Tiểu luận Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1. QUAN ĐIỂM MACXIT VỀ TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG. C.Mác khẳng định con người sáng tạo ra tín ngưỡng, tôn giáo chứ không phải chỉ sáng tạo ra biểu tượng của tín ngưỡng tôn giáo. Như các nhà duy vật trước Mác đã thừa nhận, tín ngưỡng tôn giáo về bản chất là sản phẩm của con người sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hoá cụ thể nào đó. Tín ngưỡng tôn giáo thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Chính con người đã thần thánh hoá, khoác cho thần thành những sức mạnh siêu nhiên. Vì vậy Mác cho rằng, cần phải xuất phát từ con người tỏng hành động hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng của quá trình ấy [33, 37-38]. VI.Lênin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nẩy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm: Nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức, và nguồn gốc tâm lý. 1.1. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo: Tôn giáo học Macxit cho rằng sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Như chúng ta biết, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được thực hiện và thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con người có. Những phương tiện công cụ kém phát triển bao nhiều thì con người càng yếu đuối bấy nhiêu trước tự nhiên, và những lực lượng tự nhiên càng thống trị con người bấy nhiêu. Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo, mà là mối quan hệ đặc thù của con người với giới tự nhiên, do trình dodọ sản xuất quy định. Đây chính là nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo bao hàm cả mối quan hệ con người với con người, trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp cùng chế dodọ người bóc lột người. Khi nêu lên đặc trưng của nguồn gốc xã hội của tôn giáo trong xã hội tư bản, V.I.Lênin viết “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó, là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản, tiểu chủ cũng đe doạ đem lại cho họ sự phá sản đột ngột bất ngờ, ngẫu nhiên, làm cho họ phải diệt vong biến họ thành người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói. Đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại mà người duy vật phải chú ý tới trước hết và trên hết nếu người ấy không muốn là một người duy vật sơ đẳng”. [19.515-516]. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột người là một nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Người nô lệ, người nông dân, người vô sản mất tự do không phải chỉ là sự tác dodọng của lực lượng xã hội mù quáng mà họ không thể kiểm soát dưdợc, mà họ còn bị bần cùng cả về mặt kinh tế, áp bức về chính trị, bị tước đoạt những phương tiện và khả năng phát triển tinh thanà. Quần chúng bị áp bức không thể tìm ra lối thoát hiện thực của ách áp bức trên trái đất, nưhng họ đã tìm ra lối thoát ở trên trời, ở thế giới bên kia. Tôn giáo, VI.Lênin viết “là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải suốt đời lao động cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô dodọc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra niềm tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu .” [18. 169-170]. Luận văn chia làm 3 chương

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 15539 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 1. QUAN ĐIỂM MACXIT VỀ TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG. C.Mác khẳng định con người sáng tạo ra tín ngưỡng, tôn giáo chứ không phải chỉ sáng tạo ra biểu tượng của tín ngưỡng tôn giáo. Như các nhà duy vật trước Mác đã thừa nhận, tín ngưỡng tôn giáo về bản chất là sản phẩm của con người sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hoá cụ thể nào đó. Tín ngưỡng tôn giáo thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Chính con người đã thần thánh hoá, khoác cho thần thành những sức mạnh siêu nhiên. Vì vậy Mác cho rằng, cần phải xuất phát từ con người tỏng hành động hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng của quá trình ấy [33, 37-38]. VI.Lênin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nẩy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm: Nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức, và nguồn gốc tâm lý. 1.1. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo: Tôn giáo học Macxit cho rằng sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Như chúng ta biết, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được thực hiện và thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con người có. Những phương tiện công cụ kém phát triển bao nhiều thì con người càng yếu đuối bấy nhiêu trước tự nhiên, và những lực lượng tự nhiên càng thống trị con người bấy nhiêu. Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra tôn giáo, mà là mối quan hệ đặc thù của con người với giới tự nhiên, do trình dodọ sản xuất quy định. Đây chính là nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo bao hàm cả mối quan hệ con người với con người, trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định là tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp cùng chế dodọ người bóc lột người. Khi nêu lên đặc trưng của nguồn gốc xã hội của tôn giáo trong xã hội tư bản, V.I.Lênin viết “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó, là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản, tiểu chủ cũng đe doạ đem lại cho họ sự phá sản đột ngột bất ngờ, ngẫu nhiên, làm cho họ phải diệt vong biến họ thành người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói. Đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại mà người duy vật phải chú ý tới trước hết và trên hết nếu người ấy không muốn là một người duy vật sơ đẳng”. [19.515-516]. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột người là một nhân tố quan trọng làm nảy sinh tôn giáo. Người nô lệ, người nông dân, người vô sản mất tự do không phải chỉ là sự tác dodọng của lực lượng xã hội mù quáng mà họ không thể kiểm soát dưdợc, mà họ còn bị bần cùng cả về mặt kinh tế, áp bức về chính trị, bị tước đoạt những phương tiện và khả năng phát triển tinh thanà. Quần chúng bị áp bức không thể tìm ra lối thoát hiện thực của ách áp bức trên trái đất, nưhng họ đã tìm ra lối thoát ở trên trời, ở thế giới bên kia. Tôn giáo, VI.Lênin viết “là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải suốt đời lao động cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô dodọc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra niềm tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu...” [18. 169-170]. 1.2. Nguồn gốc nhận thức của sự ra đời tôn giáo: Để giải thích nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cần phải làm rõ lịch sử nhận thức và đặc điểm của quá trình nhận thức dẫn tới hình thành quan niệm tôn giáo. Tôn giáo chri ra đời khi con người đã đạt tới một trình dodọ nhận thức nhất định. Thần thành, cái siêu nhiên, thế giới bên kia. Là sản phẩm của những biểu tượng, của sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng phản ánh hư ảo. Do vậy tôn giáo chỉ ra đời khi đạt trình dodọ nhận thức nhất định. Thực chất của nguồn gốc nhận thức tôn giáo cũng như mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người biến nó thành cái không còn nội dung khách quan, không còn cơ sở thế gian, nghĩa là cái siêu nhiên thần thánh. 1.3. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo: Các nhà duy vật thời cổ đại nghiên cứu đưa ra luận điểm truyền thống của các nhà tư tưởng cổ đại. Đặc biệt ở Phoi-ơ-bắc, đã có công lao to lớn trong việc nghiên cứu nguồn gốc tâm lý của tôn giáo, theo ông nguồn gốc đó không khỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực mà những tình cảm tích cực. Không chỉ những tình cảm mà còn có cả những mong muốn ước vọng, nhu cầu khắc phục những tình cảm tiêu cực muốn được đền bù hư ảo. Nghiên cứu nguồn gốc tâm lý tôn giáo có ý nghĩa thực tiễn to lớn nó cắt nghĩa vì sao trong dk của chủ nghĩa xã hội, khi những nguồn gốc chủ yếu của tôn giáo đã được khắc phục về căn bản, thậm chí có nơi có lúc còn phát triển và tôn giáo vẫn đang tồn tại. Nghiên cứu tâm lý tôn giáo giúp hiểu rõ hơn điều này. 1.2. CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO. Chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nguồn gốc của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội. Trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất định, sự bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và xã hội đã nảy sinh ra nhu cầu khắc phục những mâu thuẫn thực tế trong ý thức, trong tưởng tượng nhu cầu đền bù sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực, quan hệ trần gian, ở thế giới bên kia, thế giới siêu trần gian vì thế chức năng đền bù hư ảo là chức năng chủ yếu và đặc thù của tôn giáo. Ngoài ra còn có các chức năng khác. 1.2.1. Chức năng đền bù hư ảo. Luận điểm nổi tiếng của Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo giống như thuốc phienẹ, tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của sự làm nhẹ, tạm thời nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những mất mát, những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người, đồng thời gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra cho họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa học. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, tôn giáo cũng có thể là chỗ dựa tinh thanà cho những ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức, phục vụ cho lợi ích của họ. Nhưng ở đây nó vẫn không mất chức năng đền bù hư ảo, chức năng thuốc phiện. Vì hạt nhân cơ bản của tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên luon gây tác động kìm hãm đối với tính tích cực của quần chúng, chuyển hướng niềm tin và sự nỗ lực của họ vào con đường hư ảo. Chính vì vậy V.I.Lênin đã nhấn mạnh “Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân - câu nói của Mác là hòn đá tảng của toàn bộ của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo” [18.511]. Cũng cần nhấn mạnh rằng chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng chủ yếu và đặc thù mà còn là chức năng phổ biến của tôn giáo, ở đâu có tôn giáo thì ở đó có chức năng đền bù hư ảo. Tôn giáo là hiện tượng phức tạp của xã hội, vì vậy nó không chỉ thực hiện một mà thực hiện một hệ thống các chức năng xã hội. Sự phân tích khoa học đòi hỏi phải nghiên cứu các chức năng xã hội của tôn giáo trong sự thống nhất và tác động qua lại giữa chúng, bên cạnh chức năng đền bù hư ảo tôn giáo còn các chức năng khác chức năng thế giới quan, chức năng điều chỉnh. 1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người hội tụ tinh hoa của truyền thống dân tộc Việt Nam, một đất nước hội nhapạ của văn hoá phương Đông, phương Tây và tôn giáo nội sinh. Người nhận rõ tính đặc thù của tôn giáo Việt Nam, các tôn giáo có lịch sử đoàn kết, tôn trọng nhau và luôn đồng hành cùng dân tộc trong dựng nưcớ và giữ nước. 1.3.1 Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh thần trân trọng và triệt để. Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là cái gì bất biến và khô cứng, phải hiểu nó trên môi trường thực tiễn ở Việt Nam. Với đặc điểm truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc Á Đông, Bác đã viết “Mác xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhận định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu âu. Mà Châu âu là gì? Đó chưa phải là toàn bộ nhân loại... Xem xét lại lịch sử của Mác về cơ sở lịch sử của nó củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các nàh Xô Viết đảm nhiệm”. Đối với người học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan didểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Kế thừa những thành tựu khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đồng tình với nhận thức về nguồn gốc tôn giáo. Tôn giáo do con người sản sinh ra, con người qua lăng kính của quá trình hoạt động sống trong xã hội đã dần dần xây dựng lên biểu tượng tôn giáo. Chính sự kết hợp giữa nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội tạo thành thần bí của tôn giáo, nhưng nguồn gốc về mặt xã hội thường đóng vai trò quan trọng trực tiếp tới quá trình vận động phát triển của một dân tộc - một quốc gia và thế giới. Sự giải quyết tận gốc vấn đề tôn giáo cần xây dựng xã hội mới, con người mới, một xã hội tiến bộ với con người có đầy đủ tri thức. Người chỉ rõ “tô ngiáo không hề đối lập với chủ nghĩa xã hội”. Vấn đề là phải có chính sách động viên thu hút đồng bào theo tôn giáo hoà nhập cuộc sống ích đạo lợi đời. Nhà nước chăm lo chu đáo tới nhu cầu của đồng bào theo đạo. “Phần xác no ấm, phần hồn thong dong”. Phải tổ chức cho đồng bào theo tôn giáo tham gia tích cực hoạt động sản xuất và công cuộc đấu tranh cải tạo xã hội, sinh hoạt tôn giáo không cản trở tới sản xuất mà ngược lại động viên nhân dân sản xuất tích cực hơn hiệu quả hơn. 1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào môi trường lịch sử và văn hoá của Việt Nam. Hồ Chí Minh là sự kết tinh những tinh hoa tốt đẹp nhất của truyền thống và của bản sắc dân tộc Việt Nam. Bản tính nhân văn Á Đông - từ cội nguồn đã ăn sâu trong dòng huyết thống của người. Hun đúc ý chí quyết tâm cứu dân cứu nước - “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một tất yếu của lịch sử, cái tinh tuý triết lý phương Đôgn tiềm tàng trong nội lực của người như được khai mở, hoà kết cùng khoa học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng như một phương tiện vạn năng. Người đưa cách mạng Việt Nam mở ra chân trời tươi sáng, tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành một phần trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, ngược lại cũng bổ xung và hoàn thiện học thuyết Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam và các nước Châu Á. 1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, một nhận thức mới chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra lực lượng chính của cách mạng là liên minh giai cấp giữa công nhân với nông dân. Nhưng với đặc didểm ở các nước phương Đông, xử lý đúng mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Người thấy có sức mạnh tiềm ẩn cần tôn trọng đúng mực, bởi không phải vô lý mà tôn giáo tồn tại qua hàng ngàn năm. Số lượng người theo tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao và có xu hướng gia tăng, đặc biệt tu tại gia. Tôn giáo phương Đông ăn sâu vào phong tục Việt Nam. Những người theo tôn giáo Việt Nam có bản tính thật thà, một tâm hồn cao thượng, đạo đức khiêm nhường với một tinh thần dân tộc tự cường mạnh mẽ. Từ đó Hồ Chí Minh bổ sung cho học thuyết Mác-Lênin về dân tộc phương Đông, về cách nhìn chức sắc tín đồ tôn giáo là lực lượng quần chúng cách mạng to lớn. Người đã vạch ra con đường cách mạng Việt Nam với phương pháp đúng đắn đảm bảo đi đến thắng lợi. 1.3.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo phân bổ xung quan trọng cho học thuyết Mác - Lênin và là phần sáng tạo nhất của người. Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp Macxit, di sản tư tưởng Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề tôn giáo để giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, đúng đắn, phù hợp với môi trường lịch sử - văn hoá và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không chép lại từng câu, từng chữ mà tự tìm ra cách nói cách làm của mình, với nhiều điểm khác biệt, có khi tưởng chừng như ngược lại với những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng ẩn chứa sau sự khác biệt đó là sự thống nhất giữa Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh về phép biện chứng duy vật Macxit. Để lại cho đời sau những trang sách quý báu là điều có ý nghĩa lớn, nhưng quan trọng nhất, quyết định nhất là sự thành công chính sách đoàn kết lương, giáo trong chính sách đại đoàn kết dân tộc mà Hồ Chí Minh là tổng công trình sư, là linh hồn. Thành công đó chứng tỏ rằng tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng đắn. Sự đúng đắn đó nó cũng chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác, của phép biện chứng duy vật Macxit đã được Hồ Chí Minh hiểu và vận dụng một cách độc lập, sáng tạo, chính sách tôn giáo là một trong những lĩnh vực mà phong cách tư duy độc lập, sáng tạo, dũng cảm của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét nhất. Tư tưởng đoàn kết luôn bao trùm rộng lớn và có ý nghĩa quyết định thành công trong cuộc đời sự nghiệp của Người. Đối với tôn giáo cần có đoàn kết thực lòng và bền vững. Người luôn nhấn mạnh: “Đoàn kết của ta không những đoàn kết rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài, qua đoàn kết là để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Ta phải đoàn kết để xây dựng nước nhà, ai có sức, có đức, có lòng phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết họ”. Vượt lên các nàh cách mạng phương Tây, Người nhận thức sâu sắc và toàn diện về ý nghĩa quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân trong đó có việc đoàn kết các đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ xuyên suốt của công tác tôn giáo. Sức mạnh đoàn kết là nguyên nhân của mọi thành công, phải đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, phải đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. “Phải giữ gìn đoàn kết như giữ gìn con người của mắt mình”. Đoàn kết trở thành nguyên tắc cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là động lực của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Người nói Lênin dạy chúng ta phải giữ gìn nguyên tắc cách mạng: “Chỉ có chính sách trung thành với nguyên tắc mới là chính sách đúng”. Theo Người đó là nguyên tắc đoàn kết. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo là tư tưởng đoàn kết đồng bào tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào theo đạo với đồng bào không theo đạo. đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, cùng lấy mục tiêu chung là điểm tương đồng đó là vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Lấy nguyên tắc đoàn kết là trung tâm của chính sách tôn giáo, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc là mấu chốt. Mọi chính sách, pháp luật về tôn giáo phải xoay quanh nguyên tắc đoàn kết và phải xuất phát từ lợi ích chung của cả dân tộc, trong đó có lợi ích của tổ chức tôn giáo. Đối với công tác tôn giáo Người dạy: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, bất biến là nguyên tắc đoàn kết, là nguyên tắc vì lợi ích chung của tổ quốc, của nhân dân, vạn biến là phương pháp vận động thuyết phục mềm dẻo có đối sách trong từng trường hợp cụ thể thật linh dodọng có chính sách thu hút sự ủng hộ của dodong đảo chức sắc, quần chúng tín đồ thi đua phong trào thi đua yêu nước. Khơi dạy đức hy sinh xả phú cần bần, xả thân cầu đạo hoà quyện trong tinh thần dân tộc tự cường, chủ trương đưa đạo nhập thế, việc đạo là việc đời mà việc đời cũng là việc đạo, tạo sự cộng hưởng trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện xây dựng một nước Việt Nam “Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Chương 2: TÌNH HÌNH TÔN GIÁO NƯỚC TA HIỆN NAY Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo cùng tồn tại. Nhưng tính hoà đồng, đan xen dung hợp, tiếp nhận nhau là xu hướng chủ đạo ở một nước nông nghiệp với phương thức canh tác chủ yếu là trồng lúa nước nên tín đồ của tôn giáo Việt Nam hầu hết là nhân dân lao động. Sống tập trung ở vùng quan trọng về kinh tế quốc phòng, một bộ phận ở vùng sâu vùng sa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TÔN GIÁO HIỆN NAY. 2.1.1. Tín đồ. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, tổng số tín đồ 6 tôn giáo là : 18.358.345, trong đó: Phật giáo 9.038.064; Công giáo: 5.324.492; Tin Lành: tổng hội miền Bắc: 6.333, Tổng Liên hội miền Nam: 414.915; Đạo Hồi: 64.991; Cao Đài: 2.276.978; Hoà Hảo: 1.232.572. Trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo được cải thiện, có mặt được nâng lên; nhiề cơ sở thờ tự được tu bổ, xây mới khang trang đẹp đẽ. Do những thành tưu của công cuộc đổi mới và do đời sống tín ngưỡng tôn giáo được cải thiện, đồng bào tôn giáo tăng thêm niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Đồng bào tuân thủ pháp luật, chấp hành các chính sách, đòi hỏi chống tham nhũng phải có hiệu quả hơn, đòi hỏi cả chức sắc và người thi hành công vụ làm đúng theo pháp luật, không dodòng tình với những hành dodọng lợi dụng tôn giáo để gây rối; nhiều trường hợp đồng bào đã đấu tranh chống lại những hoạt động của bọn xấu gây mất ổn định xã hội. 2.1.2. Chức sắc tôn giáo. Chức sắc giữ vai trò quan trọng trong hoạt động tôn giáo có ảnh hưởng lớn tới tín dodò. Họ ở trong hệ thống tổ chức khá chặt chẽ của các giáo hội. Nhiều người dưdợc đào tạo khá cơ bản về giáo lý, có trình độ văn hoá, có điều kiện và phương tienẹ hoạt động. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, bộ phận chức sắc yêu nước, tiến bộ gần gũi với Đảng, chính quyền và Mặt trận ngày càng nhiều lên. Đại đa số các chức sắc yên tâm làm việc đạo, có tinh thần dân tộc, đồng tình với đường hướng tốt đời, đẹp đạo, mong muốn được hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp. 2.1.3. Các tổ chức giáo hội. Giáo hộc Phật giáo Việt Nam: Thành lập từ năm 1981, là tổ chức thống nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo trên cả nước với 15.051 ngôi chùa, 3 Học viện Phật giáo, 1 Viện nghiên cứu Phật học, 30 tr4ường trung cấp Phật học trong đó có 4 lớp Cao đẳng Phật học. Tổ chức của Giáo hội gồm 2 cấp: Trung ương và cơ sở (chùa). Có 44 ban Trị sự Phật giáo ở 44 tỉnh, thành phố. Giáo hội Công giáo Việt Nam: gồm 25 giáo phận, mỗi giáo phanạ do một Giám mục đứng đầu. Hội đồng Giám mục Việt Nam tập hợp tất cả các giám mục ở Việt Nam được thành lập năm 1980 chọn đường hướng “sống phúc âm trong lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Các giáo hội Tin lành: + Hội Thánh Tin lành miền Bắc: Tổng hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) ra đời năm 1955 là một tổ chức tôn giáo yêu nước, có điều lệ tiến bộ, có thành tích đóng góp trong kháng chiến chống Mỹ và trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất. + Hội Thánh Tin lành miền Nam: Ngày 30-11-1998 Thường bụ Bộ Chính trị có Thông báo số 184-TB/TW (sau đây gọi tắt là Thông báo số 184) cho ý kiến về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành trong tình hình mới. Các giáo hội Cao Đài: Ngày 14-11-1992 Ban Bí Thư có Thông báo số 34-TB/TW cho ý kiến về chủ trương công tác đối với đạo Cao Đài, nêu rõ quan điểm: Thực hienẹ các chính sách tôn giáo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với Đạo Cao Đài như đối với các tôn giáo khác . Phật giáo Hoà Hảo: Phật giáo Hoà Hảo ra đời dưới chế độ thực dân Pháp. Năm 1999 thực hiện thông báo số 165-TB/TW ngày 4-9-1998 của Thường vụ Bộ Chính trị, các địa phương có đạo Phật giáo Hoà Hảo đã tổ chức Đại hội đại biểu phát triển, Hoà Hảo bầu ra Ban đại diện gồm 11 thành viên, hoạt động theo “Quy chế Phật giáo Hoà Hảo”. Cộng đồng Hồi giáo: đồng bào Chăm có đạo Hồi gồm hai nhánh Hồi, gồm hai nhánh Hồi Bani và Hồi Ixlam và 20 chàu Bàni chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình thuận, An Giang và thành phố Hồ Chí Minh... 2.1.4. Âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá nước ta. Lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc là âm mưu cố hữu không bao giờ từ bỏ của chủ nghĩa đế quốc. Chính sách đối với tôn giáo của chủ nghĩa đế quốc là lợi dụng, chia rẽ và thống trị. Âm mưu của chúng là chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa tôn giáo với không tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà nước và cách mạng. Chúng đã dùng các thủ đoạn kích động, lừa mị và o ép, khoét sâu mâu thuẫn về tư tưởng, kích động mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân để lừa gạt, lôi kéo, giành giật đồng bào về phía chúng và đẩy dân ra đối đầu với chính quyền, với Đảng. Để lợi dụng vấn đề tôn giáo trong bối cảnh thế giới hiện nay, mỹ đã triệt để lợi dụng các xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá, đề ra khẩu hiệu nhana quyền cao hơn chủ quyền, quyền cá nhân cao hơn quyền cộng đồng. Mỹ lại nhân danh các công ước quốc tế và lợi dụng các cơ chế toàn cầu để pháp lý hoá các pháp luật, các quy định đơn phương từ phía Mỹ nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo và các quốc gia. Mỹ triệt để khai thác các phương tiện thông tin hiện đại trong điều kiện xã hội thông tin để lừa mị, lung lạc, sử dụng tay sai đội lốt chức sắc giáo sĩ để hoạt động chính trị phản động; lợi dụng các mối quan hệ hải ngoại và quốc tế để nuôi dưỡng, tác động, chỉ đạo các tổ chức tôn giáo nghe theo chúng hoạt động “diễn biến hoà bình”. Thực tế tình hình tỏng những năm qua, cho thấy cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để thực hịên “diễn biến hoà bình” tại nước ta đã diễn ra rất gay go, quyết liệt. Từ năm 1999 đến nay, các thế lực thù địch quyết tâm phối hợp lực lượng, kết hợp vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc nhằm thực hiện “diễn biến hoà bình”, tập trung vào năm 2000 và các năm tiếp theo. Chúng móc nối xây dựng tổ chức liên tôn giáo chống Đảng, chống Nhà nước, tìm mọi cách để ra mắt tổ chức chống đối ngay trong nước. Chúng kích động những người tin theo tôn giáo trong dân tộc đa số cũng như thiểu số, tìm cách cho ra đời các “giáo hội độc lập”, các “tôn giáo ly khai” theo kiểu “Tin hành Đềga”, nhanạ chỉ đạo trực tiếp từ nước ngoài, được các lực lượng phản động nước ngoài công khai cổ vũ, ủng hộ và chi viện. Các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách khai thác mọi sơ hở của ta để kích dodọng quần chúng lạc hậu vi phạm pháp luật, làm rối loạn trật tự xã hội, gây bạo loạn nhằm tạo cớ để nước ngoài can thiệp. 2.2.1. Kết quả thực hiện công tác tôn giáo. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị, chính sách về tôn giáo. Năm 1990, Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo. Ngày 2-7-1998, Bộ Chính trị ban hành chỉ thị 37 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Ngày 19-4-1999, chính phủ ban hành nghị định số 26 về các hoạt động tôn giáo... Gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 7 chỉ rõ: Thực hiện Nghị quyết của Đảng, công tác vận dodọng đồng bào có đạo, các tín đồ chức sắc... hưởng ứng tham gia phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đạt được nhiều tiến bộ... 2.2.2. Tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Một là, Một số người chưa tuân thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép, còn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Thống kê lại 21 tỉnh, thành phố về tình hình những người chuyên hoạt động tôn giáo cho biết, trong 8.553 chức sắc đang hoạt động thì chỉ có 6.592 người (tức 77%) được chính quyền công nhận. Việc thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc có đến 15% số người đi từ xã, huyện này sang xã, huyện khác trong cùng một tỉnh để hoạt động tôn giáo không được chính quyền chấp thuận. Về mặt tổ chức, các hội đoàn tôn giáo (Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Tin Lành..., nhiều nhất là Công giáo) tiếp tục phát triển và hoạt động lôi kéo quần chúng. Hai là, Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp. Ba là, ở một số nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích dodọng tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị. Chương 3: CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY. Ở nước ta, quyền tự do tín ngưỡng được khẳng định trong hiến pháp và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Mọi sinh hoạt tôn giáo bình thường được tôn trọng, tạo điều kiện cho quần chúng thực hiện các tín ngưỡng tôn giáo của mình. Cơ chế kinh tế mới cũng tác dodọng vào tôn giáo, làm xuất hienẹ những hiện tượng tôn giáo mới. Các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam tăng cường lợi dụng tôn giáo để thực hiện ý đồ “diễn biến hào bình”. Tình hình tôn giáo Việt Nam có chiều hướng phát triển phức tạp. Vì vậy, việc đưa ra những chủ trương chính sách đúng đắn Đảng và Nhà nước là rất cần thiết. Các chủ trương chính sách về tôn giáo được thể hiện trong các văn bản, Nghị quyết. Tiêu biểu Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị ngày 26/10/1990, Nghị quyết Trung ương 7 Đại hội Trung ương Đảng khoá IX. 3.1. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC TÔN GIÁO. 3.1.1. Những thuận lợi chủ yếu. Công cuộc đổi mới tiếp tục giành thắng lợi, củng cố niềm tin của nhân dân. Công tác tôn giáo được toàn Đảng, toàn dân, được các cấp, các ngành quan tâm. Trên cơ sở Ban chấp hành Trung ương ra Nghị quyết về công tác tôn giáo, Quốc hội sẽ ban hành Pháp lệnh về tôn giáo, Chính phủ sẽ ban hành những chính sách cụ thể và sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho công tác tô giáo. 3.1.2. Những khó khăn chủ yếu: Công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu thì càng đặt ra nhiều vấn đề mới với những thách thức mới. Cơ chế thị trường ngày càng phát huy tác dụng thì cũng kéo theo những mặt trái tiếp tục gia tăng. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới và quá trình toàn cầu hoá sẽ kích thích tôn giáo trong nước phát triển và tạo thêm điều kiện cho tôn giáo quốc tế tác động, xâm nhập mạnh vào nước ta. Dự kiến tôn giáo sẽ tiếp tục phát triển, nhưng không đồng đều. Các tôn giáo truyền thống sẽ đi dần vào ổn định. Ở vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo vẫn tiếp tục phát triển. Các thế lực thù địch tăng cường tác động, chi viện tiền, người, cài cắm xây dựng cơ sở... 3.2. QYAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH. 3.2.1. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị năm 1990. Chỉ rõ: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; đặt vấn đề tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo theo nguyên tắc “Các giáo hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ mục didchs, điều lệ phù hờp với luật pháp Nhà nước, có tổ chức thích hợp và có bộ máy nhân sự đảm bảo tốt cả về hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động”. Ngày 2-7-1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 37-CT/TW, nêu rõ các chủ trương: - Cần tiếp tục quán triệt các quan didểm chỉ đạo của Nghị quyết 24 trong thời kỳ mới, nhằm làm tốt hơn nữa công tác tôn giáo, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, có các chủ trương cụ thể đối với một số lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Tăng cường công tác vận động quần chúng tín dodo chức sắc, nhà tu hành. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở các địa bàn có nhiều đồng bào theo đạo. Đại hội IX tiếp tục khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Cần thực hienẹ nhất quán chính sách tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Việc thực hienẹ chính sách tín ngưỡng tôn giáo, cần hướng và những chính sách của Đảng và Nhà nước. 3.2.2. Nghị quyết Trung ương 7 đã chỉ rõ phương hướng, quan điểm chính sách đối với tôn giáo. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục phát triển những quan didểm của các Nghị quyết, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 7 đã xác định phương hướng, quan điểm chính sách đối với tôn giáo. Về phương hướng: Nghị quyết chỉ rõ: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về quan điểm, chính sách. Nghị quyết chỉ rõ, để thực hiện phương hướng trên, các cấp uỷ, tổ chức Đảng, các cấp, các ngành cần thống nhất nhận thức về các quan điểm và chính sách sau: Một là, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại dodàn kết toàn dân tộc. Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Điều 7: Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, dạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự. Điều 8: Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì được pháp luật bảo hộ. Điều 9: Các cuộc tính tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung từ nhiều cơ sở, dòng tu của đạo Thiên chúa; các cuộc bồi linh củ mục sư và truyền đạo của đạo Tin lành; các kỳ an cư của tăng ni đạo Phật và những sinh hoạt tôn giáo tương tự của các tôn giáo khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh về tôn giáo. Điều 20: Việc phong giáo phẩm Hoà thượng trong đạo Phật, Hồng y, Giám mục, chức vụ giám quản trong đạo Thiên chúa và các giáo phẩm, chức vụ tương đương trong các tôn giáo khác phải đựơc sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Điều 22: Tổ chức, cá nhân tôn giáo báo cáo với Ban tôn giáo của Chính phủ về những hướng dẫn cuả tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài và thực hiện những hướng dẫn đó theo sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. Điều 24: Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. Điều 25: Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật Việt Nam. 3.3. NHIỆM VỤ CÔNG TÁC TÔN GIÁO. Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước.. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo“ trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy tinh thần yêu nứơc của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại ama mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại dodàn kết dân tộc, chống đối chế độ. Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối ngoại giao của Đảng và Nhà nước. Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo. 3.4. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chinh trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo. Tăng cường công tác vận động quần chúng xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở. Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo. 3.5. TỔ CHỨC THỰC HIỆN. 3.5.1. Các cấp uỷ . Tổ chức quán triệt nghị quyết về công tác tôn giáo, đồng thời với Nghị quyết về páhoàn toàn huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và Nghị quyết về công tác dân tộc. Cần tổ chức nghiên cứu sâu trong cán bộ làm công tác tôn giáo và trong những địa phương có đông đồng bào theo đạo và những địa phương có vấn đề tôn giáo phát sinh. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt kế hoạch phổ biến tinh thần Nghị quyết trong chức sắc và tín đồ các tôn giáo. 3.5.2. Các cơ quan quản lý Nhà nước. Đảng đoàn Quốc hội và Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo việc cụ thể hoá nội dung Nghị quyết thành những chủ trương, chính sách, pháp luật, xây dựng chương trình hành dodọng của Quốc hội và Chính phủ, chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương thực hiện. Đối với các luật, pháp lệnh mà phạm vi điều chỉnh có liên quan đến tôn giáo cần có điều khoản riêng quy định những nội dung cụ thể liên quan đến vấn đề tôn giáo. 3.5.3. Cá cấp uỷ địa phương. Các cấp uỷ căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết . Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra để Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. 3.5.4. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng đoàn Mặt trận và các đoàn thể nhân dân xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Tổ chức đoàn viên, hội viên thực hiện. 3.5.5. Các ban của Trung ương Đảng. Các ban của Trung ương Đảng có kế hoạch cụ thể thực hiện và theo dõi việc thực hienẹ nhân quyền. Ban Dân vận Trung ương thường xuyên theo dõi kiểm tra, đôn đốc và định kỳ báo cáo Bộ Chính tị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết; trong qúa trình thực hiện, kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị để điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hoá các chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết. 3.6. Ý NGHĨA CỦA CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ HIỆN NAY. Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hết sức đúng đắn, đem lại những hiệu quả thiết thực. Chính sách không phải được đưa ra do ý chí chủ quan của những nhà lãnh đạo, mà lại sự kết hợp quan điểm lý luận và Chủ nghĩa Mác - Lê nin - Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn, tình hình tôn giáo Việt Nam. Với những chính sách hết sức khoan hồng, đúng đắn đã tạo được niềm tin, sự phấn khởi trong lòng các tín đồ. Trong những năm chiến tranh các tín đồ tôn giáo đã góp phần vào chiến thắng chung dân tộc. Thời kỳ hiện nay, họ đang ra sức xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp hơn. Củng cố khối đại dodàn kết dân tộc, nâng chủ nghĩa yêu nước lên tầm cao mới. KẾT LUẬN Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận, Chủ nghĩa Mác - Lê nin - Tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hoá dân tộc xuất phát từ đất nước và con người Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lí luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam . Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ hiện nay là hết sức đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng đại bộ phận tín dodò. Sự đoàn kết các đồng bào tôn giáo tạo thành sức mạnh nội lực chống phá thế lực thù địch, đang lợi dụng tôn giáo vào mục tiêu “diễn biến hào bình”. Đồng thời phát huy mặt tích cực tôn giáo, cũng như mặt còn hạn chế của tôn giáo. Vì tôn giáo hàng năm vẫn sống cùng con người.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvh8.doc
Tài liệu liên quan