CHƯƠNG 1
MỘT SỐ THAY ĐỔI KHÁI QUÁT VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010 . 9
1.Một số thay đổi chung: . 9
1.1.Quy định rõ ràng hơn về các tổ chức tín dụng: 9
1.2.Bảo vệ quyền lợi khách hàng: 11
2.Thành lập – đăng ký kinh doanh 12
2.1.Quy định về hình thức pháp lý: . 12
2.2.Cấp giấy phép hoạt động: . 12
3.Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành: 13
3.1.Đơn giản hóa thủ tục hành chính: . 13
3.2.Những quy định về nhân sự: 14
3.3.Kiểm tra kiểm sát nội bộ - kiểm toán độc lập: . 16
3.4.Tỷ lệ sở hữu cổ phần: 18
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG . 20
1.Nhận định chung: 20
2.Những điểm khác biệt giữa luật các TCTD 1997 so với 2010: . 20
2.1.Những thay đổi của luật mới so với luật hiện hành: . 20
2.1.1. Ngân hàng nước ngoài lo ngại trước quy định mới của luật 2010: . 20
2.1.2. Về huy động vốn: . 22
2.1.3. Về vấn đề miễn giảm lãi suất, phí, gia hạn nợ: . 22
2.1.4. Không được nhận tiền gửi của dân cư: 23
2.1.5. Về việc góp vốn mua cổ phần: . 24
2.1.6. Về vấn đề cấp tín dụng: . 26
2.1.7. Về vấn đề kinh doanh bất động sản: . 26
2.2.Những điểm mới của luật TCTD 2010: . 27
2.2.1. Cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91): 27
2.2.2. Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93): . 28
2.2.3. Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại (Điều 107): . 28
2.2.4. Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, cho thuê tài chính: . 28
CHƯƠNG 3
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCTD, THANH TRA, KIỂM TOÁN 30
1.Về phần quản lý nhà nước: 30
2.Về phần thanh tra: . 30
3.Về phần kiểm toán: . 30
CHƯƠNG4
TÀI CHÍNH, HẠCH TOÁN, BÁO CÁO . 32
1.Tăng cường thông tin liên lạc với các tổ chức tín dụng: 32
2.Kiểm soát các báo cáo tài chính . 33
3.Việc quản lý với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng có thành phần nước ngoài. 34
CHƯƠNG 5
KIỂM SOÁT ĐẶC BIỆT; TỔ CHỨC LẠI, PHÁ SẢN, GIẢI THỂ, THANH LÝ 36
1.Kiểm soát đặc biệt . 36
1.1.Các điều khoản đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng . 36
1.2.Vai trò, thẩm quyền của ban kiểm soát 37
1.3.Thẩm quyền của ngân hàng nhà nước với các TCTD được kiểm soát đặc biệt. 38
2.Tổ chức lại, phá sản, giải thể, thanh lý: . 40
LỜI KẾT . 41
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1945 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu, phân tích những điểm mới của luật các tổ chức tín dụng năm 2010 so với năm 1997, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i, kinh doanh vàng, phát hành thẻ tín dụng, trao đổi ngoại tệ, TCTD phải thành lập công ty con để thực hiện các hoạt động trên. Đây là những hạn chế khác biệt với thông lệ quốc tế và hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính ở VN. Điều này sẽ hạn chế phạm vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài theo như đã quy định trong Thông tư 03/2007/TT-NHNN ngày 28/2/2007, Điều 37 và 61. Thông tư này quy định rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thực hiện các hoạt động ngoài phạm vi các hoạt động ghi trong Giấy phép nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản hoặc đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thực hiện các nghiệp vụ này, đồng thời trong đó quy định rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đối tượng áp dụng và được thực hiện các nghiệp vụ đó.
Theo các chuyên gia luật cần linh hoạt để NHNN có thể bổ sung thêm các dịch vụ và hoạt động cho các tổ chức tín dụng khi cần thiết.
Hạn mức tín dụng chưa hợp lý:
Bên cạnh đó, theo Điều 128 – luật mới, tổng mức tín dụng cấp cho một khách hàng không vượt quá 15% tổng vốn chủ sở hữu của một ngân hàng sáp nhập hoặc một chi nhánh ngân hàng nước ngoài Trích Điều 128, Luật TCTD 2010
sẽ tác động xấu đến chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở VN. Bởi tất cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở VN hiện nay đều duy trì hạn mức cho vay đối với một khách hàng là 15% trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ. Và vì thế, theo điều 128 của luật mới, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ vi phạm điều này hoặc vi phạm hợp đồng cho vay đang có hiệu lực và sẽ phải kết thúc hợp đồng sớm hơn dự kiến. Thêm vào đó, điều này sẽ cản trở các chi nhánh nước ngoài của các ngân hàng nhỏ trong việc kinh doanh tại thị trường VN. Và sẽ là trở ngại lớn đối với các thành viên mới gia nhập thị trường hoặc các hoạt động mở rộng đầu tư. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cả việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào VN bởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn tại chỗ cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, các dự án cơ sở hạ tầng và nhiều ngành công nghiệp chủ chốt ở VN.
Theo các chuyên gia, với nội dung của điều 128 như trong luật mới thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VN buộc phải thay đổi cơ bản hoạt động tín dụng hiện nay. Trong trường hợp này, một số chi nhánh bắt buộc phải giảm mức cho vay bằng cách thu hồi nợ trước hạn hoặc chuyển khoản vay hiện có cho chi nhánh tại quốc gia khác. Mặt khác quy định mới này còn có khả năng làm tăng phần nợ đối với cán cân thanh toán của VN do việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chuyển các khoản vay vượt hạn mức cho các chi nhánh khác ở nước ngoài. Các khoản vay nợ trong nước sẽ thành các khoản nợ nước ngoài.
Trong khi đó, theo Nghị định 22, một chi nhánh ngân hàng nước ngoài là chi nhánh trực thuộc của ngân hàng mẹ, vì vậy các khoản cho vay của chi nhánh phải dựa trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ. Trích Nghị định 22/2006/NĐ-CP
Theo ông Brett Krause – Citi Bank :
“Quy định tổng mức tín dụng cấp cho một khách hàng không vượt quá 15% tổng vốn chủ sở hữu của một ngân hàng sáp nhập hoặc một chi nhánh ngân hàng nước ngoài đồng nghĩa với việc một công ty chỉ có thể vay được tối đa 4,5 triệu USD từ một ngân hàng nước ngoài tại VN nếu ngân hàng đó có hai chi nhánh, và 2,25 triệu nếu chỉ có một chi nhánh. Điều này dẫn đến việc các DN VN sẽ ít có cơ hội tiếp cận nguồn vốn nước ngoài. Và tác động tiêu cực không chỉ đến các DN đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn tác động xấu đến cả các công ty VN và các dự án cơ sở hạ tầng đang tìm kiếm nguồn vốn nước ngoài bởi các dự án loại này đòi hỏi một số vốn rất lớn”. Trích từ Website
Theo ông Ashok Sud – NH Standar Chartered Bank :
“Ở VN một công ty thường chỉ có quan hệ tín dụng với một số ít ngân hàng nhất định (một hoặc hai ngân hàng), nên DN ít có lựa chọn tiếp cận tín dụng. Và trong bối cảnh kinh tế hiện nay việc tiếp cận các nguồn tài chính quốc tế của các NH VN càng hạn hẹp. Chính vì vậy NHNN cần nghiên cứu tác động của quy luật này lên hệ thống ngân hàng VN và toàn bộ nền kinh tế. Theo ông nên có lộ trình khoảng 4 – 5 năm để áp dụng quy định về giới hạn cấp tín dụng này thay vì 18 tháng như dự kiến”. Trích từ Website
Về huy động vốn:
Điều 46 luật 1997 quy định: khi được thống đốc ngân hàng nhà nước chấp thuận tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài Trích Điều 46 Luật TCTD 1997
còn ở khoản 1 điều 92 luật 2010 thì tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn theo quy định của luật này và quy định của ngân hàng nhà nước Trích Điều 92 Luật TCTD 2010
. Điều này thể hiện tính độc lập và quyền tự quyết hơn của NHNN.
Về vấn đề miễn giảm lãi suất, phí, gia hạn nợ:
Nếu như Điều 54 khoản 4 luật 97 qui định rằng: Tổ chức tín dụng được miễn, giảm lãi suất, phí; gia hạn nợ; mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc đảo nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ Trích Điều 97, khoản 4, luật TCTD 1997
. Thì luật 2010, điều 95 qui định theo luật nội bộ của TCTD.
Điều này chứng tỏ quyền hạn của TCTD và việc chuyên môn hóa trong việc kinh doanh của TCTD được nâng cao. TCTD phải có kế hoạch trong vấn đề lãi suất, mua bán nợ và phải tự chịu trách nhiệm với hoạt động của mình.
Mặt khác với việc qui định miễn, giảm lãi suất theo luật nội bộ của TCTD tạo cơ hội cạnh tranh hơn và khách hàng sẽ được lựa chọn TCTD tốt nhất phù hợp với yêu cầu của mình. Điều này cũng phù hợp với nền kinh tế thị trường linh hoạt như hiện nay.
Không được nhận tiền gửi của dân cư:
Theo quy định của Luật TCTD 2010, kể từ 1/1/2011, các công ty tài chính (CTTC) chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức mà không được nhận tiền gửi của cá nhân, khác với luật năm 97, điều 45, khoản 2 qui định rằng các TCTD phi ngân hàng được nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức nhưng với kì hạn 1 năm trở lên Trích Điều 45, khoản 2, luật TCTD 1997
. Song, Luật Các TCTD 2010 lại nới lỏng hơn về hạn mức cấp tín dụng của CTTC so với các NHTM. Điều này sẽ đặt các CTTC về đúng vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ.
Hoạt động của CTTC được quy định tại Mục 3 từ Điều 108 đến Điều 111, Chương III, Luật Các TCTD 2010. Theo đó, CTTC là một trong những loại hình TCTD phi ngân hàng, được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng, như: nhận tiền gửi của tổ chức; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức; vay vốn của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật... Tuy nhiên, các CTTC không được phép nhận tiền gửi của dân cư (khách hàng cá nhân) và không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
“Quy định này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và một mặt giảm bớt được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, mặt khác cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn” Trích từ Website
. (Theo Thống đốc NHNN VN Nguyễn Văn Giàu)
Những quy định trên đã tạo thành ranh giới phân biệt rõ ràng hơn hoạt động của ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng; đồng thời tạo ra sân chơi khác nhau cho NHTM và CTTC, hạn chế sự chồng lấn, để CTTC có điều kiện phát triển tốt hơn.
Thực tiễn thị trường tiền tệ ở Việt Nam cũng cho thấy, việc giới hạn hoạt động nhận tiền gửi cá nhân của CTTC theo kỳ hạn (không được huy động vốn kỳ hạn dưới 12 tháng) như hiện nay là không phù hợp. Bởi thực tế, các CTTC vẫn tiếp tục nhận tiền gửi dưới một năm của cá nhân nhưng dưới các hình thức khác nhau, như: nhận tiền gửi trên một năm nhưng cho rút tiền trước hạn; hay nhận ủy thác đầu tư kỳ hạn dưới một năm với lãi suất cố định... Hơn nữa, khi không may xảy ra sự cố, kỳ hạn gửi tiền không có hiệu quả để ngăn cản các cá nhân đến rút tiền tại các TCTC. Bởi vậy, khi Luật không cho phép CTTC được nhận tiền gửi cá nhân, mức độ rủi ro đối với CTTC và cả hệ thống sẽ giảm đi.
Hiện phần vốn huy động từ cá nhân của các TCTD chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, thậm chí có CTTC không đặt ra nghiệp vụ này nên việc thay đổi trong luật không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các TCTD. Một ví dụ cụ thể như trường hợp của Tổng CTTC Cổ phần Dầu khí (PVFC) - đơn vị được đánh giá có hoạt động mạnh nhất trong loại hình TCTD phi ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, thì nguồn vốn huy động trong dân cư cũng chỉ chiếm từ 1% đến 1,5% tổng nguồn vốn huy động của công ty.
Ông Hoàng Văn Ninh - Tổng Giám đốc CTTC Cổ phần Điện Lực (EVNFC) cũng cho biết, ngay từ khi thành lập, EVNFC đã không thiết lập bộ máy để thực hiện việc huy động vốn từ cá nhân, nên việc quy định "CTTC không được nhận tiền gửi từ cá nhân" hầu như không ảnh hưởng đến hoạt động của EVNFC. Trích từ Website
Về việc góp vốn mua cổ phần:
Luật TCTD 1997, điều 69: “Tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật” Trích Điều 69, Luật TCTD 1997
. Luật này có qui định chưa rõ ràng với từng loại hình TCTD, đồng thời chưa phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay. Khắc phục hạn chế đó Luật 2010 nêu rõ những trường hợp được góp vốn, mua cổ phần đối với từng loại hình TCTD, qui định về việc góp vốn, mua cổ phần chi tiết hơn qua đó tạo ra một sân chơi lành mạnh, cạnh tranh hơn cho các tổ chức tín dụng, giảm trừ những trường hợp một số cá nhân hay tổ chức làm lũng đoạn hệ thống ngân hàng.
Một điểm quan trọng không thể không nói đến đó là việc NHTM có được mua, nắm giữ cổ phiếu của các TCTD khác hay không? Trước đây NHTM không được mua, nắm giữ cổ phiếu của các tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ hoặc theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn có nguy cơ đổ vỡ, điều này cũng dễ hiểu vì trước bối cảnh mà những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong thời gian gần đây đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam thì hoạt động NHTM đã được thắt chặt hơn nhất là hoạt động đầu tư chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Thế nhưng trong luật mới 2010 đã có qui định khác, NHTM vẫn được mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD khác nhưng trong giới hạn quy đinh của ngân hàng nhà nước Trích Điều 103, khoản 6, Luật TCTD 2010
(Khoản 6 Điều 103).
Nguyên nhân NHNN không cấm NHTM mua, nắm giữ cổ phiếu vì:
Hiện nay, một số ngân hàng nhỏ rất cần thu hút kinh nghiệm quản lý, điều hành và công nghệ của các ngân hàng lớn bằng việc bán cổ phần cho các ngân hàng lớn.
Hệ thống các tổ chức tín dụng của nước ta còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển nên cần thiết có mua bán cổ phiếu giữa các TCTD làm tiền đề cho việc sáp nhập nhằm nâng cao năng lực tài chính của các TCTD, lành mạnh hóa hệ thống.
Việc cấm NHTM Việt Nam nắm giữ cổ phần của các TCTD là sự bất bình đẳng giữa NHTM trong nước với các ngân hàng nước ngoài vì quy định của pháp luật hiện hành cho phép các ngân hàng nước ngoài nắm giữ cổ phần của các TCTD Việt Nam để trở thành cổ đông chiến lược. Việc này tạo cơ hội cho NHTM cạnh tranh công bằng hơn với các NH nước ngoài có chi nhánh tại VN đồng thời vẫn đặt hoạt động kinh doanh của các NHTM dưới sự kiểm soát của NHNN.
NHTM được mua và nắm giữ cổ phần giới hạn trong quy định của NHNN vì:
Việc sở hữu vốn đan chéo lẫn nhau trong khu vực ngân hàng làm tăng nguy cơ rủi ro hệ thống, đặc biệt trong những trường hợp có sự cố rút tiền hàng loạt hoặc khi một NHTM gặp khó khăn về tài chính.
Vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện tại còn nhỏ, việc cho phép các NHTM sử dụng vốn để đầu tư vào các NHTM/TCTD khác có cùng tính chất rủi ro là đi ngược lại xu hướng nâng cao vốn nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của NHTM.
Năng lực trình độ quản trị và công nghệ của các NH Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với khu vực và quốc tế, do đó sự tham gia vốn của các ngân hàng Việt Nam với nhau trên thực tế không giúp nhiều cho việc nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, điều hành và công nghệ.
Nếu NHTM được mua và nắm giữ cổ phần không giới hạn sẽ dễ xảy ra tình trạng các NHTM với vốn lớn và kinh nghiệm kinh doanh dễ dàng thao túng các NH, TCTD non trẻ qua việc tung vốn để nắm giữ cổ phần và điều khiển hoạt động kinh doanh dưới chiêu bài “phân tán rủi ro” khi dàn trải vốn. Từ đó sẽ làm lũng đoạn nền kinh tế thị trường. Đó cũng là quy định mới, chặt chẽ hơn của luật 2010 về việc nắm giữ cổ phần của TCTD dưới sự điều khiển của NHNN.
Về vấn đề cấp tín dụng:
Nếu Luật hiện hành năm 97 và sửa đổi bổ sung 2004 chỉ quy định trong điều 77 khoản 1, điều 78 rằng: “TCTD không được cấp tín dụng đối với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương của TCTD, các cổ đông lớn của TCTD” Trích Điều 78, luật TCTD 1997, SĐ-BS 2004
thì nay, Luật Các TCTD 2010 đã bổ sung thêm các đối tượng khác, gồm: “pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của TCTD là công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn” Trích khoản 1, Điều 126 Luật TCTD 2010
(điểm a, khoản 1, Điều 126 Luật TCTD 2010).
Tuy nhiên bên cạnh việc quy định chặt chẽ hơn về đối tượng không được cấp tín dụng, Luật Các TCTD 2010 lại nới lỏng hơn về hạn mức cấp tín dụng của CTTC so với các NHTM. Nếu như luật 97, điều 79 chỉ đơn giản qui định tỉ lệ là 15%, nếu muốn vay trên 15% vốn tự có, nếu muốn vay nhiều hơn thì phải theo quyết định của Thủ tướng Chính Phủ thì trong luật 2010, khoản 1, điều 128 quy định: “tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô” Trích Điều 128, luật TCTD 2010
. Nhưng đối với các CTTC, các tỷ lệ trên được nâng lên mức 25% và 50%.
Theo NHNN, việc nới lỏng giới hạn cấp tín dụng sẽ giúp các CTTC có điều kiện phát triển hơn và phù hợp hơn với thực tế hiện nay. Quy định này cũng nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng các CTTC thành định chế tài chính mạnh hơn, với vai trò chủ yếu là môi giới tiền tệ, làm đầu mối để thu xếp các khoản cấp tín dụng lớn cho các tập đoàn, tổng công ty. (Nguồn: thời báo Ngân Hàng). Trích từ Website
Về vấn đề kinh doanh bất động sản:
Luật tổ chức tín dụng1997 quy định TCTD không được trực tiếp kinh doanh bất động sản (Điều 73) mà ở đây luật lại không quy định thế nào là “trực tiếp kinh doanh bất động sản”, mức độ tổ chức tín dụng được kinh doanh gián tiếp bất động sản và quy định này có chi phối việc mua bán tài sản bảo đảm là bất động sản hay không. Luật 2010 thì quy định rõ ràng hơn (điều 132) tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản trừ một số trường sau đây:
Mua và đầu tư bất động sản sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoăc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.
Cho thuê một phần trụ sở kinh doanh không sử dụng hết, thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng.
Nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay thì trong thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản, TCTD phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để đảm bảo thực hiện đúng tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định và mục đích sử dụng tài sản cố định. Trích Điều 132 Luật TCTD 2010
Những quy định của luật TCTD năm 2010 rõ ràng hơn chặt chẽ hơn so với luật đang hiện hành giải quyết được hạn chế của luật ngân hàng năm 1997.
Tuy nhiên vẫn có một số thắc mắc, hoặc một số cái không được nhắc đến ở luật 2010 như sau:
Việc “đảo nợ” theo Luật các TCTD hiện hành sẽ bị cấm hay được làm có điều kiện, vì không hề được nhắc đến ở luật mới.
Không biết “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” bị cấm vay vốn là ai (điều 127 về Hạn chế cấp tín dụng) vì trên thực tế đang bị hiểu theo quá nhiều cách khác nhau: “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” đối với chính khoản tín dụng đó, hay là người thuộc phòng nghiệp vụ cấp tín dụng hay là người thuộc chi nhánh của TCTD hay là người trong TCTD hay là người đảm nhiệm công việc này trong tất cả các TCTD.
Những điểm mới của luật TCTD 2010:
Cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91):
Dựa vào nội dung khoản 2 và 3 của Điều 91: “TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD, ngân hàng nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD” Trích Điều 91 Luật TCTD 2010
. Tuy nhiên, tại Điều 476 của Bộ luật dân sự có quy định về lãi suất trong hợp đồng vay, quy định lãi suất cho vay là do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Nếu áp dụng quy định này, thì liệu quy định của Bộ luật dân sự còn thực hiện được không, hay nếu có quy định này thì theo nguyên tắc luật quy định sau sẽ có hiệu lực với tầm luật là như nhau. Như vậy, nếu có quy định này thì Điều 476 đương nhiên không thực hiện nữa. Vậy, nếu chúng ta quy định bỏ trần lãi suất và tự do hoá lãi suất, thì mặt được và chưa được của tự do hoá lãi suất là gì, dư luận có đồng thuận hay không?!
Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93):
Luật các TCTD 2010 quy định TCTD phải xây dựng và ban hành các quy định nội bộ đối với mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng (bao gồm: quy định về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, Quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu; Quy định về quản lý thanh khoản; Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và cơ chế kiểm toán nội bộ; Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng; Quy định về quy trình, thủ tục để ngăn ngừa hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác; Quy định về phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp) nhằm bảo đảm TCTD hoạt động an toàn, liên tục. Các quy định nội bộ của TCTD sau khi ban hành phải được gửi cho NHNN. Trích Điều 93 Luật TCTD 2010
Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại (Điều 107):
Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, NHTM được kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm ngoại hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về ngoại hối. NHNN quy định cụ thể về phạm vi kinh doanh, điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận cho NHTM thực hiện cung ứng các dịch vụ này. Ngoài ra, các NHTM được trực tiếp thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác (Điều 107) như quản lý tiền mặt, tư vấn tài chính, quản lý, bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an toàn, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, tư vấn đầu tư, mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, môi giới tiền tệ. Đối với các nghiệp vụ như lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, NHTM sẽ được thực hiện sau khi được NHNN cho phép. Trích Điều 107 Luật TCTD 2010
Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, cho thuê tài chính:
Theo quy định của luật các TCTD 2010, công ty tài chính có thể thực hiện một (công ty tài chính chuyên doanh) hoặc một số các hoạt động ngân hàng (công ty tài chính tổng hợp) (Điều 108) tùy theo nhu cầu hoạt động của mình. Luật giao quyền cho Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện (vốn, địa bàn hoạt động...) để công ty tài chính thực hiện các hoạt động ngân hàng theo quy định (một hoạt động - công ty tài chính chuyên doanh hoặc một số hoạt động - công ty tài chính tổng hợp). Công ty tài chính cũng được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác (Điều 111) và được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, quỹ đầu tư. Công ty tài chính chỉ được thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo đảm sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Đặc biệt, như đã đề cập ở phần trên, Luật 2010 quy định các TCTD phi ngân hàng (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức và không được cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Đối với công ty cho thuê tài chính, Luật 2010 quy định rõ công ty cho thuê tài chính là loại hình công ty tài chính có hoạt động kinh doanh chủ yếu là hoạt động cho thuê tài chính. Ngoài ra, công ty cho thuê tài chính được cho vay bổ sung vốn lưu động đối với bên thuê tài chính; cho thuê vận hành với tổng giá trị tài sản cho thuê vận hành không vượt quá 30% tổng tài sản có của công ty cho thuê tài chính và được thực hiện các hình thức cấp tín dụng khác sau khi NHNN cho phép. Công ty cho thuê tài chính được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác theo quy định tại Điều 116 của Luật 2010 nhưng không được góp vốn, mua cổ phần, thành lập công ty con, công ty liên kết dưới bất cứ hình thức nào.
Chương 3
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCTD, THANH TRA, KIỂM TOÁN
Về phần quản lý nhà nước:
Luật các tổ chức tín dụng 2010 ban hành cụ thể hơn về hoạt động ngân hàng, các điều khoản quy định cho từng loại hình tổ chức tín dụng. vì vây, việc sửa đổi ở đây gần như là thay thế luật cũ 1997 bằng luật mới 2010 do đó những điểm sửa đổi là rất ít mà chủ yếu là việc thay thế và thêm điều lệ mới.
Luật năm 1997 quy định (điều 116) Thống đốc ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính Phủ về hoạt động của ngân hàng còn luật mới thì quy đinh ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm về việc này (điều 158). Theo luật mới thì NHNN có trách nhiệm đối trước Chính Phủ trong việc quản lí hoạt động của các TCTD thay vì chỉ có Thống đốc như trước. Điều này có thể giảm bớt áp lực cho một cá nhân là thống đốc, NHNN nói chung và thống đốc đều có trách nhiệm trước CP.
Về phần thanh tra:
Nếu như trong Luật 1997 có qui định thanh tra ngân hàng thì Luật 2010 không đề cập đến. Trong khi đó, phần thanh tra giám sát ngân hàng lại được qui định rõ ràng và chi tiết trong Luật Ngân Hàng 2010.
Về phần kiểm toán:
luật mới cũng có những qui định chi tiết và chặt chẽ hơn (chương VII), những qui định về mua TSCĐ, báo cáo, chuyển LN,TS ra nước ngoài cũng giúp cho NHNN quản lí tốt hơn
Luật 2010, (điều 42) trong đó đáng chú ý là quy định về việc lựa chọn kiểm toán độc lập phải được thực hiện trước khi năm tài chính được kiểm toán bắt đầu vì theo thông lệ quốc tế và yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán, tổ chức kiểm toán phải tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát... để nắm bắt tình hình kinh doanh của TCTD suốt năm tài chính. Ngoài ra, để bảo đảm đánh giá trung thực, chính xác tình hình hoạt động của TCTD, Luật 2010 yêu cầu báo cáo kiểm toán không được có ý kiến ngoại trừ (qualified opinion); trường hợp có ý kiến ngoại trừ, TCTD phải thực hiện kiểm toán lại để đảm bảo báo cáo kiểm toán không có ý kiến ngoại trừ.
Về hoạt động kiểm toán nội bộ, theo khoản 1 điều 43 thì là phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng có nhiều bất cập như:
Số lượng công ty kiểm toán độc lập còn thiếu (hiện nay ngoài tổ chức kiểm toán nhà nước chỉ có khoảng 149 công ty kiểm toán hội viên)
Chi phí kiểm toán đối với TCTD nhỏ vì thu nhập còn hạn chế nên khó đảm bảo thực thi
Địa điểm của quỹ tín dụng nhân dân ở nông thôn sẽ khó cho việc kiểm soát
Vì vậy việc thành lập kiểm toán nội bộ là cần thiết để đảm bảo hiệu quả và an toàn trong hoạt động sử dụng an toàn hiệu quả vốn và khắc phục đươc một số bất cập trên. (Quy định rõ trong nghị định 37/2006).
Chương 4
TÀI CHÍNH, HẠCH TOÁN, BÁO CÁO
Tăng cường thông tin liên lạc với các tổ chức tín dụng:
Ngoài việc thực hiện chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và báo cáo hoạt động nghiệp vụ theo định kỳ theo quy định của nhà nước.
Ngân hàng nhà nước quy định thêm một số trường hợp sau:
Trích điểm a khoản 2 điều 141, luật TCTD 2010
Phát sinh diễn biến không bình thường trong hoạt động nghiệp vụ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trích điểm b khoản 2 điều 141, luật TCTD 2010
Có thay đổi về tổ chức, quản trị, điều hành, tình hình tài chính của cổ đông lớn và các thay đổi khác có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trích khoản 3 điều 141, luật TCTD 2010
Công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng có trách nhiệm gửi báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động của mình cho ngân hàng nhà nước khi được yêu cầu.
Những báo cáo này giúp cho ngân hàng nhà nước thuận tiện trong việc xử lý một cách linh hoạt và kịp thời các tình huống xảy ra với hệ thống tài chính, ngân hàng. Những phát sinh này nếu xử lí không kịp thời sẽ gây ra tâm lí hoan mang với người dân, người gửi tiền hay các nhà đầu tư chứng khoán. Khi mà chỉ một thông tin nhỏ có thể gây ra những biến động cực kì lớn.
Việc quy định công ty con, công ty liên kết gửi báo cáo tài chính (tại khoản 3, điều 141, luật 2010), giúp tránh tình trạng tổ chức tài chính thành lập công ty con nhưng không quản lý hiệu quả, làm cho cả tổ chức gặp khó khăn về tài chính, hay những vụ mua bán tài sản thiếu minh bạch giữa công ty mẹ và công ty con nhằm mục đích trục lợi.
Trong thực tiễn, một sai lầm trong đầu tư của một chi nhánh dẫn đến sụp đổ cả ngân hàng lớn. Baring Bank là ngân hàng thương mại lâu đời, thành lập vào năm 1762, và có uy tín nhất London. Đây cũng là ngân hàng cá nhân của Nữ Hoàng và đã từng tài trợ cho cuộc chiến của Napoleon vào thế kỷ 19. Mọi chuyện bắt nguồn từ việc một trong những nhân viên của ngân hàng tại chi nhánh Singapore, Nick Leeson, 28 tuổi, gây nên khoản lỗ tới 827 triệu bảng, tương đương 1,4 tỷ đôla, do đầu cơ vào các hợp đồng tương lai. Thay vì công khai sai lầm của mình, Leeson che giấu mọi thứ bằng một serie các bản báo cáo kế toán phức tạp, với hy vọng kéo dài thời gian chờ thị trường hồi phục nhưng mọi việc đi theo hướng ngược lại. Tuy nhiên, tới tận tháng 3/1995, mọi chuyện mới được đưa ra ánh sáng. Thông tin được công bố, đã đặt dấu chấm hết cho ngân hàng thương mại lâu đời và uy tín nhất London. Baring Bank bị bán cho ING, Tập đoàn Tài chính có trụ sở tại Hà LanBài học kinh nghiệm từ Baring Bank, nguồn: bwportal.
.
Những bài học kinh nghiệm của thế giới cho thấy, việc cấp thiết là phải đưa ra một quy định về cung cấp thông tin của các TCTD phù hợp, tạo cở sở cho việc giám sát thường xuyên, rõ ràng. Chính vì vậy, luật 2010 ra đời, đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu này.
Kiểm soát các báo cáo tài chính.
Nếu so với thời gian khi luật 1997 ra đời, khi chỉ có một vài ngân hàng và tổ chức tài chính. Thì con số đó hiện nay tăng gấp nhiều lần và không ngừng phát triển. Đế có nguồn vốn phát triển thì các ngân hàng và tổ chức tín dụng phát hành chứng khoán như một công cụ huy động vốn. Việc công khai báo cáo tài chính như là một điều hiển nhiên, Các báo cáo tài chính của TCTD phải được một công ty kiểm toán có uy tín lập. Kèm theo đó, là việc quy định báo cáo của công ty kiểm soát.
Trích khoản 1 điều 142 luật TCTD 2010
Trong thời hạn 120 ngày, kể từ thời điểm kết thúc năm tài chính, ngoài báo cáo và tài liệu theo quy định của pháp luật, công ty kiểm soát phải lập và gửi cho Ngân hàng Nhà nước báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán theo quy định của pháp luật về kế toán.
Trích khoản 2 điều 142 luật TCTD 2010
Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, công ty kiểm soát phải lập và gửi cho Ngân hàng Nhà nước báo cáo tổng hợp về giao dịch mua, bán và giao dịch khác giữa công ty kiểm soát với công ty con, công ty liên kết của công ty kiểm soát
Vấn đề này được bổ sung nhằm tăng cường kiểm soát, chống những giao dịch nhằm mục đích trục lợi.
Việc mua bán, chuyện giao tài sản giữa công ty kiểm soát và công ty con, công ty liên kết không phải là một chuyện mới trong hoạt động kinh doanh. Và thông qua những hoạt động này, nhiều công ty đã làm sai lệch thông tin, nhằm mục đích trục lợi cho công ty kiểm soát. Luật được ban hành dự đoán được những nguy cơ đó, nên theo luật, công ty kiểm soát phải gửi cho ngân hàng nhà nước báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán. Bên cạnh đó phải lập và gửi cho ngân hàng nhà nước báo cáo tổng hợp về giao dịch mua, bán và giao dịch khác giữa công ty kiểm soát với công ty con, công ty liên kết của công ty kiểm soát.
Một công ty có thể mở ra một hay nhiều công ty con “dưới bóng” của mình. Công ty con dựa vào uy tín của công ty mẹ để được vay vốn, để thắng thầu, để xây dựng thương hiệu. Công ty mẹ sử dụng công ty con để huy động vốn, để hứng chịu những hợp đồng đầy rủi ro, để giấu bớt sự nợ nần của mình để làm cho các báo cáo tài chính ‘đẹp” hơn… Ngay cả những hợp đồng mua đi bán lại giữa mẹ và con cũng tạo ra doanh thu và lợi nhuận để báo cáo. Sự phá sản của tập đoàn năng lượng nổi tiếng hàng đầu của Mỹ, Enron là một ví dụ thực tiễn để ta có thể soi xét. Trong đó Enron đã tạo ra hơn 900 công ty con, chủ yếu nằm ở những nước còn dễ dãi nhất về luật kế toán. Xây dựng hệ thống nhằm che giấu lỗ lãi và rủi ro, trong khi đó lại phóng đại lợi nhuận và tài sản. Hệ thống này được thiết kế bởi các chuyên gia tài chính tài giỏi, được bảo đảm bởi một trong năm công ty kiểm toán lớn nhất thế giới - Arthur AndersenKenneth Lay: đoạn kết của huyền thoại Enron, nguồn: VNN
.Qua vụ việc này, nếu công ty trên là một tổ chức tài chính thì hậu quả thật khôn lường.
Như vậy, việc đưa những điểm mới này vào luật 2010 được coi là phù hợp với thực tiễn.
Việc quản lý với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng có thành phần nước ngoài.
Ngoài việc báo cáo tài chính của các chi nhánh ngân hàng trong nước, các tổ chức tín dụng thì khi tổ chức tín dụng nước ngoài có thay đổi thuộc một trong những trường hợp:
Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, thanh lý, phá sản, giải thể.
Đổi tên, chuyện trụ sở chính.
Thay đổi cổ đông lớn, hội đồng quản trị, ban điều hành.
Thay đổi bất thường có ảnh hưởng lớn đến tổ chức, hoạt động.
Những bắt buộc này giúp cho ngân hàng nhà nước nắm bắt được tình hình của các tổ chức tín dụng nước ngoài, thông qua đó có thể điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước. Khi luật được ban hành năm 1997, khi mà các tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia vào thị trường tài chính việt nam còn ít, nên điều này chưa được các nhà làm luật nghĩ tới. Nhưng hiện nay, khi mà có rất nhiều ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tín dụng nộp đơn xin thành lập và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Việc nắm được thông tin của tổ chức tín dụng nước ngoài, giúp cho ngân hàng nhà nước có những quyết định, điều chỉnh thích hợp nhằm đảm bảo thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định. Trường hợp công ty mẹ ở nước ngoài gặp khó khăn, hay ngân hàng nước ngoài có chi nhánh ở Việt Nam gặp khó khăn về tài chính thì ngân hàng nhà nước có thể cân nhắc việc thông báo ngừng hoạt động hay giải quyết những vấn đề liên quan tới tài sản, đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư, người gửi tiền (ngân hàng chi nhánh).
Chương 5
KIỂM SOÁT ĐẶC BIỆT;
TỔ CHỨC LẠI, PHÁ SẢN, GIẢI THỂ, THANH LÝ.
Kiểm soát đặc biệt.
Kiểm soát đặc biệt là một trong những cách quản lý các tổ chức tín dụng cũng như ngân hàng khi các tổ chức này có nguy cơ mất khả năng chi trả hay mất khả năng thanh toán. Phương pháp này giúp tạo một môi trường kinh tế ổn định thông qua việc kiểm soát quá trình hoạt động, phục hồi khả năng kinh doanh trở lại, tránh những cú sốc lớn cho nền kinh tế.
Các điều khoản đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Đây là phần hoàn toàn mới của luật 2010 so với 1997, với những tiêu chuẩn để đảm bảo các tổ chức tín dụng trong trình trạng an toàn vốn.
Các tổ chức tín dụng thuộc diện bị kiểm soát:
Trích điểm c khoản 3 điều 146 luật 2010
Khi số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất;
Trích điểm d khoản 3 điều 146 luật 2010
Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
Trích điểm đ khoản 3 điều 146 luật 2010
Không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 130 của Luật này trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục.
Việc quy định số lỗ lũy kế phải nhỏ hơn 50% tại điểm c, giúp cho các tổ chức hoạt động hiệu quả hơn, có những biện pháp khắc phục tình hình kinh doanh hiệu quả khi bị thua lỗ để tránh can thiệp của ngân hàng nhà nước vào công việc nội bộ. Đây cũng có thể xem như một biện pháp phòng ngừa sớm các tình huống xấu. Nhiều tổ chức hoạt động không hiệu quả, nhưng không có biện pháp cải thiện tình hình, đến khi mất khả năng chi trả hay thanh toán thì để khắc phục khó khăn hơn rất nhiều.
Tại điểm đ, tỷ lệ an toàn vốn giúp đảm bảo tính an toàn của hệ thống. Hệ số an toàn vốn tối thiểu được xác định: vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro (Capital Adequacy Ratio - CAR) theo chuẩn quốc tế, nhìn chung cả hệ thống thì đều đạt mức 8%- theo hiệp ước Basel. Xu hướng chung trên thế giới là phải nâng hệ số này cao hơn nữa. Nhiều nước trong khu vực đã đạt 12% từ lâu và chưa dừng ở đây, còn ở các nước phát triển còn khuyến nghị cao hơn.
Những điều khoản bổ sung này giúp đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, ngân hàng. Các tổ chức tín dụng và ngân hàng thường có quan hệ vay mượn nhằm mục đích đầu tư, cho vay, mua bán các tài sản khác. . . Khi một tổ chức gặp khó khăn có thể gây ra hiệu ứng dây chuyền làm ảnh hưởng tới rất nhiều tổ chức khác từ đó lan ra cả nền kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới, các rào cản thương mại dần được gỡ bỏ, ngày càng có nhiều các tổ chức tín dụng cũng như ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động kinh doanh tại việt nam, trong một vài năm tới số lượng các ngân hàng này tăng một cách nhanh chóng.
Hơn nữa, thị trường tài chính ngân hàng trong thời gian tới sẽ có biến động lớn khi nhiều tổ chức tài chính đang xin cấp giấy phép hoạt động tại lãnh thổ Việt Nam. Thông tin hành lang từ Ngân hàng Nhà nước cho biết nơi đây đã nhận được hơn 40 bộ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập ngân hàng mới gồm các tổ chức đa dạng từ Tổng công ty Bia Hà Nội cho đến tỉnh Bình Dương, mà đa số chỉ xuất phát từ triển vọng là các ngân hàng nước ngoài đang tìm kiếm cơ hội “mua lại” một ngân hàng ở Việt Nam. Và hiện còn 12 bộ hồ sơ xin phép lập ngân hàng cổ phần trong nước còn nằm trên bàn NHNN. Ngoài ra sắp tới NHNN sẽ cấp phép cho sáu ngân hàng con 100% vốn nước ngoài. Trong khi đó giới tài chính quốc tế cho rằng các ngân hàng như Raiffeisen International (Úc), Ngân hàng ING (Hà Lan), Ngân hàng Barclays (Anh) và Bank of America (Mỹ) dù chưa có sự hiện diện đáng kể tại thị trường Việt Nam vẫn đang hướng tầm nhìn vào các ngân hàng trong nước. Do đó, những thay đổi kịp thời trong quy định về an toàn vốn không chỉ thể hiện tuân thủ theo hiệp ước quốc tế, mà còn tạo ra môi trường đảm bảo cho hoạt động của các TCTD.
Vai trò, thẩm quyền của ban kiểm soát.
Trên cơ sở khoản 2 điều 94 luật 1997, quyền hạn của ban kiểm soát được bổ sung thêm như sau:
Trích khoản 2, điều 148 luật 2010
“ Ban kiểm soát có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ quyền quản trị, điều hành, kiểm soát tổ chức tín dụng của thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ban kiểm soát, tổng giám đốc,phó tống giám đốc…”
“Kiến nghị ngân hàng nhà nước cho vay đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng, thanh lý, thu hồi giấp phép hoạt động của tổ chức tín dụng, tiếp quản, sát nhập, hợp nhất, mua lại bắt buộc tổ chức tín dụng.
Yêu cầu tổ chức tín dụng nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.”
Từ đó, ban kiểm soát được quy định có quyền đình chỉ một số chức vụ trong tổ chức tín dụng khi thấy cần thiết. Luật 2010 đã làm rõ hơn từng nhiệm vụ, công việc cụ thể. Mà chi tiết, ở luật 2010 ban kiểm soát có thêm quyền đình chỉ, tạm đình chỉ quyền quản trị của hội đồng thành viên, kiến nghị NHNN mua cổ phần của các TCTD, thu hồi giấy phép…Việc chi tiết hóa quyền hạn của Ban kiểm soát tạo nên tính chuyên môn hóa trong hoạt động kiểm soát, nâng cao hiệu quả cho quá trình kiểm soát.
Thẩm quyền của ngân hàng nhà nước với các TCTD được kiểm soát đặc biệt.
Sau khi tiếp nhận các kiến nghị từ ban kiểm soát thì ngân hàng nhà nước, ngân hàng nhà nước được tăng thêm một số quyền nhằm xử lý tốt các trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt. Cụ thể như sau:
Trích khoản 2 điều 149 luật các TCTD 2010
Ngân hàng nhà nước có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, nếu chủ sở hữu không có khả năng hoặc không thực hiện việc tăng vốn.
Trích khoản 3 điều 149 luật các TCTD 2010
Ngân hàng nhà nước có quyền trực tiếp hoặc chỉ định tổ chứ tín dụng khác góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt không có khả năng thực hiện yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khi Ngân hàng Nhà nước xác định số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng đã vượt quá giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất và việc chấm dứt hoạt động của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt có thể gây mất an toàn hệ thống tổ chức tín dụng.
Trong lịch sử, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ vừa qua, cục dự trữ liên bang Mỹ đã đưa ra gói cứu trợ đối với một số ngân hàng và các tổ chức tài chính. AIG hiện tại do chính phủ sở hữu 80% cổ phần, sau đợt cứu trợ vào thời điểm khủng hoảng đang đi vào giai đoạn tồi tệ nhất.
Việc giá trị tài sản tại các hãng này tăng sẽ củng cố thêm lập luận của ngân hàng trung ương Mỹ rằng công quỹ sẽ không mất tiền khi cho các công ty gặp khó khăn bởi cuộc khủng hoảng từ năm 2008 vay tiền. Đầu tư vào Bear Stearns tăng lên 29,4 tỷ đôla, trong khi khoản tiền đổ vào AIG tăng giá trị lên 39,7 tỷ đôla. Tổng mức đầu tư của Fed vào hai hãng này tăng thêm 2 tỷ đôla lên 69,1 tỷ đôla. Như vậy nhiều khả năng công quỹ sẽ được trả số tiền hàng chục tỷ đôla đã được tung ra để giúp các hãng tài chính khổng lồ khỏi phá sản. AIG hiện tại do chính phủ sở hữu 80% cổ phần sau đợt cứu trợ vào thời điểm khủng hoảng đang đi vào giai đoạn tồi tệ nhấtGói cứu trợ ngân hàng Mỹ tạo thêm lợi nhuận cho chính phủ, nguồn: Bloomberg
. Điều này chứng tỏ cho ta thấy, cục dự trữ liên bang khi ra gói cứu trợ điều nghiên cứu rất kĩ nên giúp tổ chức tài chính nào.
Với sự nhìn nhận kịp thời đó, các nhà dự thảo luật đã đưa vào nội dung này nhằm tạo nền tản để NHNN dễ dàng quản lý, ứng biến nhạy bén hơn khi TCTD rơi vào tình cảnh khó khăn, đảm bảo cho hệ thống TCTD hoạt động an toàn.
Ngoài ra, theo luật năm 1997 thì ngân hàng nhà nước giúp đỡ các tổ chức tín dụng trong trường hợp khó khăn thông qua hình thức cho vay thì trong luật 2010 đã xuất hiện thêm một số cách thức mới: Mua cổ phần của các tổ chức tín dụng. Đây là một hình thức cứu trợ các tổ chức tín dụng cũng như những ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng, gặp khó khăn về khả năng thanh khoản hay chi trả các khoản nợ đến hạn. Bằng việc mua cổ phiếu, nhà nước đã đầu tư một phần vốn vào tổ chức tín dụng, khi tổ chức này vượt qua giai đoạn khó khăn trước mắt và làm ăn có lãi thì ngân hàng nhà nước sẽ bán lại các cồ phần này cho tổ chức tín dụng và thu lại số tiền góp vốn ban đầu. Việc nên thanh lý, tiếp quản, sát nhập . . . được đề xuất bởi ban kiểm soát cho ta thấy vai trò của ban kiểm soát không chỉ thực hiện giám sát việc tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngân hàng mà còn như một ban tư vấn giúp ngân hàng nhà nước lựa chọn hình thức để giúp các tổ chức tín dụng vượt qua giai đoạn khó khăn một cách hợp lý và hiệu quả. Vì không ai nắm rõ tình hình của tổ chức đó bằng ban kiểm soát. Với những tổ chức có phương án kinh doanh hiệu quả, hay chỉ gặp khó khăn tạm thời do một sự cố ngoài ý muốn và khả năng hồi phục nhanh thì ban kiểm soát có thể tư vấn cho ngân hàng nhà nước cho họ vay, hay góp vốn cổ phần.
Với các tổ chức thua lỗ quá lớn, triển vọng phục hồi không cao và ảnh hưởng tới hệ thống tài chính trong nước nhỏ thì ban kiểm soát có thể đề nghị ngân hàng nhà nước không ra tay cứu trợ mà để tổ chức tuyên bố phá sản.
Tổ chức lại, phá sản, giải thể, thanh lý:
Điểm nổi bật nhất về sự khác nhau giữa luật 2010 và luật 1997, chính là quyền lợi của người gửi tiền.
Trong bối cảnh, ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam, để đảm bảo cho quyền lợi của người gửi tiền, tránh tình trạng khi xảy ra sự cố, các chi nhánh ngân hàng trong nước chuyển tiền qua tài khoản nước ngoài, người gửi tiền trong nước chịu thiệt hại, gây tâm lý hoang mang, mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng. Trong luật 2010, quy định:
Trích điều 157 luật các TCTD 2010
Trong trường cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, ngân hàng nhà nước phong tỏa một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng nhà nước quy định cụ thể các trường hợp phong tỏa, chấm dứt phong tỏa vốn và tài sản của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Việc NHNN phong tỏa vốn và tài sản của TCTD sẽ hạn chế việc các ngân hàng rút vốn khỏi thị trường sau khi phá sản, từ đó hạ thấp tối đa những thiệt hại cho người gửi tiền. Điều này chứng tỏ mức độ quan tâm của Nhà Nước đã trở nên sâu rộng hơn, không chỉ hỗ trợ các TCTD trong khó khăn, mà còn đảm bảo cho lợi ích của người gửi tiền.
LỜI KẾT
Qua việc phân tích những điểm mới, chỉnh sữa, bổ sung giữa luật tổ chức tín dụng 2010 với luật hiện hành ở trên, ta thấy rõ được định hướng mà nhà nước ta xây dựng một nền kinh tế mở, năng động, hội nhập với thời cuộc riêng hoạt động ngân hàng, luật có những thay đổi đáng kể phù hợp với thể chế chính trị và mô hình tổ chức cũng như hình thức quản trị quốc gia.
Những thay đổi tập trung ở các nội dung như : phạm vi điều chỉnh; các khải niệm cơ bản; quản trị, điều hành; những thay đổi chủ yếu liên quan đến hoạt động kinh doanh; các qui định về bảo dảm an toàn; điều khoản chuyển tiếp.
Theo đánh giá chung, những nội dung được chỉnh sửa này phù hợp với thực tế của đất nước, kể cả sự phát triển của các tổ chức tín dụng hiện tại và hướng đang phát triển trong tương lai. Chúng cũng phù hợp với thông lệ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết và thực hiện..
Tuy nhiên, qua một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, nhóm cũng xin được đưa ra một số đánh giá chủ quan về bộ Luật TCTD 2010 như sau:
Ưu điểm và nhược điểm:
Ưu điểm:
Khắc phục những bất cập của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành:
Nâng cao quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Luật các TCTD năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi tắt là Luật Các TCTD hiện hành) chưa quy định thật cụ thể và rõ ràng quyền chủ động kinh doanh, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD. Luật chưa quy định rõ phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, đặc biệt trong việc xác định loại nghiệp vụ được phép thực hiện.
Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực ngân hàng. Một số quy định của Luật các TCTD hiện hành chưa theo kịp so với công cuộc cải cách hành chính chung đang được thực hiện. Một số công việc chỉ cần giao cho Ngân hàng Nhà nước nhưng Luật lại giao cho Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, nên phát sinh nhiều đầu mối quản lý, làm chậm trễ quá trình hướng dẫn thực hiện Luật và việc xử lý các vấn đề phát sinh trên thực tiễn. Ngoài ra, thủ tục xin chấp thuận, chuẩn y các thay đổi của TCTD trong Luật các TCTD hiện hành mang tính hành chính, không cần thiết và làm tăng thêm chi phí cho các TCTD cũng cần được xem xét để thay đổi cho phù hợp.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Luật các TCTD hiện hành chưa tạo lập được cơ sở pháp lý để cụ thể hoá hoặc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, nên chưa khai thác được hết tiềm năng, nội lực của các TCTD. Các quy định của Luật các TCTD hiện hành chưa phân biệt phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, Do vậy, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình TCTD.
Các bất cập của Luật các TCTD hiện hành không chỉ làm hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát an toàn của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống TCTD. Việc soạn thảo và ban hành Luật các TCTD mới gắn với việc khắc phục bất cập của Luật hiện hành, đặc biệt là các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động và bảo đảm an toàn, tạo lập khung pháp lý hoàn chỉnh, minh bạch cho tổ chức và hoạt động của các TCTD là yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.
Đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập và xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại:
Một số quy định của Luật các TCTD hiện hành còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế như các quy định về an toàn vốn, dịch vụ ngân hàng được phép cung cấp… Do vậy, việc ban hành Luật các TCTD mới với mục tiêu thể chế hóa các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế vào trong Luật, phù hợp với điều kiện Việt Nam là rất cần thiết để tạo cơ sở pháp lý xây dựng hệ thống TCTD hiện đại, có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, cũng như cho việc giám sát an toàn trong hoạt động của các TCTD.
Đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các Luật khác:
Luật các TCTD năm 1997 thiếu các quy định cụ thể, đặc thù về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động của các TCTD, do vậy, trên thực tiễn đã phát sinh xung đột luật giữa các quy định hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước với các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật chứng khoán, Luật cạnh tranh, Luật hợp tác xã, Luật phá sản... Điều này đã ảnh hưởng lớn để hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với các TCTD. Do vậy, việc ban hành Luật các TCTD mới với các quy định cụ thể về tổ chức, quản trị điều hành và quy định rõ ràng về nguyên tắc áp dụng luật là yêu cầu cấp thiết.
Từ các lý do nêu trên, việc ban hành Luật các TCTD mới là cần thiết, không chỉ đáp ứng yêu cầu khách quan của nền kinh tế mà còn thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, đáp ứng nhu cầu hội nhập và tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động trên lĩnh vực ngân hàng.
Nhược điểm:
Dự thảo Luật được đưa ra từ năm 2009 và thông qua trong năm nay, với thời gian hơn một năm thì quả thật là quá ngắn đối với việc ban hành một Luật mới mà tầm quan trọng của nó rất lớn đối với nền kinh tế. Những hạn chế có thể nói đến như sau:
Hiện nay, một số ngân hàng ở nước ta đã phát triển mạnh theo từng lĩnh vực khác nhau (NH Á Châu ACB, Sài Gòn Thương Tín Sacombank, NH Đầu tư và phát triển BIDV, NH ngoại thương Vietcombank… và vấn đề đặt ra là sự ra đời của mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng. Thế nhưng, luật vẫn còn bỏ ngõ. Tại Việt Nam hiện nay, một số ý kiến cũng cho rằng đã có những thay đổi lớn, căn bản về cơ cấu kinh tế và môi trường kinh doanh, do đó sự ra đời của những tập đoàn tài chính - ngân hàng là tất yếu nhằm tăng năng lực cạnh tranh, đảm bảo quyền chi phối của Nhà nước thông qua các tập đoàn trong việc phát triển kinh tế.
Luật 2010 vẫn chưa đề cập đến “ngân hàng đầu tư”, bên cạnh đó Luật Chứng khoán năm 2006 quy định khá chi tiết về các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, tuy nhiên vẫn rất cần có một văn bản pháp lý chính thức ở cấp độ luật đề cập đến hoạt động ngân hàng đầu tư để có thể qui định rõ hơn những nghiệp vụ mà NHTM được trực tiếp thực hiện, và những nghiệp vụ bắt buộc thực hiện qua các công ty chứng khoán.
Đã gần 4 năm kể từ khi VN tham gia WTO, các quy định tổ chức tín dụng đang từng bước được hoàn thiện hơn để phù hợp với luật chơi của WTO. Thế nhưng, quá trình xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cũng như quá trình thực thi luật không thể tránh khỏi những bất cập, khó thi hành nhất là sau khi trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã mang lại cho ta nhiều bài học. Vì thế mà Luật phải thường xuyên được sửa đổi.
Hi vọng sự ra đời của luật tổ chức tín dụng 2010 cùng với những nội dung được chỉnh sửa sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tự chủ, năng động hơn trong kinh doanh và quản trị; tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước kiểm soát và quản lý, giám sát các hoạt động của các tổ chức tín dụng chặt hơn và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản luật:
Luật các TCTD năm 1997.
Luật các TCTD sửa đổi bổ sung năm 2004.
Luật các TCTD năm 2010.
TT 09/2010/TT-NHNN ngày 26-3-2010, quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần.
TT số 06/2010/TT-NHNN ngày 26-02-2010, hướng dẫn về tổ chức,quản trị,điều hành,vốn điều lệ,chuyển nhượng cổ phần,bổ sung,sửa đổi giấy phép,điều lệ của NH thương mại.
Sách báo, tạp chí:
Nguyễn Hương - Luật các TCTD 2010 và tác động đối với hoạt động của các ngân hàng – Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 19, tháng 10 năm 2010.
Dương Công Chiến- Luật Các Tổ chức Tín dụng 2010 với Công ty tài chính: Nới lỏng trong... an toàn – Thời Báo Ngân Hàng, số ra ngày 15/07/2010.
Các webside:
Bích Liên – Những thay đổi chủ yếu trong Luật các tổ chức tín dụng 2010 và sự cần thiết xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi.
V.Minh - Thống đốc NHNN công khai trả lời các vấn đề liên quan đến hai Luật Ngân hàng
Đoàn Thái Sơn - Sự cần thiết và yêu cầu đối với việc ban hành Luật các TCTD mới
Những điểm mới trong Luật Ngân hàng sửa đổi
Giấy phép hoạt động ngoại hối đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Minh Thúy - Siết quy định vốn điều lệ với các tổ chức tín dụng
Mạnh Hùng - Thanh Hà -Cần bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
Nhật Vy - Kenneth Lay: đoạn kết của huyền thoại Enron
Xuân Hòa - Mười hai vụ phá sản ngân hàng tồi tệ nhất lịch sử
Trần Phương Minh - Bài học kinh nghiệm từ Barings Bank
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lu7853t TCTD nhamp243m 3 T04.doc