được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàgn hoá XNK, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Từ những điều trên ta thấy rằng hoạt động XNK đã có những vai trò tích cực như sau:
Thứ nhất, XNK là một hình thức trao đổi tích cực, nó vừa thể hiện mối quan hệ xã hội, vừa phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng rẽ mà có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu của mình cho dù đó là những nhu cầu có khả năng thanh toán. Việc buôn bán quốc tế cho phép một nước mở rộng khả năng sản xuất và khả năng tiêu dùng, tận dụng được những trang thiết bị, máy móc của nước khác mà điều kiện sản xuất của nước đó chưa cho phép. Chính vì vậy XNK trở thành vấn đề sống còn đối với một quốc gia.
Thứ hai, kinh doanh XNK chiếm một vị trí quan trọng trong tái sản xuất xã hội. Khi sản xuất các hàng hoá để xuất khẩu các quốc gia bỏ ra những chi phí nhất định. Các hàng hoá xuất khẩu không tham gia vào quá trình lưu thông trong nước, chúng được tiêu thụ ở nước ngoài. Đồng thời, nước xuất khẩu thu được một số ngoại tệ nhất định. Các tỷ lệ trao đổi được hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan của nó khác với giá nội bộ của nước xuất khẩu. Mặt khác, sản phẩm nhập khẩu tham gia vào lưu thông hàng hoá trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội thực tế không tái sản xuất ở nước đó.
Mặt khác, kinh doanh XNK không thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hoá hoặc làm tăng mức giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và đồng thời làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước.
Hơn nữa, XNK sẽ phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội.
Nó đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng và chính sự đa dạng của sản xuất và tiêu dùng sẽ khắc phục được sự thiếu cung và cầu về hàng hoá.
Ngoài ra, hoạt động XNK còn tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước và hàng nhập ngoại, tạo ra sự theo dõi và kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia XNK. Sự cạnh tranh này làm cho chất lượng nền kinh tế trong nước được nâng cao, xoá bỏ nhanh chóng sản phẩm lạc hậu, không thể chấp nhận được.
Như vậy, kinh doanh XNK có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi nước, phát huy được thế mạnh của mỗi nước và thế mạnh của cả nền kinh tế thế giới, là chiếc cầu nối liền nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động XNK mà các doanh nghiệp, các công ty XNK cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của mình.
II. Sự cần thiết và vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK
1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh XNK.
a. Phân biệt hiệu quả kinh doanh và kết quả kinh doanh XNK
Từ khái niệm hoạt động kinh doanh XNK ở trên ta thấy rằng đó là một quá trình bao gồm nhiều khâu trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK là nâng cao hiệu quả hoạt động của cả quá trình này.
Theo nghĩa hẹp thì hiệu quả kinh doanh XNK là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh XNK của doanh nghiệp.
Theo nghĩa hẹp thì hiệu quả kinh doanh XNK là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá XNK theo mục đích nhất định.
Theo khái niệm rộng thì hiệu quả kinh doanh XNK là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh XNK của doanh nghiệp. Đó chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định thông qua việc so sánh giữa lượng kết quả hữu ích thu được với chi phí lao động xã hội bỏ ra.
ở đây chúng ta cần phân biệt được kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh XNK. Kết quả kinh doanh thể hiện kết quả hoạt động của doanh nghiệp, được biểu hiện bằng các chỉ tiêu như doanh thu xuất khẩu hoặc nhập khẩu, lãi hay lỗ. Còn hiệu quả kinh doanh XNK là các chỉ tiêu tương đối nhằm so sánh kết quả kinh doanh với các khoản chi phí phải bỏ ra. Các chỉ tiêu hiệu quả cho ta thấy rõ hơn chất lượng của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hay nhập khẩu.
Để tính được các chỉ tiêu tương đối phải tính một số chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh kết quả của quá trình kinh doanh XNK.
- Tổng giá thành XK là tổng chi phí sản xuất hàng hoá xuất khẩu và các chi phí mua và bán hàng XK.
- Thu nhập ngoại tệ xuất khẩu là tổng thu nhập ngoại tệ của hàng hoá xuất khẩu tính theo giá FOB.
- Thu nhập nội tệ của hàng hoá xuất khẩu là số ngoại tệ thu được do xuất khẩu tính đổi ra nội tệ theo tỷ giá hiện hành.
Từ các con số này, ta tính được hiệu quả kinh doanh XNK theo công thức:
=
=
Đây còn được gọi là chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ XK của một mặt hàng nào đó.
* Trong khi đó, hiệu quả kinh tế được xem là những lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí về lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh kết quả kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có thể biểu diễn khái niệm này bằng công thức:
H =
Trong đó:
H : là hiệu quả kinh tế của một quá trình kinh tế nào đó
K : là kết quả thu được từ nó
C : là toàn bộ chi phí để đạt được kết quả đó.
b. Phân biệt hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội.
Như đã phân tích ở trên thì hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả tài chính là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là số lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được hoặc lỗ.
Hiệu quả kinh doanh được tính bằng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Nó được xác định trong mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra với thu nhập mang lại trong quá trình kinh doanh dưới hình thái tiền tệ đối với một dịch vụ kinh doanh hoặc tổng thể các dịch vụ kinh doanh. Trong khi đó, hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động kinh tế được xác định ở một thời gian nhất định. Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa các kết quả đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động, nâng cao đời sống tinh thần, tạo ra mối quan hệ lành mạnh, giải quyết công ăn việc làm,...) và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Như vậy hiệu quả kinh tế xã hội là lợi ích kinh tế xã hội mà hoạt động kinh tế đã mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội như: phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách Nhà nước, cải thiện đời sống nhân dân.
Mặc dù vậy, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội vận động cùng chiều nhưng trong một số trường hợp thì lại tỏ ra mâu thuẫn nhau. Có những hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận, thậm chí bị thua thiệt nhưng doanh nghiệp vẫn phải kinh doanh vì lợi ích chung để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội.
2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK
Kinh doanh XNK ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đây là một trong những lĩnh vực hoạt động được Đảng và Nhà nước rất chú trọng. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần VIII đã nhấn mạnh: "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm điều đó phụ thuộc vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại".
Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền sản xuất nào nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đối với chúng ta vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK thực sự cần thiết và trở thành cấp bách bởi lẽ:
Nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK là một nhân tố quyết định để tham gia phần công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm. Nếu như mọi nguồn lực đầu vào là vô hạn thì việc sản xuất kinh doanh không hiệu quả cũng không sao, khi đó nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ không phải là vấn đề cần phải giải quyết. Nhưng thực tế thì hoàn toàn khác, con người phải đứng trước thách thức là nguồn lực đầu vào bị hạn chế và ngày càng trở nên khan hiếm hơn. Từ đó đòi hỏi và bắt buộc con người phải nghĩ đến việc lựa chọn phương pháp tối ưu để sản xuất và kinh doanh. Bên cạnh lý do khan hiếm nguồn lực thì còn một lý do nữa đó chính là sự phát triển của khoa học và kỹ thuật cho phép tạo ra nhiều loại sản phẩm từ những đầu vào nhất định. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả năng lựa chọn hình thức sản xuất kinh doanh sản phẩm tối ưu, đáp ứng được nhu cầu đa dạng và khắt khe của khách hàng. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ đem lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất và nhiều lợi ích nhất.
Mặt khác, các doanh nghiệp XNK mang những nét chung của doanh nghiệp nói chung và ngoài ra còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những yêu cầu và đòi hỏi khắt khe từ phía khách hàng nước ngoài, các tác động của thế giới nên việc nâng cao hiệu quả kinh doanh càng trở nên quan trọng hơn. Trước kia, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình theo sự chỉ đạo của Nhà nước và vì thế mà mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là thực hiện kế hoạch Nhà nước giao. Nhưng ngày nay trong cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong cơ chế này, các doanh nghiệp phải tự ra quyết định kinh doanh, tự hạch toán lỗ, lãi. Do vậy, mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan trọng nhất, mang tính sống còn đối với doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa trong điều kiện như vậy không còn cách nào khác đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK là phải nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp. Từ những lý luận trên đã phần nào khẳng định được sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK cũng như vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK đối với nền kinh tế quốc dân và đối với bản thân doanh nghiệp.
3. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK
Nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK trong điều kiện các nguồn lực đầu vào ngày càng khan hiếm và trong điều kiện nền sản xuất xã hội phát triển như hiện nay thì có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế, doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng.
- Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK sẽ giúp cho đất nước tiết kiệm nguồn lực, khả năng phát triển lực lượng sản xuất kinh doanh, tạo nguồn ngoại tệ cho nền kinh tế và trình độ hoàn thiện quan hệ giao dịch, quan hệ sản xuất cao hơn. Điều này cũng có nghĩa là với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài, có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
- Đối với bản thân các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK là điều kiện tiên quyết nhằm đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp bảo toàn vốn và phát triển vốn, là cơ sở để tái sản xuất mở rộng và mở rộng kinh doanh. Qua đó doanh nghiệp kinh doanh XNK mới có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Điều đó cho phép doanh nghiệp giải quyết tốt đời sống của người lao động, đầu tư mở rộng, hiện đại hoá cơ sở vật chất, mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
- Đối với bản thân từng cá nhân thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp sẽ cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, tạo cho họ động lực để phát huy hết khả năng sẵn có của mình nhằm phục vụ cho quá trình phát triển của doanh nghiệp, góp phần làm cho doanh nghiệp ngày càng trở nên lớn mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
III. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh XNK ở các doanh nghiệp.
1. Chỉ tiêu tổng hợp
- Khái niệm: Chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh XNK thể hiện sự so sánh giữa thu nhập quốc dân có thể sử dụng được (tức là thu nhập quốc dân sau khi đã điều chỉnh các yếu tố thương mại quốc tế) và thu nhập quốc dân được sản xuất.
- Công thức:
HQKD XNK =
Trong đó:
HQKD XNK : hiệu quả kinh doanh XNK
N : nhập khẩu
X : xuất khẩu
Tn : thu nhập quốc dân được sử dụng
SK : thu nhập quốc dân được sản xuất ra.
- Chỉ tiêu này cho biết thu nhập quốc dân của một nước tăng hay giảm như thế nào trong thời gian tính toán khi có thương mại quốc tế.
- Nếu tương quan trên lớn hơn 1 thì kinh doanh XNK đã làm tăng thu nhập quốc dân, còn ngược lại là làm giảm.
* Để tăng thêm hiệu quả kinh tế quốc dân sử dụng cần:
- Xác định hợp lý cơ cấu xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở tính toán lợi thế của sản xuất trong nước.
- Sử dụng vốn nước ngoài và hướng nhập khẩu vào đầu tư và chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nước có hiệu quả, tạo điều kiện mở rộng thị trường nước ngoài.
- Tạo thêm công ăn việc làm nhờ mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu các yếu tố đầu vào cho sản xuất.
- Đảm bảo cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh, trong đó chú ý tới việc hạch toán nghiệp vụ hay vay trả sao cho có hiệu quả.
* Để đạt được điều kiện thương mại có lợi cần chú ý:
- Cải tiến cơ cấu và chất lượng hàng hoá XNK theo hướng tăng nhanh các mặt hàng nông sản chế biến và công nghiệp chế biến.
- Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, giá cả, vận dụng các phương thức buôn bán phù hợp để tranh thủ được các điều kiện thị trường có lợi nhất.
2. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả cụ thể của các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
2.1. Chỉ tiêu lợi nhuận xuất khẩu và nhập khẩu
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp XNK.
LNXK = DTXK - CPXK
LNNK = DTNK - CPNK
2.2. Chỉ tiêu so sánh giá nhập khẩu so với giá quốc tế.
Trong trao đổi ngoại thương, giá quốc tế là mức ngang giá chung. Các doanh nghiệp phải lấy giá quốc tế làm tiêu chuẩn để so sánh với giá XNK đã thực hiện được. Qua đó có thể đánh giá được hiệu quả kinh tế của các hoạt động XNK về mặt đối ngoại.
2.3. Chỉ tiêu so sánh doanh thu xuất khẩu tính ra đồng Việt Nam theo tỷ lệ giá hiện hành của Ngân hàng Nhà nước với giá thành xuất khẩu ở trong nước của từng mặt hàng, nhóm hàng, của từng chuyến hàng, hay của từng thời kỳ xuất khẩu khác nhau.
2.4. Chỉ tiêu so sánh doanh thu bán hàng nhập khẩu ở trong nước với chi phí nhập khẩu tính ra đồng Việt Nam theo tỷ giá hiện hành của Ngân hàng Nhà nước của từng mặt hàng, nhóm hàng, từng chuyến hàng nhập khẩu hay từng thời kỳ nhập khẩu.
2.5. Chỉ tiêu so sánh giữa giá cả nhập khẩu của từng mặt hàng, nhóm hàng giữa các khu vực thị trường và của các thương nhân khác nhau. Qua đó có thể rút ra được lợi thế trao đổi đối với các khu vực thị trường và thương nhân khác nhau.
2.6. Chỉ tiêu hiệu quả xuất khẩu kết hợp tính cho cả nước hay từng dịch vụ đổi hàng riêng lẻ.
Các chỉ tiêu trên thể hiện sự tiết kiệm lao động xã hội được thực hiện trực tiếp qua trao đổi ngoại thương.
3. Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh XNK khác
3.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu
Sự tiết kiệm lao động xã hội thu được thông qua kinh doanh XNK phụ thuộc vào mối tương quan cụ thể giữa giá trị quốc tế và giá trị đan tộc của hàng hoá được xuất hoặc nhập khẩu.
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá đó (giá trị dân tộc của hàng hoá).
HX =
Trong đó:
HX : hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu
TX : doanh thu bằng ngoại tệ từ việc XK đơn vị hàng hoá, dịch vụ
CX : tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu, bao gồm cả vận tải đến cảng xuất.
Công thức này được vận dụng để tính hiệu quả xuất khẩu của từng mặt hàng, hoặc hiệu quả xuất khẩu sang từng nước, khu vực thị trường.
Để tính chính xác hiệu quả xuất khẩu của từng doanh nghiệp hoặc của từng mặt hàng thì điều quan trọng là phải tính đầy đủ, chính xác các chi phí bỏ ra cho việc xuất khẩu đó. Trong điều kiện hiện nay đây là công việc rất khó khăn và phức tạp.
Nếu doanh nghiệp nào đó xuất khẩu không phải là một sản phẩm mà có nhiều mặt hàng xuất khẩu sang nhiều nước và đồng tiền thanh toán khác nhau thì vấn đề càng phức tạp hơn. Trong trường hợp đó sẽ rất khó để khẳng định rằng mặt hàng này xuất khẩu có lãi, mặt hàng kia xuất khẩu bị lỗ,...
Tuy nhiên, việc tính toán đầy đủ các chi phí đầu vào, có hướng giảm tối thiểu các chi phí để nâng cao doanh lợi là điều hết sức cần thiết.
3.2. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Hiệu quả của việc nhập khẩu được xác định bằng cách so sánh giữa chi phí sản xuất ra sản phẩm nhập khẩu hoặc sản xuất sản phẩm để thay thế nhập khẩu theo giá nội địa với tổng chi phí ngoại tệ cho việc nhập khẩu theo giá quốc tế.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức sau:
Hn =
Trong đó:
Hn : hiệu quả nhập khẩu
CS : chi phí sản xuất sản phẩm nhập khẩu hoặc sản xuất sản phẩm để thay thế nhập khẩu (theo giá nội địa)
Cn : tổng chi phí ngoại tệ cho việc nhập khẩu (theo giá quốc tế).
Việc tính toán chi phí sản xuất ở nội địa với các sản phẩm nhập khẩu hoặc sản phẩm thay thế cũng tương tự đối với sản phẩm xuất khẩu. Chi phí nhập khẩu bằng ngoại tệ bao gồm cả chi phí vận tải, bảo hiểm hàng nhập khẩu đến cảng nhập khẩu.
Nếu xem xét riêng rẽ từng mặt hàng thì nếu Hn lớn hơn 1 tức là việc nhập khẩu có hiệu quả.
4. Doanh lợi kinh doanh XNK và các chỉ tiêu cụ thể của nó
Việc tính toán hiệu quả kinh doanh XNK theo các cách tính toán trên đây gặp không ít khó khăn do tính toán chi phí của hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu. Vì vậy, để giúp ta tính toán và so sánh dễ dàng những kết quả hoạt động XNK người ta dùng chỉ tiêu doanh lợi để xem xét.
Doanh lợi kinh doanh XNK phản ánh kết quả tài chính của hoạt động XNK, nghĩa là nó phản ánh những kết quả bằng tiền thực tế thu được và những chi phí thực tế bỏ ra; giá tính doanh lợi được tính toán trên cơ sở giá hiện hành (giá tính toán của kế toán doanh nghiệp).
Vì vậy, về mặt lượng nó không trùng với các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh XNK. Chỉ tiêu doanh lợi kinh doanh XNK được dùng để tính toán doanh lợi riêng cho xuất khẩu, cho nhập khẩu, cho từng hàng hoá cũng như cho cả quá trình lưu thông xuất nhập khẩu nói chung.
Các công thức tính:
4.1. Doanh lợi kinh doanh XNK
DKDXNK = x 100
Trong đó:
DKDXNK : doanh lợi kinh doanh XNK nói chung
Tn : thu nhập về bán hàng nhập khẩu
Cx : chi phí cho việc xuất khẩu hàng hoá.
4.2. Doanh lợi xuất khẩu
Dx = x 100
Trong đó:
Dx : doanh lợi xuất khẩu
Tx : thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ, được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố mua của Ngân hàng Ngoại thương (sau khi trừ mọi chi phí bằng ngoại tệ)
Cx : tổng chi phí cho việc xuất khẩu.
4.3. Doanh lợi nhập khẩu
Dn = x 100
Trong đó:
Dn : doanh lợi nhập khẩu
Tn : thu nhập về bán hàng nhập khẩu
Cn : tổng chi phí ngoại tệ nhập khẩu chuyển ra tiền Việt Nam theo tỷ giá Ngân hàng Nhà nước bán.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh XNK
Hiệu quả kinh doanh XNK phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp, phản ánh sự tận dụng các nguồn lực đó. Nó là sự biểu hiện mối quan hệ hữu cơ giữa kết quả đầu ra và nguồn lực đầu vào. Cả hai đại lượng này đều chịu sự ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố khác nhau. Các yếu tố đó có thể là chất lượng của các nguồn lực đầu vào, là trình độ quản trị các yếu tố đó hoặc là các tác động từ bên ngoài doanh nghiệp. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thành các nhân tố sau:
1. Nhóm nhân tố bên trong
Nhóm nhân tố bên trong bao gồm toàn bộ các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp như lao động, khoa học kỹ thuật, thông tin,...
1.1. Lực lượng lao động
Lao động là một yếu tố quan trọng của quá trình hoạt động kinh doanh. Việc sử dụng lao động hợp lý sẽ quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy mà nâng cao hiệu quả sử dụng lao động là một biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng. Người làm kinh doanh XNK phải nắm được các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động như:
- Năng suất lao động: là chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất kinh doanh của lao động trong kỳ. Được tính bằng công thức:
W =
Trong đó:
W : là năng suất lao động bình quân trong kỳ
TR: là tổng doanh thu đạt được
L : là tổng lao động bình quân sử dụng trong kỳ.
Chỉ tiêu năng suất lao động biểu hiện tính hiệu quả trong việc sử dụng lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động:
Hlđ =
Trong đó:
Hlđ : là mức sinh lời bình quân của lao động
Ln : là lợi nhuận đạt được trong kỳ
LĐ : là tổng số lao động sử dụng trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết mỗi lao động sử dụng trong doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định.
- Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương:
Hw =
Trong đó:
Hw : là hiệu suất tiền lương
Ln : là lợi nhuận đạt được
TL : là tổng quỹ lương và các khoản thưởng có tính chất lương trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết chi ra một đồng tiền lương đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng lên khi năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tiền lương.
- Hệ số sử dụng lao động:
Hệ số sử dụng lao động =
Chỉ tiêu này cho biết tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp, số lao động hiện có của doanh nghiệp đã được sử dụng hết năng lực hay chưa. Từ đó tìm nguyên nhân và giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Lực lượng lao động là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều do lực lượng lao động tiến hành. Nó là chủ thể trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi nỗ lực đưa khoa học kỹ thuật trang thiết bị máy móc hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh đều do con người tạo ra và thực hiện chúng. Như vậy, lực lượng lao động của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp XNK nói riêng sẽ tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK ở những điểm sau:
Thứ nhất, bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên liệu mới có hiệu quả hơn trước hoặc cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, hiệu quả so với trước.
Thứ hai, họ trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả của doanh nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng công suất của thiết bị máy móc, tận dụng nguyên vật liệu, chi phí trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh làm tăng năng suất, tăng hiệu quả từng nơi làm việc.
Thứ ba, lao động có kỹ thuật, chấp hành đúng mọi quy định về thời gian, về quy trình hoạt động, quy trình bảo dưỡng thiết bị máy móc dẫn đến kết quả không phải chỉ tăng hiệu quả mà còn tăng độ bền, giảm chi phí sửa chữa góp phần làm giảm chi phí kinh doanh.
Ngoài ra chất lượng kinh doanh còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với những thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Lực lượng lao động càng có trình độ, có trách nhiệm là động cơ tốt phát huy hiệu quả kinh doanh.
Để có được đội ngũ lao động có trình độ, tinh thần, ý thức trách nhiệm cao thì doanh nghiệp phải chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động. Đó là nhiệm vụ hàng đầu của hầu hết các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp XNK nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
1.2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật
Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng chất lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ mới là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Nếu xét trong mối quan hệ với lao động thì cơ sở vật chất kỹ thuật vừa là công cụ, vừa là môi trường tốt để nâng cao năng lực của đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có năng lực, có trình độ kết hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại thì hiệu quả kinh doanh sẽ rất cao.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã thực sự nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm ở tất cả các hãng kinh doanh trên thế giới. Để đáp ứng những yêu cầu cạnh tranh trên thị trường quốc tế các doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt Nam đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ngày càng cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, cải thiện và nâng cao trình độ trang thiết bị cho doanh nghiệp mình. Điều này đã được chứng minh trong thực tế ở nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay, với cơ sở vật chất trang thiết bị còn yếu kém, máy móc lạc hậu, không đồng bộ đã thực sự khó khăn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì điều này càng trở nên quan trọng hơn bởi lẽ sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh với các hãng sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với rất nhiều hãng khác trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải biết tận dụng những gì do công nghệ mới mang lại, do cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tạo ra để sản xuất ra những hàng hoá thực sự tối ưu nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất trong kinh doanh XNK và đồng thời để thâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ ở tất cả các quốc gia.
Thực tế trong những năm chuyển đổi kinh tế vừa qua cho thấy doanh nghiệp nào tạo dựng được công nghệ sản xuất và hệ thống thiết bị hiện đại, làm chủ được các yếu tố kỹ thuật và phát triển sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó đạt được hiệu quả kinh tế cao, có khả năng đứng vững trên thị trường và đem lại những khả năng phát triển cho doanh nghiệp.
1.3. Hệ thống trao đổi và sử lý thông tin
Trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật tiến bộ đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực, tin học và điện tử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông tin được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh và nền kinh tế thị trường hiện nay được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để kinh doanh trên thị trường thành công các doanh nghiệp cần rất nhiều thông tin chính xác về thị trường, thông tin của các đối thủ cạnh tranh, thông tin về người mua, người bán, thông tin về hàng hoá, dịch vụ, giá cả, tỷ giá,... không những thế các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn phải biết được kinh nghiệm thành công hoặc thất bại của các doanh nghiệp trong nước và trên thế giới, các thông tin về chính sách vĩ mô của Nhà nước và các nước có liên quan đến thị trường XNK của doanh nghiệp.
Đặc biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh XNK yêu cầu về thông tin càng trở nên có ý nghĩa hơn. Thông tin trong nước cũng như quốc tế phải nhanh nhạy, thông tin về tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu, quota,... phải được xem xét thường xuyên và cập nhật.
Hệ thống thông tin có một số tác động lớn đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà nó biểu hiện ở chỗ:
- Những thông tin kịp thời, chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình sản xuất kinh doanh ngắn hạn, đưa ra các quyết định đúng đắn. Nếu thông tin thu nhập được mà không kịp thời, chính xác thì kinh doanh sẽ không đạt hiệu quả do bỏ lỡ cơ hội mà thị trường đã đem lại cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là các thông tin về thị trường, giá cả và đối thủ cạnh tranh.
- Mặt khác, thông tin giúp doanh nghiệp nắm bắt và nghiên cứu đầy đủ hơn về môi trường kinh doanh. Đặc biệt là những biến động bất thường trên thị trường. Qua đó doanh nghiệp có thể nắm bắt và tận dụng những cơ hội kinh doanh tốt và tránh được rủi ro.
Từ đó ta thấy việc tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đồng thời giảm đáng kể chi phí kinh doanh cho thông tin. Đó là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản trị doanh nghiệp hiện nay.
1.4. Nhân tố quá trình doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng nhân tố quản trị ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhân tố này tác động tới hiệu quả kinh doanh thông qua một loạt các yếu tố, nhân tố nội tại doanh nghiệp như cơ cấu lao động, cơ sở vật chất, kỹ thuật,... Công tác quản trị doanh nghiệp được tiến hành tốt sẽ giúp doanh nghiệp một hướng đi đúng, xác định đúng chiến lược kinh doanh, các mục tiêu kinh doanh ngắn và dài hạn hợp lý.
- Với một cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp hợp lý không những giúp cho điều hành hoạt động kinh doanh tốt mà còn giảm tối thiểu các chi phí quản lý và xây dựng một cơ cấu lao động tối ưu. Đồng thời, nó góp phần xây dựng và lựa chọn hợp lý các phương án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
- Kinh doanh là hoạt động thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và ngày càng tối ưu các yếu tố sản xuất bằng các kiến thức khoa học và nghệ thuật. Nhà quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là lãnh đạo doanh nghiệp, bằng phẩm chất và tài năng của mình, có vai trò quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành đạt của công ty. Để có thể tạo dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có kiến thức khoa học và nghệ thuật kinh doanh và đáp ứng được hai nhiệm vụ chủ yếu là:
- Xây dựng tập thể lao động thành một hệ thống đoàn kết, năng động với chất lượng cao.
- Dìu dắt tập thể dưới quyền, hoàn thành mục đích và mục tiêu một cách vững chắc và ổn định. ở bất kỳ một doanh nghiệp nào hiệu quả kinh tế đều phụ thuộc lớn vào tổ chức cơ cấu bộ máy quản trị, nhận thức hiểu biết về chất lượng và trình độ của đội ngũ các nhà quản trị, khả năng xác định chính xác mục tiêu, phương hướng kinh doanh có lợi nhất cho doanh nghiệp.
2. Nhóm nhân tố bên ngoài
Hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, đặc biệt kinh doanh XNK nói riêng không những chịu tác động của các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhân tố tác động từ bên ngoài. Đó là các nhân tố về môi trường chính trị, luật pháp, văn hoá xã hội, môi trường quốc tế, tỷ giá hối đoái,... Các nhân tố này tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh XNK.
2.1. Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, quy trình, quy phạm, kỹ thuật sản xuất nó tác động trực tiếp đến hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh XNK. Nó tạo ra bộ khung cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phải hoạt động trong bộ khung đó. Một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng không phải chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả của riêng mình, mà phải đảm bảo lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong xã hội. Đối với mỗi doanh nghiệp đòi hỏi phải nắm vững luật pháp, có nghĩa vụ chấp hành mọi luật pháp quy định của nước sở tại và thông lệ quốc tế để tiến hành các hoạt động trên cơ sở tôn trọng luật pháp. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh XNK.
2.2. Môi trường văn hoá xã hội
Môi trường văn hoá xã hội ở nước sở tại cũng như môi trường văn hoá xã hội ở nước ngoài đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nước sở tại thì môi trường văn hoá xã hội sẽ tác động đến những yếu tố: tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, trình độ giáo dục, phong cách lối sống, những đặc điểm truyền thống, tâm lý xã hội. Do đó hiệu quả kinh doanh XNK cũng bị tác động theo cả hai hướng tích cực hoặc không tích cực. Với xã hội có trình độ văn hoá cao sẽ tạo thuận lợi lớn trong việc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao, tiếp thu nhanh kiến thức cần thiết và tác phong lao động công nghiệp sẽ tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Môi trường văn hoá xã hội ở nước ngoài nơi mà các doanh nghiệp kinh doanh XNK hàng hoá sang thị trường các nước đó lại có vai trò quan trọng hơn đối với hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Bởi lẽ mỗi nước sẽ có một nền văn hoá, phong tục tập quán riêng và do đó họ sẽ co syêu cầu và sở thích khác nhau đối với những loại hàng hoá mà họ tiêu thụ. Các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải nắm bắt được vấn đề này để thu được lợi nhuận cao nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
2.3. Môi trường chính trị
Cũng tương tự như môi trường văn hoá xã hội, môi trường chính trị trong nước và các nước có liên quan đến việc XNK của các doanh nghiệp đều giữ vai trò quyết định đối với hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Môi trường chính trị trong nước ổn định sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK yên tâm với hoạt động kinh doanh của mình. Khi đó Chính phủ sẽ có những biện pháp tích cực nhằm mở rộng và kích thích, tạo đà cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK phát huy được hết thế mạnh của mình và trên cơ sở đó đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Môi trường chính trị nước ngoài ổn định cũng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Bởi lẽ khi đó hoạt động kinh doanh của họ không bị gián đoạn do nội chiến, đình công, xung đột,... ở thị trường những nước này. Đồng thời Chính phủ các nước này cũng sẽ có những ưu đãi nhất định đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
2.4. Môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng.
Tình trạng môi trường, sử lý phế thải, ô nhiễm và các ràng buộc xã hội về môi trường đều tác động đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng. Nếu như môi trường trong sạch và thoáng mát, hệ thống sử lý nước thải và các chất phế thải được trang bị cẩn thận và hợp lý sẽ góp phần làm giảm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một trong những thuận lợi để doanh nghiệp có điều kiện để cải thiện tốt hơn nữa các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ đam lại cho doanh nghiệp những hiệu quả kinh tế cao hơn.
Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đóng vai trò rất quan trọng đối với việc trực tiếp giảm chi phí lao động để xây dựng trang thiết bị, kỹ thuật cho doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là cơ sở hạ tầng tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh cũng như thời gian vận chuyển hàng hoá của doanh nghiệp và do đó tác động đến hiệu quả kinh tế. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm tăng chi phí đầu tư, cản trở hoạt động cung ứng hàng hoá, do đó sẽ tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì cơ sở hạ tầng của nền kinh tế lại càng quan trọng hơn. Nếu cơ sở hạ tầng yếu kém thì có nghĩa là vận tải quốc tế sẽ không phát triển mà hàng hoá cần thiết phải được đưa từ quốc gia này sang quốc gia khác trong thời gian ngắn nhất và chi phí thấp nhất. Có một điều mà các doanh nghiệp kinh doanh XNK luôn quan tâm. Đó chính là hệ thống kho ngoại quan. Nếu kho ngoại quan được thành lập theo đúng quy định và có nhiều ưu điểm sẽ giúp cho chủ hàng kinh doanh XNK yên tâm gửi hàng trong thời gian chờ đợi để xuất hoặc nhập khẩu. Nếu hàng hoá XNK gửi ở kho ngoại quan được đảm bảo an toàn về mặt số lượng và chất lượng và đồng thời các thủ tục xuất nhập kho được giải quyết nhanh chóng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh XNK bởi họ không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
2.5. Môi trường quốc tế.
Môi trường quốc tế cũng là một trong những nhân tố có vai trò quyết định đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK của các doanh nghiệp. Với một nền kinh tế mở cửa cùng với xu thế hiện nay là hội nhập cùng phát triển, ảnh hưởng của môi trường đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh XNK nói riêng là rất lớn. Các xu hướng chính trị trên thế giới chính sách bảo hộ và mở cửa của thế giới, chiến tranh, khủng hoảng tài chính tiền tệ,... ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động mở rộng thị trường mua bán của doanh nghiệp vì thế tác động đến hiệu quả kinh doanh. Những biến động của tỷ giá hối đoái, tác động rất lớn đến môi trường kinh doanh của các quốc gia có liên quan. Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho hoạt động buôn bán thương mại quốc tế giữa các nước và do đó ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu tỷ giá hối đoái cao, khi đó xuất khẩu sẽ bị hạn chế đồng thời kích thích nhập khẩu và ngược lại. Các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải nắm bắt một cách thường xuyên, cập nhật sự thay đổi của tỷ giá hối đoái để có quyết định đúng đắn trong quá trình kinh doanh.
2.6. Môi trường khoa học công nghệ trong nước và quốc tế.
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, các hoạt động nghiên cứu và triển khai ngày càng tạo ra nhiều công nghệ mới, kỹ thuật mới. Khoa học công nghệ trong các lĩnh vực của nền kinh tế rất được coi trọng bởi các lợi ích mà nó đem lại. Yếu tố công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng, bạn hàng qua telex, fax, giảm bớt những chi phí đi lại, khả năng nắm bắt thông tin nhanh hơn. Hơn nữa, các doanh nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin về thị trường ngoài nước bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Bên cạnh đó, yếu tố công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực vận tải hàng hoá, các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngành ngân hàng,... đó cũng là yếu tố tác động tới công tác xuất nhập khẩu.
Như vậy, thách thức đối với các doanh nghiệp là việc đầu tư triển khai khoa học công nghệ mới để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo thế cạnh tranh trên thị trường. Do đó, các doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư, đổi mới, nâng cao cơ sở kỹ thuật của mình để tránh tụt hậu, không ngừng vươn lên để đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
2.7. Môi trường kinh tế
Bao gồm các yếu tố như tăng trưởng kinh tế quốc dân, các chính sách kinh tế của Chính phủ, lạm phát, biến động tiền tệ, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh luôn luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Các nhân tố này luôn tác động trực tiếp đến các quyết định cung cầu của từng doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế của Chính phủ như chính sách tài chính, tiền tệ, biểu thuế,... vừa tác động điều tiết vĩ mô, vừa tạo ra cơ hội, thách thức với hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Do vậy, trong quá trình hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn nhạy cảm với môi trường kinh tế để có thể ra các quyết định kinh doanh phù hợp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Các chính sách của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó thực sự là hệ thống các nhân tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chính sách lãi suất, tín dụng quy định mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho việc vay vốn của các doanh nghiệp và làm tăng chi phí về vốn. Do đó làm giảm lợi nhuận hiệu quả kinh doanh sẽ giảm.
2.8. Các nhân tố khác
* Giá cả: Vấn đề giá cả hàng hoá trong cơ chế thị trường rất phức tạp vì mỗi thị trường có một giá cả khác nhau. Hiện nay, giá cả thị trường bấp bênh, không ổn định. Do vậy, các doanh nghiệp cần phải phán đoán để lựa chọn mặt hàng XNK sao cho phù hợp với thị trường về giá cả và sở thích.
* ảnh hưởng của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.
* Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp phát triển sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu, tạo ra sản phẩm thay thế sản phẩm nhập khẩu. Nó sẽ làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu đồng thời các sản phẩm xuất khẩu sẽ được nâng cao chất lượng. Như vậy, nguồn hàng hoá xuất khẩu tăng lên tạo khả năng thúc đẩy xuất khẩu. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng cung cấp các sản phẩm nhập khẩu và thúc đẩy hoạt động này. Bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh gay gắt khốc liệt đối với hàng hoá xuất khẩu trong nước.
Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước của các doanh nghiệp thương mại quyết định sự chu chuyển lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế. Bởi vậy nó tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh công tác xuất nhập khẩu.
Như vậy, các nhân tố bên ngoài tạo ra cả những cơ hội lẫn nguy cơ đối với mỗi doanh nghiệp, nó gắn bó chặt chẽ với môi trường nội bộ tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại một cách khách quan, gây ra những khó khăn và thuận lợi tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nắm bắt một cách thích ứng để ra các quyết định kinh doanh của mình một cách đúng đắn, đem lại hiệu quả kinh doanh ngày càng cao. Đó là mục tiêu lâu dài của từng doanh nghiệp.
Chương I: Lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh XNK 1
I. Hoạt động XNK và vai trò của hoạt động XNK đối với sự phát triển của nền kinh tế. 1
1. Bản chất của hoạt động XNK 1
2. Vai trò của hoạt động XNK 2
a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế 2
b. Vai trò của hoạt động nhập khẩu 6
II. Sự cần thiết và vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK 8
1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh XNK. 8
a. Phân biệt hiệu quả kinh doanh và kết quả kinh doanh XNK 8
b. Phân biệt hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. 10
2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK 11
3. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK 12
III. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh XNK ở các doanh nghiệp. 13
1. Chỉ tiêu tổng hợp 13
2. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả cụ thể của các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. 15
3. Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh XNK khác 16
3.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu 16
3.2. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu 17
4. Doanh lợi kinh doanh XNK và các chỉ tiêu cụ thể của nó 17
4.1. Doanh lợi kinh doanh XNK 18
4.2. Doanh lợi xuất khẩu 18
4.3. Doanh lợi nhập khẩu 18
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh XNK 19
1. Nhóm nhân tố bên trong 19
1.1. Lực lượng lao động 19
1.2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật 22
1.3. Hệ thống trao đổi và sử lý thông tin 23
1.4. Nhân tố quá trình doanh nghiệp 24
2. Nhóm nhân tố bên ngoài 25
2.1. Môi trường pháp lý. 25
2.2. Môi trường văn hoá xã hội 26
2.3. Môi trường chính trị 26
2.4. Môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng. 27
2.5. Môi trường quốc tế. 28
2.6. Môi trường khoa học công nghệ trong nước và quốc tế. 28
2.7. Môi trường kinh tế 29
2.8. Các nhân tố khác 29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0685.doc