Tiểu luận Tìm hiểu về cơ chế quản lý, điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay

Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của Chính phủ, cá nhân, doanh nghiệp, ngân hành cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Việt Nam trong hơn 10 năm đổi mới. Những chính sách lãi suất ngân hàng nhà nước (NHNN) sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới việc huy động vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp. Để tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đòi hỏi NHNN phải tiếp tục đổi mới hơn nữa cơ chế điều hành lãi suất. . Trong cơ chế thị trường, cùng với các nỗ lực kiềm chế lạm phát như cắt giảm chi tiêu và đầu tư, đẩy mạnh phong trào tiết kiệm . các động thái điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước với thị trường tiền tệ thông qua công cụ lãi suất rất đáng chú ý. Đặc biệt, cơ chế quản lý, điều hành lãi suất ở việt nam hiện nay đang được Đảng,Nhà nước, ngân hàng các doanh nghiệp và các cá nhân quan tâm hàng đầu. Qua tìm hiểu về thực tiễn quá trình điều hành lãi suất, những vấn đề thời sự nóng hổi cùng cơ sở những kiến thức đã học về lãi suất, nhóm sinh viên Tài Chính chúng em quyết định thực hiện và trình bày về đề tài "Tìm hiểu về cơ chế quản lý, điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay". Do được thực hiện trong thời gian ngắn nên có thể bài tiểu luận của nhóm sẽ không tránh khỏi những sai sót, chúng em rất mong cô giáo góp ý để hoàn thiện. Nhân đây, chúng em xin chân thành gửi lời cám ơn đến cô giáo Nguyễn Thị Hà Thanh đã giảng dạy và tạo điều kiện cho nhóm chúng em được thực hiện bài tiểu luận này.

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về cơ chế quản lý, điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yết định về lãi suất tái cấp vốn (9%/năm), lãi suất tái chiết khấu (7%/năm), lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng áp dụng từ ngày 5/11/2010. Tuy nhiên, khi nhìn nhận các cơ chế quản lí và điều hành lãi suất ở Việt Nam một cách khách quan thì trên thực tế các cơ chế này vẫn còn để lộ ra những hạn chế chưa khắc phục được bên cạnh những ưu điểm nó mang lại. Trong khuôn khổ bài tiểu luận, nhóm chúng em cũng xin mạnh dạn đưa ra 1 vài giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lí và điều hành lãi suất ở Việt Nam. Thứ nhất, chúng ta cần tiếp tục duy trì cơ chế điề hành lãi suất cơ bản kết hợp điều hành linh hoạt các mức lãi suất khác. Thứ hai, việc thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường là vô cùng quan trọng. Cuối cùng, một điều vô cùng quan trọng là làm cho lãi suất thị trường liên ngân hàng biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN. Nhưng để thực hiện được các cơ chế quản lý lãi suât như vậy, NHNN cần phải quản lý chặt chẽ hệ thống các tổ chức tín dụng thông qua những biện pháp hữu hiệu cụ thể. Trong thời gian tới đây, lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều được dự đoán sẽ tăng đáng kể. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam đòi hỏi phải có những bước tiến mới mạnh mẽ để hạn chế sự gia tăng đã được dự báo của lãi suất. PHẦN I: Khái quát chung về lãi suất Lãi suất 1.1. Một số khái niệm về lãi suất Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTW đặc biệt ở những nước đang phát triển. Vì vậy, có rất nhiều cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản về lãi suất như sau: Lãi suất là một phạm trù kinh tế khách quan, mang tính chất tổng hợp và đa dạng. Nó là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức phải trả trên tổng số vốn đi vay trong một thời gian nhất định (năm, quí, tháng, ngày v.v..). Lãi suất được biểu hiện dưới dạng số tuyệt đối, đó chính là lợi tức tín dụng. Như vậy lợi tức tín dụng là khoản tiền phải trả cho việc vay mượn quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTW mỗi nước. 1.2 Các loại lãi suất tín dụng a. Căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng - Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. - Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định một tỷ lệ mà người đi vay phải trả cho ngân hàng. Các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận của đối tượng và thời hạn cho vay. Tuy nhiên với ý nghĩa là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì nó còn tùy thuộc vào mục tiêu chính trị xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kì. => lãi suất cho vay = lãi suất huy động + chi phí tối thiểu + lợi nhuận kỳ vọng - Lãi suất chiết khấu là lãi suất áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay nợ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. - Lãi suất tái chiết khấu:là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng. - Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc cho vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ chính xác hơn về chi phí vốn vay của ngân hàng và cung cấp vốn trên thị trường. - Lãi suất cơ bản là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. b. Căn cứ vào giá trị của tiền lãi - Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ tức là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát. i= r + lạm phát - Lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh cho đúng theo sức mua của tiền tệ, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Theo Fisher, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng với mức lạm phát dự tính: - Lãi suất thực trả là lãi suất nhà đầu tư thực nhận từ việc cung ứng vốn vay c. Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất - Lãi suất cố định là lãi suất được cố định suốt trong thời kỳ cho vay. - Lãi suất thả nổi là lãi suất được thả nổi theo lãi suất thị trường trong thời hạn tín dụng. d. Căn cứ vào loại tiền cho vay - Lãi suất nội tệ là lãi suất cho vay và đi vay bằng nội tệ - Lãi suất ngoại tệ là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ 1.3 Vai trò của lãi suất - Ở tầm kinh tế vi mô, lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm, đầu tư số vốn tích lũy được vào danh mục đầu tư khác… Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, lãi suất là giá cả của vốn, do vậy thông qua lãi suất các ngân hàng thương mại sẽ tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng của mình mà kết quả cuối cùng là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư được lợi hơn vì sẽ được hưởng giá rẻ và chất lượng dịch vụ cao.  Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, hay nói cách khác, khi các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư có vốn, muốn đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải lấy lãi suất tín dụng trong nền kinh tế làm cơ sở và quyết định, ít nhất hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực khác để sinh lời phải có tỷ lệ lớn hơn hoặc cùng lắm phải bằng lãi suất tín dụng. - Ở tầm kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là một công cụ điều tiết nền kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả. Đó là đòn bẩy kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia: thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, nhà nuớc có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu, đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước. Lãi suất còn là công cụ để kiềm chế lạm phát rất hữu hiệu thông qua chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm điều hòa lượng tiền trong lưu thông, cân đối với khối lượng hàng hóa.  - Hơn thế nữa trong nhưng điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như lầ một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá. Điều này không những tác động trực tiếp đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn tác động đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài. 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất 2.1. Sự thay đổi của tổng cầu (viết tắt là GNP) Khi tổng cầu tăng lên, thì nền kinh tế đòi hỏi phải tăng khối lượng tiền cung ứng. Trong điều kiện: khối lượng tiền cung ứng (M1 hoặc M2) không thay đổi tức không có in tiền (nếu tốc độ lưu thông tiền tệ không thay đổi), lúc này cung vốn đầu tư nhỏ hơn cầu vốn đầu tư sẽ làm cho lãi suất tăng. Và ngược lại Khi tổng cầu giảm, nếu nhà nuớc chưa kịp có chính sách kích cầu thì trên thị thường tiền tệ cung tiền sẽ lớn hơn cầu tiền (cung vốn đầu tư lớn hơn cầu vốn đầu tư) sẽ làm cho lãi suất giảm. 2.2. Sự chi tiêu của Chính phủ Trên thực tế, khi cung cầu tiền tệ trên trị trường đang ổn định, vì mục tiêu đặt ra Chính phủ tăng hoặc giảm chỉ tiêu đột ngột sẽ làm cầu đầu tư trên thị trường tăng hoặc giảm theo và lãi suất trên thị thường sẽ bị tác động tăng hoặc giảm. 2.3 Chính sách tiền tệ của Nhà nước Như ta đã biết chính sách tiền tệ của Nhà nước ban hành là nhằm mục đích kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ, kiểm soát tình trạng lạm phát và các tác động đến lãi suất để thực hiện các mục tiêu đã định. 2.4. Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư Trong thực tiễn khi nhu cầu tiêu dùng tăng do thu nhập tăng, tiếc kiệm cao… thì kéo theo lãi suất tăng và ngược lại. Cũng giống như nhu cầu đầu tư, khi mà người dân đổ xô vào đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận thì cầu về khối lượng tiền, tài sản lớn dẫn đến lãi suất tăng. Khi nhu cầu tiêu dùng, đầu tư giảm thì lãi suất sất giảm xuống. 2.5 Các biện pháp và chính sách của nhà nước Nhóm các yếu tố này sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự hình thành lãi suất trên thị trường như chính sách tái chiết khấu, tái cấp vốn của NHNN, chính sách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD, chính sách lãi suất cơ bản với mục tiêu điều tiết lãi suất thị trường biến động trong một phạm vi cho phép ( lãi suất trần – lãi suất sàn ), sử dụng các công cụ thị trường mở hay ban hành hạn mức tín dụng đối với từng ngân hàng… 3. Tác động của lãi suất tới nền kinh tế 3.1 Thông qua vay nợ - Lãi suất tăng làm giảm vay nợ. Cá nhân giảm đi vay và tăng gửi tiết kiệm, do đó giảm tiêu dùng và tác động tiêu cực tới tổng cầu. - Doanh nghiệp giảm vay mới và do đó giảm đầu tư mới, nên tác động tiêu cực tới tổng cầu. Mặt khác, lãi suất tăng còn có nghĩa là giá cả các khoản vay hiện thời của doanh nghiệp tăng, có nghĩa là giá vốn tăng hay chi phí sản xuất tăng. Điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất; do đó tác động tiêu cực tới tổng cầu. Giãn thợ còn làm giảm thu nhập của người lao động. Điều này khiến họ giảm tiêu dùng. Tổng cầu lại chịu tác động tiêu cực. - Đối với hoạt động vay cầm cố, khi lãi suất tăng người ta sẽ giảm nhu cầu vay để xây hay mua nhà, do đó đầu tư xây nhà giảm, ảnh hưởng tiêu cực tới tổng cầu. Nó còn khiến cho việc trả nợ các khoản vay cầm cố hiện thời trở nên khó khăn hơn khiến người đi vay phải giảm tiêu dùng để còn trả nợ. Tổng cầu vì thế chịu tác động tiêu cực. Do đó tăng lãi suất có thể giúp nhà nước kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn và có tác dụng gần như tức thời. 3.2 Thông qua tỷ giá hối đoái - Lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất ở nước ngoài sẽ khiến cho dòng vốn từ nước ngoài tăng cường chảy vào trong nước. Điều này làm cho tỷ giá hối đoái giữa nội tệ với ngoại tệ giảm xuống. Xuất khẩu ròng vì thế giảm đi, khiến cho tổng cầu giảm theo. Và ngược lại khi lãi suất trong nước giảm tương đối sẽ làm cho tỷ giá hối đoái giữa nội tệ với ngoại tệ tăng lên, điều đó có lợi cho xuất khẩu. __________&&&&&&__________ PHẦN II: Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất hiện nay ở VN Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào cản mang tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng các quy luật vốn có của nó. Và một trong những lĩnh vực thể hiện rõ cơ chế này là chính sách điều hành lãi suất huy động vốn và cho vay của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). I/ Bối cảnh áp dụng các cơ chế lãi suất hiện nay Trước sự vận động bất lợi của thị trường kinh tế thế giới cũng như thị trường kinh tế trong nước được thể hiện thông qua mạch máu là thị trường chứng khoán cộng với tình trạng lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm 2008, nền kinh tế nước ta đã phải chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất. Tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB), lãi suất huy động điều chỉnh 3 lần chỉ trong vòng 10 ngày và tăng lên 12,5%/năm với kỳ hạn 1 tháng. Trong tháng 6-2008, lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại tiến gần tới trần lãi suất cho vay. Ngày 30-6-2008, Ngân hàng Kiên Long áp dụng lãi suất huy động tiền đồng cao kỷ lục là 20%/năm cho khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12 tháng. Hiệu lực không thật rõ ràng của các nghiệp vụ thị trường mở vào thời kỳ lạm phát gia tăng là tín hiệu sự tồn tại bẫy thanh khoản trong hệ thống tín dụng tại thời điểm đó. Vào thời điểm giữa tháng 3-2010, lãi suất cho vay dao động từ 17%-20%/năm. Có ý kiến cho rằng dường như một kịch bản của năm 2008 đã lặp lại. Tuy nhiên, với những điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước, cùng với động thái tích cực của lãi suất huy động vốn cận kề trung tuần tháng 4-2010, những thay đổi rõ nét hứa hẹn được diễn ra. Khảo sát nhanh ngày 16-4-2010 tại các ngân hàng thương mại ghi nhận mức lãi suất huy động phổ biến dao động từ 11,5%/năm đến 11,9%/năm. (Khảo sát do Hệ thống Phân tích Kinh tế Vebimo.com thực hiện) Theo thống kê số mới nhất của VnEconomy vào ngày 10/11, thì với đa số ngân hàng, lãi suất huy động VND hiện đang ở mốc tối đa 12%/năm. Tuy nhiên, với một số thành viên, trong những ngày qua là những thay đổi liên tục. Việc thực hiện đồng thuận giữa các hội viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) nhằm kêu gọi giảm lãi suất huy động và cho vay theo chủ trương của chính phủ với mức lãi suất huy động tiền đồng là 11%/ năm và mức lãi suất cho vay là 12%/ năm theo đó chưa thực sự ổn định và trong giai đoạn hiện nay khả năng tăng cao là rất lớn bởi sự hạn hẹp trong vốn huy động, sự kìm hãm trong cho vay thế chấp, hơn thế nữa là các ngân hàng thi đua nhau để đạt mức vốn điều lệ tiêu chuẩn 3000 tỷ VNĐ tạo nên sự khó khăn trong một số ngân hàng nhỏ lẻ về cung ứng vốn tín dụng cho khách hàng. Những ngày gần đây, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng biến động mạnh. Một tác động chính là từ quyết định tăng các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, nhưng cũng không loại trừ những trường hợp cần vốn phải chào vay lãi suất cao. Đặc biệt, trong các ngày 3, 4 và 5/11, lãi suất bình quân qua đêm đã vượt trên 11%/năm; trong ngày 5/11 đã ở 11,43%/năm. Lãi suất bình quân các kỳ hạn ngắn 1 và 2 tuần ngày 5/11 cũng đã chính thức vượt trên 12%/năm ở một số ngân hàng, lần lượt 12,25% và 12,46%/năm. Đại diện một ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất huy động VND trên 12%/năm cho biết: “Thực ra đồng thuận lãi suất chỉ là tương đối. Hiện vẫn có những trường hợp áp cao hơn 12%/năm, chỉ có điều là không thể hiện ở trên biểu niêm yết”. Mặt khác, việc áp cao hơn 12%/năm ở một số kỳ hạn tại đây có thể hiểu là để cạnh tranh, thay vì phải phát sinh các chương trình tặng thưởng, khuyến mại. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để giảm lãi suất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn giá rẻ để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng việc nới lỏng tiền tệ sẽ đồng nghĩa với đẩy cao tốc độ lạm phát. Khi các nhà lãnh đạo kinh tế vẫn còn do dự trong việc đưa ra quyết định trong việc phối hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, thì các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng vẫn phải tự xoay sở để tồn tại. Người ta hi vọng rằng, trong lâu dài, khi hiện tượng đô la hóa được khắc phục dần và các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể giăng mạng lưới thanh toán cho hầu hết các giao dịch của toàn nền kinh tế, một nguồn vốn khổng lồ sẽ tập trung vào hệ thống ngân hàng và mặt bằng lãi suất ngân hàng sẽ giảm thấp ngay cả khi chưa có một sự nới lỏng tiền tệ. Còn trước mắt, việc giải quyết bài toán về lãi suất vẫn còn là một câu hỏi nhức nhối cần thêm nhiều thời gian để có được lời giải hợp lý nhất. II/ Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất của Việt Nam hiện nay Đối với lãi suất cho vay hiện nay Giới thiệu chung Lãi suất cho vay là một yếu tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức kỳ vọng sinh lời của ngân hàng, rủi ro tín dụng của khoản vay và tỷ lệ an toàn vốn. Lãi suất cho vay được hiểu là giá của khoản vay và được hình thành chủ yếu do quan hệ cung – cầu vốn trên thị trường, mức độ rủi ro của khoản vay, chi phí quản lí kinh doanh và mức lợi nhuận dự kiến của Ngân Hàng Lãi suất cho vay đối với VNĐ thường được xác định theo tháng (30 ngày) còn lãi suất cho vay đối vs ngoại tệ thường dược xác định theo năm ( 360 ngày) Các yếu tố cấu thành lãi suất cho vay Lãi suất cho vay được tính toán theo công thức: Lãi suất cho vay = Chi phí vốn cho vay + mức lợi nhuận kỳ vọng Chi phí vốn cho vay = Chi phí huy động vốn + chi phí dự phòng rủi ro tín dụng + chi phí thanh khoản + chi phí hoạt động Tất cả các khoản vay phải được định giá ở mức có thể bù đủ tất cả các chi phí liên quan. Những yếu tố cấu thành trong việc xác định lãi suất cho vay bao gồm: Chi phí huy động vốn – Chi phí huy động vốn là chi phí huy động vốn bình quân (lãi phải trả) của tất cả các nguồn bao gồm tiền gửi tiết kiệm dân cư, tiền gửi công ty, … và vốn vay trên thị trường liên ngân hàng tính theo từng loại kỳ hạn. Chi phí hoạt động – Chi phí hoạt động bao gồm chi phí tiền lương, chi phí văn phòng, đào tạo, đi lại và các chi phí hoạt động khác. Ban Điều hành NHCV căn cứ vào dự toán chi phí hoạt động trong năm do Phòng Tài chính kế toán xây dựng để nghiên cứu và đưa ra tỷ lệ cần thiết đảm bảo bù đủ cho chi phí hoạt động tín dụng. Tỷ lệ chi phí được xác định mỗi năm một lần. Chí phí dự phòng rủi ro tín dụng - Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng do Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro ấn định. Khi tính điểm tín dụng khách hàng, Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro sẽ xác định mức trích dự phòng rủi ro (tính bằng tỷ lệ %) tương ứng với từng bậc điểm tín dụng. Chi phí thanh khoản – Chi phí vốn đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Chi phí vốn chủ sở hữu: là mức lợi nhuận ngân hàng kỳ vọng thu được trên vốn chủ sở hữu. Mức chênh lệch lãi suất tối thiểu có thể đảm bảo được mức lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng phải bằng tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng nhân với tỷ lệ an toàn vốn. Mục đích của cơ chế quản lí Để động viên, khuyến khích các đơn vị kinh tế và nhân dân gửi các khoản vốn tiền tệ nhàn rỗi vào Ngân hàng Nhà nước và hợp tác xã tín dụng; Để thúc đẩy việc tăng cường quản lý và sử dụng vốn theo nguyên tắc hạch toán kinh tế; Cơ chế lãi suất cho vay của NHNN Các giai đoạn áp dụng cơ chế quản lí điều hành lãi suất cho vay ở VN Đối với lãi suất cho vay, tính đến thời điểm này đã trải qua 06 giai đoạn chính sau: (i) Lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 – 01/7/1987) (ii) Áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày 01/7/1987– 01/01/1996) (iii) Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000) (iv) Lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002) (v) Lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008): (vi) Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 19/5/2008 đến nay ) Cơ chế quản lí lãi suất cho vay hiện nay Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính - tiền tệ thế giới có sự phát triển vượt bậc về quy mô và chiều sâu, cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương (NHTW) các nước thay đổi theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên, ở mỗi nước, NHTW căn cứ vào luật định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội, thị trường tài chính - tiền tệ, cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của chính sách tiền tệ (lạm phát hoặc đa mục tiêu) để áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp trong từng thời kỳ nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế.  Đối với nước ta, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn; từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản: - Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.  - Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) "Trần" là lãi suất tái cấp vốn, "sàn" là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 9% - 7%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc "bơm" tiền ra hoặc "hút" tiền về, từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.  Trên thực tế, NHNN đã và đang tích cực hỗ trợ thanh khoản thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ đối với ngân hàng thương mại với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây; chỉ đạo các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế; chỉ đạo các chi nhánh NHNN các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai kịp thời các chính sách, cơ chế tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, đồng thời thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và thanh tra hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Đồng thời, NHNN cũng chỉ đạo thực hiện các biện pháp phù hợp để các tổ chức tín dụng tập trung vốn phục vụ phát triển kinh tế địa phương, nhất là đáp ứng nhu cầu vốn chi phí sản xuất - kinh doanh của khu vực nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung ngoại tệ cho vay đối với những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được... Đặc biệt, điều hành lãi suất cho vay là một hoạt động vô cùng quan trọng trong lĩnh vực quản lý thị trường tài chính của Ngân hàng Nhà nước. Điều này được thể hiện rõ nét trong thời điểm vừa qua và cả hiện nay khi mà công tác điều hành lãi suất trong thời gian gần đây liên tiếp có những động thái tích cực mới: Ngày 26/2/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 07, chính thức quy định về việc cho phép các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay VND theo lãi suất thỏa thuận. Theo đó, các tổ chức tín dụng được cho vay VND theo lãi suất thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật về cho vay, trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay. Đối tượng cho vay là cá nhân bao gồm cho vay để sửa chữa nhà và mua nhà để ở mà nguồn trả nợ bằng tiền lương của khách hàng vay, cho vay mua phương tiện đi lại, chi phí học tập và chữa bệnh, mua đồ dùng và thiết bị gia đình, chi cho hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch; cho vay theo phương thức thấu chi tài khoản cá nhân; cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Điểm mới của Thông tư này là từ nay, các NHTM có thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần và nới rộng thời gian cho vay, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân, hộ gia đình của khách hàng vay. Điều này được các NHTM đánh giá cao, như là một biện pháp đột phá nhằm tháo gỡ vướng mắc về công tác cho vay trong thời điểm hiện tại. Ngay khi Thông tư 07 có hiệu lực, hầu hết các NHTM đã điều chỉnh tăng lãi suất các khoản vay trung và dài hạn theo đúng thực tế tình hình và đã không còn cảnh phải tìm mọi cách để thu các khoản phí hợp lý ngoài lãi suất như trước. Tiếp đó, ngày 9/4, Ngân hàng Nhà nước có Công văn số 2651/NHNN-CSTT yêu cầu các ngân hàng thương mại cung cấp mức lãi suất cho vay thỏa thuận bằng VND. Hầu hết các ngân hàng thương mại sẽ áp lãi suất cho vay VND theo cơ chế thỏa thuận tối đa dưới 15%/năm, cá biệt có trường hợp là 18%/năm. Đối với lãi suất huy động vốn a. Giới thiệu chung Trong bối cảnh lãi suất huy động tăng nhưng các tổ chức tín dụng chỉ được phép ấn định lãi suất kinh doanh (cho vay, huy động) bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Trong thời điểm hiện tại, khi mà thông tư 13 đi vào hiệu lực thì ngay lập tức hệ thống ngân hàng Việt Nam gặp vấn đề khó trong ngắn hạn về huy động vốn lớn từ hệ thống liên ngân hàng. Khi đó NHTM chỉ được huy động trên thị trường 2 tối đa 20% số vốn huy động thị trường 1 khiến các Ngân hàng buộc phải tăng huy động từ dân nếu muốn tăng vay trên thị trường 2, điều này làm cho các ngân hàng phải cạnh tranh gay gắt trong việc lấy thị phần và nguồn huy động từ các chi nhánh mới. Do đó hiện nay hầu hết các định chế tài chính đã nâng mức lãi suất huy động đến mức tối đa nhằm huy động nguồn vốn trên thị trường, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng huy động vốn tạo nên cuộc đua về mức lãi suất huy động trong thời gian gần đây. Các giai đoạn phát triển Đối với lãi suất huy động vốn, NHNN quy định thông qua các lần điều chỉnh sau: (i) Ấn định mức cố định từ ngày 01/10/1982 theo Nghị định 165/HĐBT ngày 23/9/1982; (ii) Khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là 0,35%/tháng còn mức cụ thể giao cho các NHTM tự quy định theo Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995; (iii) Đến ngày 28/6/1997, lãi suất huy động vốn đã thực sự tuân theo quy luật thị trường khi NHNN hoàn toàn trao quyền cho các NHTM quyết định để phù hợp với thời hạn của từng loại tiền gửi, địa bàn kinh doanh của từng tổ chức tín dụng; (iv) Hiện nay, ngày 16/5/2008, bằng Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN lãi suất huy động sẽ chính thức bị khống chế trong hạn mức không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định (trừ trường hợp cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định tại Thông tư số 01/2009/TT-NHNN ngày 23/01/2009). Cơ chế Lãi suất huy động vốn hiện nay Việc tạo trần lãi suất huy động dựa theo lãi suất cơ bản trong thời gian gần đây là một cơ chế thành công của ngân hàng nhà nước trong việc kiềm chế hành vi thái quá của một số các ngân hàng nhỏ lẻ, thiếu tính thanh khoản. Bởi nguyên nhân là tình hình thị trường tiền tệ của Việt Nam hiện nay chưa thực sự ổn định. Một số ngân hàng thương mại nhỏ vẫn sẵn sàng vi phạm các định chế pháp luật. Mặt khác, còn rất nhiều nhà băng nhỏ đang tìm cách lách luật trong việc sử dụng nguồn vốn huy động bổ sung vào vốn điều lệ để đáp ứng con số 3.000 tỷ đồng theo quy định của Nhà nước... Không chỉ thế, những ngân hàng nhỏ một mặt huy động vốn với lãi suất cao, tìm cách bổ sung vào vốn điều lệ, mặt khác để duy trì lợi nhuận buộc họ phải đẩy mạnh cho vay những dự án phiêu lưu mạo hiểm như bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng... với lãi suất cao 19%, thậm chí 20%. Rủi ro mất trắng rất cao và nguy cơ phá sản sẽ khó tránh khỏi. Trong tình trạng lạm phát không thể khống chế thành công tại mức 8% trong năm 2010. Nhằm tạo ra môi trường vĩ mô ổn định, tránh tình trạng bong bóng tiền trôi nổi nhiều trong nền kinh tế, hạn chế thấp nhất tình trạng mất không tài sản của đại đa số người dân do lạm phát cướp đi, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài cùng công nghệ của họ, tạo niềm tin trở lại với VNĐ ngày 5/11/2010 NHNH đã ra quyết định mới về tăng lãi suất cơ bản, tạo ta khung pháp lý giúp các ngân hàng hoạch định được lãi suất huy động theo khuôn khổ pháp lí. Theo đó: Bắt đầu từ ngày 05/11, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/năm theo Quyết định số 2619/QĐ-NHNN ngày 05/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quyết định này thay thế Quyết định số 2561/QĐ-NHNN ngày 27/10/2010 về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Cùng ngày, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành Quyết định số 2620/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng áp dụng từ ngày 5/11/2010. Quyết định này thay thế Quyết định số 2664/QĐ-NHNN ngày 25/11/2009 cũng của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Quyết định mới có hiệu lực thi hành từ ngày 05/11/2010 với các quy định sau: -      Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 9%/năm; -      Lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 7%/năm; -      Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 9%/năm. Hơn thế nữa tại cuộc họp giữa Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, lãnh đạo nhiều ngân hàng lớn và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cùng ngày đã đồng thuận nâng mức trần lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam từ 11%/năm hiện hành lên 12%/năm và bắt đầu áp dụng từ ngày 8/11/2010. III/ Đánh giá tác động của cơ chế điều hành, quản lý lãi suất hiện nay 1. Lãi suất huy động dựa theo lãi suất cơ bản * Tích cực - Việc quy định lãi suất cơ bản dựa vào đó các TCTD đưa ra mức lãi suất huy động không vượt quá 150% lãi suất cơ bản có tác dụng ngăn chặn cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động lên quá cao giữa các ngân hàng, tránh nguy cơ các ngân hàng liên tục tăng lãi suất cho vay. Từ đó giảm gánh nặng đối với lên các doanh nghiệp vay vốn. Trước khi Thông tư 12/2010 của NHNN được đưa ra, lãi suất cho vay bị giới hạn bởi trần 150% lãi suất cơ bản nên để ngân hàng kinh doanh có lãi, lãi suất huy động không bao giờ vượt quá mức này. Tuy nhiên hiện nay lãi suất cho vay đã được thỏa thuận gây ra nguy cơ chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng mặc dù Hiệp hội ngân hàng có đồng thuận một mức lãi suất huy động nhất định cho các thành viên. Ví dụ, ngày 5 tháng 11 năm 2010 NHNN tăng lãi suất cơ bản lên 9%/năm. Sau đó Hiệp hội ngân hàng Việt Nam đã đưa ra mức lãi suất đồng thuận giữa các thành viên là 12%/năm. Nhưng đến ngày 11 tháng 11, SeaBank đã nâng lãi suất huy động lên 13% và một loạt các ngân hàng thông báo sẽ tăng lãi suất trong thời gian tới. Nếu không có lãi suất cơ bản, các ngân hàng sẽ đồng loạt tăng mức lãi suất lên cao để cạnh tranh thu hút vốn. Để đảm bảo có lợi nhuận trong khi phải trả mức lãi suất huy động cao như vậy, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp. Với chi phí lãi vay cao, các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí lãi vay cao cũng góp phần đẩy giá thành các hàng hóa dịch vụ tăng lên, gây áp lực lên lạm phát trong trung và dài hạn. Khi lãi suất huy động của các ngân hàng bị khống chế bởi lãi suất cơ bản, các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh với nhau bằng chất lượng dịch vụ. Và người gửi tiết kiệm sẽ được hưởng lợi. - Cơ chế điều hành lãi suất huy động dựa theo lãi suất cơ bản được sử dụng như một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn. Tác động của công cụ lãi suất cơ bản thường rất nhanh và mạnh đối với toàn bộ nền kinh tế. Ví dụ, những tháng quý III/2010, vấn đề lạm phát và tỷ giá là hai vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế. Để kiềm chế lạm phát và ngăn chặn nguy cơ VNĐ mất giá thêm nữa, ngày 5 tháng 11 năm 2010, NHNN đã tăng lãi suất cơ bản thêm 1%. Sau khi NHNN đưa ra quyết định này, các NHTM đồng loạt tăng lãi suất huy động. Một lượng tiền đồng lớn sẽ được hút vào tiết kiệm, lượng tiền dành cho đầu tư giảm, qua đó giảm áp lực lạm phát. Chênh lệch lãi suất huy động giữa VNĐ và đô la được nới rộng cũng góp phần giảm tâm lý ưa thích đô la, tạo sự hấp dẫn hơn đối với việc gửi tiết kiệm bằng VNĐ, góp phần ổn định tỷ giá. Ngay sau khi quyết định tăng lãi suất cơ bản của NHNN được đưa ra, trong ngày thứ 6 (5/11/2010) tỷ giá đã giảm mạnh từ gần 21.000 VNĐ/ đô la Mỹ xuống còn 20.300 VNĐ/ đô la Mỹ. * Hạn chế - Tuy nhiên trên thực tế, khống chế lãi suất huy động thông qua lãi suất cơ bản không phản ánh sát thực quan hệ giá vốn trên thị trường dẫn đến việc nhiều NHTM đã lách quy định lãi suất huy động không vượt quá 150% lãi suất cơ bản bằng cách trả thêm lãi suất thông qua nhiều chương trình khuyến mại và các thỏa thuận riêng với các khách hàng. Có thể kể đến một loạt các chương trình tặng vàng, tặng thưởng theo số dư hay bốc thăm trúng thưởng mà các ngân hàng đưa ra. Nhiều ngân hàng phải niêm yết lãi suất huy động chung bằng mức lãi suất trần cho mọi kỳ hạn, dẫn tới việc lãi suất huy động trung và dài hạn bằng lãi suất huy động ngắn hạn. Đường lãi suất vốn phải có dạng đường theo cho cấu trúc kỳ hạn của lãi suất thì nay bị biến thành đường thẳng. Vì thế người gửi tiền có xu hướng chuyển từ gửi tiền trung và dài hạn sang hình thức gửi tiền ngắn hạn một phần bởi diễn biến giá cả khó ước tính nhưng cũng bởi mức lãi suất đã bị san phẳng giữa các thời hạn. Cơ cấu vốn huy động vì thế cũng chuyển dịch theo hướng tập trung vào ngắn hạn trong khi hoạt động cho vay lại theo yêu cầu và chu kỳ sản xuất kinh doanh, đặc biệt là hoạt động đầu tư máy móc thiết bị lại thường là trung và dài hạn. Ngoài ra, việc sử dụng tiền vay ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn được quy định không vượt quá 40%. Điều này đã gây mất an toàn cho các ngân hàng và việc tận dụng nguồn vốn để cho vay. 2. Lãi suất cho vay thỏa thuận * Tích cực - Việc ban hành cơ chế lãi suất thỏa thuận nhằm đảm bảo ổn định hoạt động của thị trường tiền tệ; đáp ứng tăng vốn cho các nhu cầu hợp lý, chính đáng của nền kinh tế. Cơ chế mới này cũng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng và giảm mặt bằng lãi suất. Điều phấn khởi là khi đưa ra thảo luận, cơ chế lãi suất thỏa thuận nhận được sự đồng thuận rất cao từ các ngân hàng thương mại. Dự kiến khung lãi suất thỏa thuận của hầu hết các ngân hàng cho các khoản vay ngắn hạn với lãi suất dưới 14%/năm. Một vài ngân hàng cho vay ở mức 14,5%/năm nhưng sau đó sẽ xem xét lại. - Cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận cho phép các ngân hàng thỏa thuận với các khách hàng của mình về chi phí đi vay dựa trên đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mức độ rủi ro của khách hàng. Đối với các ngân hàng, lãi suất cho vay được điều chỉnh trên cơ sở bối cảnh thị trường để hoạt động kinh doanh có lợi nhuận, tránh được khó khăn khi mặt bằng lãi suất huy động cao nhưng lãi suất cho vay lại bị khống chế bởi lãi suất cơ bản. - Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có độ rủi ro cao hơn các doanh nghiệp khác. Để đồng ý cho các doanh nghiệp này vay vốn, các NHTM phải yêu cầu mức lãi suất cho vay cao hơn. Tuy nhiên trước kia mức lãi suất cho vay cao lại vướng phải quy định về trần lãi suất. Vì vậy mà nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn vay vốn lại không thể vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Có thể nói cơ chế lãi suất thỏa thuận đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có muốn vay vốn được đáp ứng nhu cầu này. - Tăng tính cạnh tranh cho vay giữa các ngân hàng, nâng hiệu quả cho vay, hiệu quả sử dụng vốn vay. Bất cứ cuộc cạnh tranh nào về giá cũng dẫn đến việc có lợi cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc tìm nguồn vốn phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình. * Hạn chế - Mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự: Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự vẫn quy định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng”. Nếu căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của bộ luật này thì trần lãi suất cho vay vẫn còn hiệu lực. Sự mâu thuẫn này dẫn đến việc bất cứ khách hàng nào cũng có thể kiện các NHTM về việc vi phạm Khoản 1 Điều 476 Bộ luật Dân sự. Trong khi theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật, quy định của NHNN không thể nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự. - Để kiềm chế lạm phát đang có xu hướng tăng cao, lãi suất huy động và cho vay cũng sẽ phải cao hơn mức bình thường. Khi lãi suất cho vay được thỏa thuận giữa các ngân hàng với khách hàng, mặt bằng lãi suất cho vay sẽ bị đẩy lên. Chỉ có doanh nghiệp nào có khả năng, có phương án, dự án sản xuất kinh doanh, có trình độ khoa học công nghệ tốt, có khả năng xử lý đầu ra thì lúc đó mới có khả năng chịu được áp lực chi phí vốn vay cao. Còn lại các doanh nghiệp khác, chịu tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ gặp khó khăn lớn khi chi phí đầu vào liên tục tăng và việc tiêu thụ đầu ra chưa có nhiều chuyển biến. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán thì kênh huy động vốn chủ yếu vẫn dựa vào việc vay ngân hàng. Xu hướng lãi suất cho vay tăng cao sẽ khiến các doanh nghiệp khó tìm được nguồn vốn phù hợp để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó ảnh hưởng tới sự tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. - Phát sinh một số tiêu cực trong việc thỏa thuận lãi suất giữa TCTD và doanh nghiệp. Theo quy định về lãi suất thỏa thuận, mỗi doanh nghiệp đi vay sẽ chịu một mức lãi suất khác nhau. Những doanh nghiệp có mối quan hệ thân thiết và sử dụng các hình thức vận động không minh bạch đối với các TCTD sẽ được vay với lãi suất thấp, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải chịu chi phí đi vay cao gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra, với cơ chế lãi suất thỏa thuận, các ngân hàng dễ dàng đồng ý cho vay với các khách hàng 3. Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn - Đáng lẽ công cụ tái chiết khấu và tái cấp vốn phải là công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ nhưng cho đến nay các công cụ này vốn chưa phát huy tác dụng thực sự trong việc điều tiết hệ thống tiền tệ bởi thực trạng thị trường Trái phiếu và các giấy tờ có giá của Việt Nam chưa phát triển. Ngoài ra, các TCTD còn mang tâm lý e ngại khi vay của NHNN. __________&&&&&&__________ PHẦN III: Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách lãi suất & xu hướng biến động lãi suất tại Việt Nam hiện nay. 1. Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành và quản lý chính sách lãi suất Theo điều 8 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 nhà nước cho phép người dân được dự trữ ngoại hối. Hơn nữa, chính phủ cam kết sẽ không kết hối ngoại tệ đồng nghĩa với việc “Đô la hóa” là hợp pháp ở Việt Nam. Đây chính là yếu tố tạo điều kiện cho tình trạng “Đô la hóa” trong nền kinh tế, và luật pháp không thể nào cấm hành vi tìm kiếm sinh lợi của ai đó khi họ nắm giữ ngoại tệ, kể cả khi hành vi đó gây bất ổn cho thị trường. Trước thực trạng gần đây giá vàng và USD leo thang chóng mặt thì nhà nước đã và đang quản lý điều hành chính sách lãi suất như thế nào cho phù hợp với các chính sách khác như chính sách tỷ giá, thuế xuất khẩu vàng …để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã đề ra là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát… Đó là câu hỏi mà hầu hết mọi người đều đang rất quan tâm hiện nay. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của NHNN về cơ chế điều hành lãi suất hiện nay là: - Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời, tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. - Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) "Trần" là lãi suất tái cấp vốn, "sàn" là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 9% - 7%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc "bơm" tiền ra hoặc "hút" tiền về, từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM. Đối với lãi suất huy động thì trong thời gian tới, Ngân hàng Trung ương cần tiếp tục điều chỉnh mức trần theo tín hiệu của thị trường và mức độ kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Cần lưu ý là trần huy động sẽ không duy trì mãi mà sẽ được dỡ bỏ khi các ngân hàng thương mại đã được cũng cố, có dấu hiệu hoạt động lành mạnh, cạnh tranh công bằng, đúng theo quy định của pháp luật. Các ngân hàng đã đáp ứng đúng nguồn vốn điều lệ trên 3.000 tỷ đồng Thông qua đó NHNN: - Ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM, nhất là đối với NHTMCP quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao. - Làm cho lãi suất thị trường liên ngân hàng biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN; lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Qua đó làm tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. - Điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là "thắt chặt" hay "nới lỏng" tiền tệ. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Nhưng để thực hiện được các cơ chế quản lý lãi suât như vậy đòi hỏi NHNN cần phải quản lý chặt chẽ hệ thống các tổ chức tín dụng bằng việc: - Đảm bảo nắm bắt, phân tích, đánh giá kịp thời diễn biến của thị trường tài chính, trong đó, nắm bắt nhanh những diễn biến của các yếu tố thị trường như: lãi suất, tỷ giá, giá vàng, giá cổ phiếu,.. dự báo diễn biến tình hình kinh tế có tác động liên quan đến ngân hàng nhằm phục vụ hiệu quả cho hoạt động quản lý của NHNN. Tổ chức và triển khai kịp thời cơ chế chính sách của NHNN theo chương trình kế hoạch cụ thể đối với các TCTD trên địa bàn, đảm bảo thực hiện tốt cơ chế chính sách và hạn chế các rủi ro liên quan đến pháp luật phát sinh. - Cần tập trung thanh tra, giám sát chặt chẽ hoạt động cho vay bất động sản, tín dụng tiêu dùng, cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, đầu tư tránh tình trạng các tổ chức tín dụng huy động và cho vay với mức lãi suất không hợp lý. Vì một mặt NH có thể đồng thuận mức LS huy động theo đúng cam kết nhưng mặt khác lại tự do khuyến mãi, cộng LS thưởng, tặng tiền... gây xáo trộn thị trường. NH nào tuân thủ đúng cam kết thì bị mất khách hàng. Do đó dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các NH - NHNN cần hình thành cơ chế điều hành lãi suất, cùng với nghiệp vụ thị trường mở theo hướng khuyến khích các NHTM vay mượn lẫn nhau trên thị trường trước khi tiếp cận nguồn vốn NHNN, chứ không phải là nhận tiền gửi của nhau để thanh toán hộ. Từ đó làm gia tăng tính thanh khoản cho thị trường liên ngân hàng, giúp các ngân hàng tiếp cận nhanh chóng với nguồn vốn giá rẻ mà không gây áp lực lớn cho ngân hàng nhà nước. Ví dụ như ngày 10-11 khách hàng đến ngân hàng và ra giá đến 13,5-14%/năm, NH đành để khách hàng ra đi, dẫn tới khó khăn trong huy động vốn. Nhưng đau đầu nhất với ngân hàng thời điểm này là những khoản tiền gửi lớn từ NH bạn, thường từ 50-100 tỉ đồng, nay đáo hạn các NH này đều rút về để đảm bảo thanh khoản. - Cần phải có những chế tài xử phạt đối với các TCTD không thực hiện chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định, đồng thời theo dõi tỷ lệ nợ quá hạn của các TCTD để được phản ánh đầy đủ, chính xác chất lượng tín dụng của TCTD. Tránh tình trạng đổ vỡ của TCTD làm sụp đổ hệ thống liên ngân hàng thông qua việc bị phá sản hoặc huy động tiền gửi với mức lãi suất cao – cạnh tranh không lành mạnh giữa các TCTD. - Chỉ đạo việc sáp nhập các ngân hàng có năng lực tài chính yếu, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, tạo niềm tin cho người dân đối với hệ thống ngân hàng trong nước 2. Xu hướng biến động lãi suất hiện nay Trong giai đoạn hiện nay thì kinh tế vĩ mô chưa được ổn định do lạm phát đang có xu hướng tăng cao, tâm lý nhà đầu tư còn nhiều bất ổn lo sợ kinh tế toàn cầu cũng như trong nước chưa hoàn toàn thoát khỏi suy thoái, liên tiếp trong thời gian này VND mất giá liên tục so với giỏ ngoại tệ ( đặc biệt với USD ). Cùng với đó là cam kết của chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì lạm phát năm 2010 ở mức 1 con số, bơm thêm ngoại tệ nhằm ổn định thị trường tỷ giá hối đoái, thông tư 13 quy định tỷ lệ an toàn tối thiếu của các tổ chức tín dụng… đã gây áp lực lớn lên lãi suất VND, và USD. Theo như diễn biến mới nhất trong chính sách lãi suất thì NHNN đã tăng lãi suất cơ bản lên 9% ngày 5/11/2010 làm cho chi phí huy động của các tổ chức tín dụng ngày càng cao. Do đó từ giờ đến cuối năm lãi suất sẽ có xu hướng tăng cả về huy động và cho vay ( VND, USD ) bởi một số nguyên nhân cơ bản sau : Các TCTD gặp khó khăn về nguồn vốn, trong đó quy định TCTD không được vay trên thị trường liên ngân hàng quá 20% vốn huy động từ dân cư và doanh nghiệp và Thông tư số 13 thắt chặt các quy định an toàn. Thực tế yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam, trong đó nguyên nhân trực tiếp và nổi bật là do cơ chế lãi suất thỏa thuận đã cho phép các TCTD có quyền điều chỉnh lãi suất cho vay tùy theo tình hình thị trường và nhiều TCTD đã điều chỉnh tăng lãi suất theo định kỳ, nhưng người vay phải chấp nhận vô điều kiện, điển hình là đối với cho vay tiêu dùng với lãi suất trung dài hạn khoảng 17%/năm. Giá vàng, tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD tăng cao và lo ngại về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sẽ tăng cao trong những tháng cuối năm cũng là những yếu tố khiến cho việc giảm lãi suất huy động của các TCTD gặp khó khăn. TCTD cần phải cạnh tranh mạnh mẽ hơn để thu hút dòng tiền đang dần chảy vào các kênh an toàn, do đó phải huy động với mức lãi suất cao. Việc thu thập, xử lý và công bố các thông tin về thị trường, nhất là thị trường tiền tệ còn rất thủ công, chưa dựa trên một phần mềm xử lý cơ sở dữ liệu lịch sử giúp dễ dàng trích xuất đồ thị theo chuỗi thời gian. Các TCTD vẫn chưa có được hệ thống quản lý vốn hoàn chỉnh tại hội sở chính để làm cơ sở tính toán cho các giao dịch trên thị trường, gây khó khăn cho việc đánh giá phân tích tình hình thị trường, ảnh hưởng xấu đến chất lượng hoạt động của các thành viên thị trường và hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Vì vậy chi phí đầu vào vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Về ngoại tệ, dịp cuối năm là lúc mà hoạt động nhập khẩu hàng hóa tăng mạnh, là thời điểm mà hầu hết các khoản nợ bằng ngoại tệ đến dịp thanh toán làm cho cầu về ngoại tệ tăng mạnh. Chính điều này làm tăng áp lực lãi suất huy động ngoại tệ lên các TCTD nhằm có được khối lượng ngoại tệ đủ lớn cân bằng với nhu cầu đang ngày càng gia tăng. Qua đây chúng ta có thể nhận thấy khó hạ mặt bằng lãi suất trong bối cảnh thị trường tài chính Việt Nam còn nhiều bất cập, các thị trường bộ phận và thành viên thị trường còn bị phân khúc, phát triển không đồng đều. Vẫn còn tình trạng các TCTD ưu tiên cho vay, hoặc gửi tiền trong nhóm với nhau, làm mất đi tính thanh khoản cho thị trường liên ngân hàng. Nhìn chung cơ chế quản lý và điều hành lãi suất tại nước ta là hợp lý nhưng chọn điểm rơi của các chính sách là thực sự chưa hiệu quả, nhiều khi còn phản tác dụng làm méo mó, lệch lạc quan điểm của chính sách. Về mặt dài hạn cơ chế điều hành và quản lý hiện nay cùng với việc ban hành các thông tư, nghị định là có lợi cho một nước cần ổn định kinh tế vĩ mô nhằm thu hút đầu tư như nước ta nhưng làm thế nào chọn được thời điểm ban hành còn là một vấn đề khó khăn đối với các nhà hoạch định chính sách. Vì thế, việc cần quan tâm bây giờ là tập trung vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam, trước mắt là sự phối hợp hiệu quả giữa NHNN và Bộ Tài chính trong việc quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh của các NHTM trong hoạt động huy động vốn và đầu tư, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng, đầu tư không hiệu quả gây thất thoát vốn, mất khả năng thanh khoản do việc cho vay quá nhiều vào một lĩnh vực nhằm chạy đua theo lợi nhuận như ngành BĐS, tạo ra bong bóng BĐS gây nguy cơ tan vỡ nền kinh tế theo hiệu ứng Domino. Từ đó mới hi vọng được trong thời gian tới môi trường kinh doanh ngân hàng được công bằng, trả lại cho ngân hàng cơ chế lãi suất theo cung cầu thị trường, tăng vai trò của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở OMO như “ tính linh hoạt cũng như khối lượng tiền bơm vào rút ra ’’ khi đó lãi suất mới có thể giảm được. KẾT LUẬN Nhiều năm gần đây, cùng với sự phát triển của Thế giới ,Việt nam đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu to lớn đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Trong sự phát triển đó , NHTW đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế , điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế , chống lạm phát , thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế thị trường . Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất .  Trong từng thời kỳ nhất định , việc tìm ra và thi hành một chính sách lãi suất phù hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò quyết định thuộc về ngân hàng nhà nước . Cùng với sự thay đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế , chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương cũng thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với  các tình hình mới của nền kinh tế , tạo điều kiện cho phát triển cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế khá Nội dung đề tài ngoài phần lý thuyết về lãi suất còn có những phân tích về cơ chế lãi suất của Việt Nam cùng những giải pháp và xu hướng để hoàn thiện hệ thống lãi suất của nước ta hiện nay. Qua việc thực hiện đề tài đã giúp nhóm thực hiện hệ thống lại toàn bộ các kiến thức đã học và hiểu được cơ chế điều hành và quản lý lãi suất trong những giai đoạn trước và hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tiện Tệ - Ngân hàng của Phó GS-tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến/ NXB Thống kê Các văn bản luật Nghị định 165/HĐBT ngày 23/9/1982; Quyết định số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995; Thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày 26/2/2010 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN Quyết định số 2619/QĐ-NHNN ngày 05/11/2010 Một số website khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN7897i dung ti7875u lu7853n Nhm 1.doc
Tài liệu liên quan