LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới xu hướng uống trà ngày càng tăng lên mãnh mẽ do những phát hiện mới ngày càng nhiều hơn về lợi ích của trà đối với sức khoẻ con người. Tại Việt Nam cây chè không chỉ rất thân quen gần gũi mà từ lâu thưởng trà, uống trà đã đi vào đời sống người Việt tạo nên một nét đẹp văn hóa bình dị mà dài lâu. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay của đất nước, cây chè đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, sản xuất và xuất khẩu chè đang ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành ngành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của cả nước. Đây cũng là khu vực đang trực tiếp giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động cới thu nhập không nhỏ và kích thích, kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác cùng phát triển, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam.
Với ưu thế về khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, Việt Nam tự hào ghi tên mình trên bản đổ chè thế giới. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu chè của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, yếu kém cần khắc phục. Do đó vấn đề phân tích, đánh giá và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam là một vấn đề mang tính thời sự cần thiết. Chính vì lý do này mà nhóm nghiên cứu đã chọn chè là mặt hàng hấp dẫn để phân tích ưu thế cạnh tranh.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học chính sách thương mại quốc tế, và trong khuôn khổ kiến thức đã học về lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhóm chúng em chỉ xin trình bày một đôi nét về khả năng canh tranh của chè Việt Nam trên thị trường thế giới dựa trên những phân tích cơ bản từ lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, lý thuyết Heckscher-Ohlin, lợi thế so sánh biểu hiện Trong quá trình cập nhật số liệu, nghiên cứu và phân tích đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, nhóm rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét từ phía các bạn và đặc biệt là cô giáo giảng dạy bộ môn
Chúng em hy vọng rằng bài viết sẽ cung cấp những tư liệu, thông tin thảm khảo hữu ích cho các bạn sinh viên đang học môn chính sách thương mại quốc tế, giúp cho bài học trở nên sinh động, thú vị và sát với thực tiễn hơn.
Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3127 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, trên thế giới xu hướng uống trà ngày càng tăng lên mãnh mẽ do những phát hiện mới ngày càng nhiều hơn về lợi ích của trà đối với sức khoẻ con người. Tại Việt Nam cây chè không chỉ rất thân quen gần gũi mà từ lâu thưởng trà, uống trà đã đi vào đời sống người Việt tạo nên một nét đẹp văn hóa bình dị mà dài lâu. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay của đất nước, cây chè đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia, sản xuất và xuất khẩu chè đang ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành ngành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của cả nước. Đây cũng là khu vực đang trực tiếp giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động cới thu nhập không nhỏ và kích thích, kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác cùng phát triển, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam.
Với ưu thế về khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, Việt Nam tự hào ghi tên mình trên bản đổ chè thế giới. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động sản xuất và xuất khẩu chè của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, yếu kém cần khắc phục. Do đó vấn đề phân tích, đánh giá và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam là một vấn đề mang tính thời sự cần thiết. Chính vì lý do này mà nhóm nghiên cứu đã chọn chè là mặt hàng hấp dẫn để phân tích ưu thế cạnh tranh.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học chính sách thương mại quốc tế, và trong khuôn khổ kiến thức đã học về lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhóm chúng em chỉ xin trình bày một đôi nét về khả năng canh tranh của chè Việt Nam trên thị trường thế giới dựa trên những phân tích cơ bản từ lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, lý thuyết Heckscher-Ohlin, lợi thế so sánh biểu hiện…Trong quá trình cập nhật số liệu, nghiên cứu và phân tích đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, nhóm rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét từ phía các bạn và đặc biệt là cô giáo giảng dạy bộ môn
Chúng em hy vọng rằng bài viết sẽ cung cấp những tư liệu, thông tin thảm khảo hữu ích cho các bạn sinh viên đang học môn chính sách thương mại quốc tế, giúp cho bài học trở nên sinh động, thú vị và sát với thực tiễn hơn.
Nhóm thuyết trình : Nhóm 1- Lớp A12:
Nguyễn Hoài An ( 01 )
Nguyễn Ngọc Hà ( 09)
Lê Thanh Hằng (10)
Ngô Thị Ngọc Mai ( 24)
Phan Thị Thuý ( 37)
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHÈ VIỆT NAM
Thực trạng sản xuất chè Việt Nam
Diện tích trồng chè
Từ năm 1990 đến nay diện tích chè đều tăng. Bình quân giai đoạn 1990-1997 tăng 3,88% năm, giai đoạn 1998-2007 mỗi năm diện tích tăng khoảng 4,91% từ 60.000 ha năm 1990 lên 77.400 ha năm 1998 và đạt 125.700 ha năm 2007.
Bảng 1-1: Diện tích và sản lượng chè trên cả nước qua các năm
Năm
Diện tích
Sản lượng
Giá trị (ha)
Tốc độ (%)
Giá trị (tấn)
Tốc độ (%)
2002
109,3
11,2
2003
116,2
6,3
2004
120,8
3,96
2005
122,5
1,4
2006
122,9
0,33
2007
125,7
2,28
(Nguồn: Niên giám thống kê 2007)
Qua bảng 1-1 ta thấy những năm gần đây diện tích trồng chè của Việt Nam tăng ở mức trung bình. Ngành chè Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và sẽ phát triển mãnh mẽ trong thời gian tới. Theo thống kê của tổng công ty chè Việt Nam, hiện nay có gần một nửa số tỉnh thành trong cả nước trồng chè nhưng phát triển mạnh nhất là ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La, Lâm Đồng. Chè Việt Nam được các chuyên gia đánh giá là có hương vị thơm ngon đặc trưng.
Sản lượng chè
Giai đoạn 1990-1997, sản lượng tăng bình quân 7,23% năm, từ 32.200 tấn năm 1990 lên 52.200 năm 1997. Giai đoạn 1998-2007 sản lượng tiếp tục tăng bính quân (chưa tính). Sản lượng toàn ngành chè tăng khá cao, năm 2008 Việt Nam đứng trong hàng top 10 các nước sản xuất chè lớn nhất trên thế giới, chiếm khoảng 7% sản lượng chè toàn thế giới.
Chất lượng sản phẩm chè Việt Nam
Chất lượng sản phẩm chè trong những năm gần đây đã được nâng lên rõ rệt cả về ngoại hình lẫn nội chất. Từ năm 1990 đến nay, Tổng công ty chè Việt Nam chỉ nhập kho sản phẩm tiêu chuẩn thấp nhất là loại hai, chính vì vậy chất lượng chè xuất khẩu của Tổng công ty tăng lên đáng kể, thị trường chè Việt Nam nhờ đó mà được mở rộng do nâng cao được năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế.
Tuy nhiên hiện nay chất lượng chè Việt Nam còn thấp so với mặt bằng thế giới. Nhìn chung khâu chế biến chưa giữ gìn và phát huy tính tốt của nguyên liệu, các thông só kỹ thuật bị vi phạm ở nhiều công đoạn dẫn đến chất lượng sản phẩm chè còn nhiều khuyết tật, số lượng chè bị trả lại cao
Tình hình xuất khẩu chè Việt Nam
Quy mô xuất khẩu
Quy mô xuất khẩu thể hiện qua khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Với ưu thế về khí hậu, nguồn tài nguyên đất đai, lao động và sự ưa chuộng của thị trường thế giới, sản xuất chè đã trở thành tập quán canh tác cùa nông dân Việt Nam và ngày càng khắng định vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trong sản xuất nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu. Năm 2007 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chè trên tổng kim ngạch của cả nước là 0,27% đóng góp vào GDP (71,46 tỷ $) là 0,19%, góp phần quan trọng vào tạo nguồn vốn bằng ngoại tệ để nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sang năm 2008, theo thống kê, 6 tháng đầu năm xuất khẩu chè đạt 127,3 triệu USD, với hơn 264.000 tấn chè, tăng 180,43% về trị giá và 72,71% về lượng so cùng kỳ. Giá chè xuất khẩu trung bình 6 tháng đầu năm đạt khoảng 1.312 USD/tấn, tăng 37% so cùng kỳ. Hiện nay, Việt Nam đứng hàng thứ 5 trên thế giới cả về sản lượng và xuất khẩu.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Tính đến thời điểm này, sản phẩm chè Việt Nam đã có mặt tại hơn 118 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2005 chiếm 5,74% thị phần chè của thế giới. Năm 2006 con số này là 6,78%. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thị trường đối với sự ổn định và phát triển của sản xuất và xuất khẩu, nên các doanh nghiệp đã tổ chức tốt công tác nghiên cứu, xúc tiến thương mại nhằm mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó cơ cấu thị trường tuy đang được thay đổi theo hướng đa dạng hóa nhưng vẫn tập trung đột phá vào các thị trường trọng điểm như Irac, Pakistan, Đài Loan, Ấn Độ…vốn là những thị trường lớn hàng năm nhập hơn 2000 tấn chè.
Bảng 1-3: Một số thị trường xuất khẩu chủ yếu của chè Việt Nam năm 2006
Tên nước
Tháng 12/06
12 tháng 2006
Lượng (tấn)
Trị giá (USD)
Lượng (tấn)
Trị giá (USD)
Ấn Độ
305
237.857
11.074
8.203.748
Tiểu VQ Arập TN
211
314.799
1.106
1.429.490
Đài Loan
1.808
1.108.362
18.459
19.454.279
CHLB Đức
409
529.674
3.445
3.996.993
Hà Lan
240
279.756
2.231
2.499.876
Indonêsia
784
491.898
2.467
1.697.287
Malaysia
306
209.784
2.419
1.181.938
Mỹ
325
246.866
2.087
1.584.995
LB Nga
1.412
1.373.693
10.364
10.142.726
Nhật Bản
35
56.076
435
1.084.457
Philippin
65
186.472
508
1.426.814
Thổ Nhĩ Kỳ
91
126.376
1.260
1.690.906
Trung Quốc
610
632.487
7.622
7.615.725
(Nguồn: Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam 2006, Vietnamnet, 27/02/2007)
MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐỊNH LƯỢNG VÀ LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một sản phẩm, mô hình kim cương luôn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, bên cạnh mô hình này, có thể dùng thêm một số chỉ tiêu và lý thuyết khác để hỗ trợ cho việc phân tích.
Một số chỉ tiêu định lượng đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
2.1.1 Lợi thế so sánh biểu hiện RCA
- RCA được dùng như một chỉ số để đo lường lợi thế so sánh. Hệ số RCA chỉ ra khả năng cạnh tranh xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm xác định trong mối tương quan với mức xuất khẩu thế giới của sản phẩm đó
- Theo Diễn đàn thương mại quốc tế ITC, lợi thế so sánh biểu hiện (RCA) được đo bằng:
RCA = ( E XA / EA ) : ( E XW / E w )
Trong đó: EXA : là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của nước A; EA :là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước A; E XW : là kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của toàn thế giới; Ew: là kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giới. Nếu RCA > 2.5 thì sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao;RCA nằm trong khoảng 1 đến 2.5 thì sản phẩm có lợi thế so sánh;RCA < 1 thì sản phẩm bất lợi thế so sánh.
2.1.2 Thị phần
- Thị phần nói lên độ lớn của thị trường và vai trò, vị trí của quốc gia. Khi dung lượng thị trường đang lên mà phần thị trường của quốc gia không thay đổi tức là thị trường đã nằm ngoài vòng kiểm soát hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên các DN của quốc gia cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị trường hiện tại, có giải pháp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình.
- Công thức tính:
Thị phần =( Kim ngạch XK sản phẩm của quốc gia) / ( Tổng kim ngạch XK sản phẩm của toàn thế giới)
Một số lý thuyết về năng lực cạnh tranh
Lý thuyết H-O ( Heckscher-Ohlin)
- Mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu :
LX / KX > LY / KY
Trong đó LX và LY là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y
KX và KY là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y
- Một quốc gia được coi là dồi dào tương đối về lao động nếu tỷ lệ giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của cá quốc gia khác:
LA / KA > LB / KB
- Một quốc gia sẽ có lợi thế so sánh khi xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó.
Mô hình "Kim cương" của M. Porter
- Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm yếu tố này tạo thành mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: (1) điều kiện về các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện về cầu, (3) các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia. Ngoài ra còn có 2 yếu tố khác là Chính sách của Chính phủ và Cơ hội. Đây là 2 yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.
- Khối kim cương: Hình 2-1: Khối kim cương của M. Porter
Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành
Điều kiện các yếu tố sản xuất
Điều kiện về cầu
Các ngành hỗ trợ và có liên quan
Chính phủ
Cơ hội
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG CHÈ XUẤT KHẨU VIỆT NAM
Đánh giá theo chỉ số định lượng
Đánh giá theo chỉ số RCA
Bảng 3-1: Chỉ số RCA mặt hàng chè của một số nước trên thế giới năm 2007
STT
Tên nước
KN XK chè (triệu USD)
Tổng KN XK (triệu USD)
RCA
1.
Kenya
428,3
4054
822,16
2.
SriLanka
359,6
8139
343,84
3.
Ấn Độ
181,9
150800
9,39
4.
Indonesia
143,9
118000
9,49
5.
Việt Nam
130,0
48070
21,05
Thế giới
1800,3
14010000
(Tổng hợp từ nhiều nguồn và tính toán cả nhóm nghiên cứu)
Nếu căn cứ vào hệ số lợi thế so sánh biểu hiện RCA thì sản phẩm chè xuất khẩu của Việt Nam có năng lực cạnh tranh tương đối tốt trên thị trường thế giới. Năm 2007, so với các quốc gia xuất khẩu chè chủ yếu thì hệ số RCA của Việt Nam đứng thứ 5 (xem bảng 3-1). Tuy nhiên, đối với Kenya và SriLanka thì hệ số RCA chưa phản ánh chính xác lợi thế so sánh của 2 nước này vì nền kinh tế 2 quốc gia này dựa quá nhiều vào ngành chè nên tỷ trọng xuất khẩu chè trong tổng kim ngạch xuất khẩu (KN XK)lớn là điều dễ hiểu.
Đánh giá theo " Thị phần "
- "Thị phần" năm 2007
Bảng 3-2: Thị phần của một số nước xuất khẩu chè trên thế giới nửa đầu năm 2008
STT
Nước
Thị phần (%)
1
Sri Lanka
20
2
Kenya
20
3
Trung Quốc
17
4
Ấn Độ
13
5
Việt Nam
7
( Nguồn : " Jakarta Post" 22/07/2008 )
Nếu căn cứ vào chỉ tiêu thị phần thì chúng ta thấy thị phần xuất khẩu chè của Việt Nam so với tổng KN XK chè toàn thế giới của 6 tháng đầu năm 2008 khoảng 7%, đứng ở vị trí thứ 5; sau SriLanka, Kenya và Ấn Độ.
- Thị phần của Việt Nam trong các năm 2005, 2006, 2007 và xu hướng thay đổi của thị phần:
Bảng 3-3: Thị phần của chè Việt Nam và SriLanka
Năm
KNXK chè của VN ( triệu USD )
Thị phần của VN ( %)
Thị phần của SriLanka ( %)
2005
96.9
5,7%
11.2 %
2006
110,5
6.2%
12.6%
2007
130
6.8%
15.9%
( Nguồn : Tổng hợp từ FAO, Tổng cục Thống kê Việt Nam và tính toán của nhóm nghiên cứu)
Nhìn vào biểu đồ, dễ nhận thấy xu hướng tăng lên của thị phần XK chè Việt Nam trên thị trường thế giới. Điều này chứng tỏ, chè Việt Nam đã giữ được thị phần và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia xuất khẩu chè lón như Sri Lanka thì tốc độ tăng của Việt Nam không lớn bằng. Nguyên nhân của việc này là do thị trường chè thế giới có xu hướng tập trung vào một sô nước xuất khẩu lớn. Do đó, nếu chúng ta không có biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm chè xuất khẩu thì chúng ta sẽ bị tụt hậu.
Đánh giá theo các lý thuyết
Đánh giá theo lý thuyết H-O
Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và có cơ cấu dân số trẻ với một lực lượng lao động đông đảo. Bên cạnh đó, lượng vốn đầu tư vào Việt Nam không nhiều, máy móc thiết bị còn thiếu thốn. Do vậy có thể nói, Việt Nam có hàm lượng lao động (L/K) rất lớn. Lượng lao động này tập trung phần lớn vào các ngành sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, ngành sản xuất và chế biến chè cũng là ngành cần nhiều lao động. Nên theo lý thuyết H-O, dễ thấy rằng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về chè trên thế giới.
Tuy nhiên, lý thuyết H-O không thể giúp ta so sánh chính xác khả năng cạnh tranh của chè Việt nam và các nước xuất khẩu chè lớn khác bởi vì ngày nay, công nghệ đóng một vai trò to lớn trong sản xuất, lực lượng lao động và dân số đông chưa hẳn là yếu tố có lợi tuyệt đối trong cạnh tranh.
Đánh giá theo mô hình kim cương
Đồ thị 3-5 : Mô hình kim cương đối với xuất khẩu chè Việt Nam
Cơ cấu, chiến lược doanh nghiệp và môi trường cạnh tranh
Nhiều doanh nghiệp tham gia nhưng Vinatea vẫn giữ vị trí quyết định
Các doanh nghiêp chưa có chiến lược thích hợp đặc biệt là về xúc tiến xuất khẩu
Chưa xây dựng được thương hiệu chè VN
Điều kiện các yếu tố sản xuất
Giống chè chưa đa dạng, chưa bảo vệ được những giống tốt
Khí hậu thuận lợi
Thổ nhưỡng thuận lợi
Bón phân chưa đủ
Dư lượng thuốc trừ sâu cao
Điều kiện về cầu
Nhu cầu trong nước nhiều nhưng có tính thời vụ
Chủ yếu là uống trà theo kiểu truyền thống
Nhu cầu hiện đại mới bắt đầu xuất hiện
Các ngành hỗ trợ và có liên quan
Phần lớn vẫn ở qui mô vừa và nhỏ
Tuy có phát triển nhưng vẫn còn lạc hậu, chưa khai thác hết công suất thiết kế
Chính phủ
Cơ hội
Gia nhập WTO vào 1/1/2007
Việt Nam tham gia Hiệp hội Chè xanh thế giới vào 3/11/2004
Đã có chiến lược phát triển ngành
Có khuyến khích tài chính thông qua tín dụng và thưởng xuất khẩu
Vai trò của hiệp hội chè ngày càng cao
Điều kiện các yếu tố đầu vào
Giống chè là yếu tố tiên quyết đối với chất lượng sản phẩm chè, quyết định đến 50% chất lượng còn các yếu tố độ cao, chăm sóc chiếm 30% và yếu tố công nghệ chế biến, thiết bị chỉ chiếm 20%.
Giống chè
- Giống chè có khả năng tạo ra các hoá chất tinh dầu khác nhau, tạo ra chất lượng riêng của từng giống. Bởi vậy, những sản phẩm chè đặc sản có hương vị thơm ngon đặc biẹt đều xuất phát từ những giống chè chứa nhiều tinh dầu, những giống chè có hương thơm riêng biệt.
- Năm 2004, ở Việt Nam với diện tích trồng trên 100.000 ha chè thì có 15% diện tích được trồng bằng chè cành, giống mới ( trong đó giống PH1 là 8% còn các giống thơm, chất lượng tốt có 7%). Với cơ cấu giống như vậy thì việc cải tạo chất lượng chè còn rất nhiều khó khăn vì để cho sản phẩm chè có hương thơm thì cơ cấu giống thơm có chất lượng phải chiếm khoảng 30% diện tích chè và đây cũng là tỷ lệ phối trộn tối thiểu trong chè khô sản phẩm để tạo ra được sản phẩm chè có hương vị đặc trưng.
- Tuy nhiên, từ năm 2005, nhà nước đã bắt đầu có những quan tâm và đầu tư thích đáng vào việc phát triển giống chè. Nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành để xác định và phổ cập các giống chè tôtí ưu như :PH1, LDP và TRI 777 và 13 giống năng suất, chất lượng cao. Tính đến năm 2005: 35% diện tích chè trong toàn quốc đã được trồng bằng các giống chè mới chọn lọc.
- Giống chè Shan cho đến năm 2004 đang bị mai một, suy giảm chất lượng do không được quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ giống. Tuy nhiên, gần đây, giống chè này đang được củng cố và phổ biển trở lại. Cây chè Shan Tuyết được trồng tập trung ở những vùng cao và vùng núi cao các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Đồng; Vùng cao của tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh.
- Phát triển giống chè ở Việt Nam hiện nay còn phải đối mặt với một số khó khăn như một số địa phương tiếp tục đưa các loại giống hạn chế phát triển vào sản xuất. Hơn nữa, đầu tư cho việc nhập khẩu các giống tốt của nước ngoài và cho nghiên cứu, phát triển còn rất thấp.
Độ cao so với mặt nước biển
Chè trồng ở vùng cao có hương thơm và vị có hậu tốt hơn chè trồng ở vùng tháp. Thường ở những độ cao trên 1000m so với mặt nước biển thì có biên độ chênh lệch ngày và đêm lớn nên cây chè có hàm lượng tinh dầu lớn hơn ở vùng thấp và tạo cho sản phẩm chè có hương vị đặc trưng của chè vùng núi cao. Ở Việt Nam những vùng trồng chè tập trung như: Mộc Châu, Tam Đường có độ cao từ 500-1000m trên mặt nước biển đã tạo ra được hương vị chè đặc trưng của riêng mình, làm nên lợi thế cạnh tranh cho chè Việt Nam.
Đất đai thổ nhưỡng
Cây chè yêu cầu đối với đất trồng không nghiêm khắc lắm. Ở Việt nam ngoài vùng chè ngon có độ cao thì còn có vùng chè ngon do điều kiện đất đai thổ nhưỡng. Cùng một giống chè trung du trồng trên đắt Bắc Thái ( đất pha cát sỏi phát triển trên đá vôi) có sản phẩm hương vị chè tốt hơn trồng trên đất Phú Thọ (đất pheralit vàng đỏ phát triển trên granit hoặc phiến thạch sét mica). Chè xanh Bắc Thái có vị rất đặc trưng: chát dịu, dư vị ngọt và được người tiêu dùng rất ưa thích. Ngoài ra ở những nơi đất tơi xốp, nhiều mùn, giầu chất hữu cơ thì cũng cho chất lượng sản phẩm tốt hơn so với những nơi khác.
Bón phân
- Bón phân cho chè là yếu tố mạnh làm tăng sản lượng và nâng cao phẩm chất hương vị chè. Chè được bón phân hữu cơ có chất lượng tốt nhất so với bón phân vô cơ và không bón. Riêng đối với bón phân vô cơ chỉ số chất lượng giảm xuống theo thứ tự : Phốt Pho, Kali, Đạm và cuối cùng là không bón gì cả.
- Thực ra, chúng ta đầu tư bón phân cho chè còn ít và chỉ chú trọng bón phân đạm để lấy năng suất sản lượng là chính, chưa chú trọng yếu tố chất lượng. Hiện nay, theo quy trình bón phân của ta thì lượng phân bón chỉ đạt mưc tối thiểu, nhất là lượng phân hữu cơ, phải 2-3 năm mới bón một lần với liều lượng 2.5 đến 3.5 tấn/ha nên cần phải tăng cường lượng phân hơn nữa mới nâng cao năng suất và chất lượng chè.
- Hiện nay, giá phân bón tăng cao sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến việc sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm chè Việt Nam.
Thuốc trừ sâu
- Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay của Việt Nam là dư lượng thuốc trừ sâu trong chè nguyên liệu còn rất cao. Từ trước tới nay, ngành chè Việt Nam nói chung và Tổng công ty Chè Việt Nam nói riêng cũng đã không ít lần khuyến cáo các doanh nghiệp thành viên nhưng các biện pháp tổng thể thì hầu như chưa đề cập tới. So với Trung Quốc và Nhật bản, Việt Nam hiện nay là nước duy nhất chưa có biện pháp ngăn chặn tình trạng này.
- Sử dụng thuốc trừ sâu rất phổ biến trong người trồng chè để nâng cao năng suất; thêm vào đó, quy trình bón phân sai quy cách khiến cho an toàn vệ sinh thực phẩm giảm mạnh. Đó cũng chính là lí do mà có nhiều đầu mỗi xuất khẩu chè Việt Nam xuất khẩu với giá thấp từ 2-2,5 lần so với giá chè bình quân thế giới.
Tháng 5/2007, ngành chè Việt Nam có nhiều khả năng mất thị trường EU sau khi Anh và nhiều nước châu Âu đưa ra thông báo về việc dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chè xuất khẩu vượt ngưỡng cho phép nhiều lần.
Trong khi đó, theo Bộ Thương mại, hiện các nước nhập khẩu hàng Việt Nam đều đang tích cực áp dụng những rào cản kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sức khoẻ cộng đồng. Vì vậy, đòi hỏi về chất lượng chè xuất khẩu sẽ ngày càng khắt khe. Vào năm 2015, tiêu chuẩn thực phẩm toàn cầu (ISO 2015) sẽ được ban hành. Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đặc biệt lưu tâm đến điều này để tránh nguy cơ mất thị trường xuất khẩu chỉ vì vài doanh nghiệp không chấp hành đúng luật.
Các ngành hỗ trợ và có liên quan
Công nghiệp chế biến
- Công nghiệp chế biến là khâu rất quan trọng, là khâu quyết định cuối cùng tạo ra hương vị đặc trưng của chè thành phẩm.
- Trong công nghiệp chế biến có 2 vấn đề nổi cộm:
Một là, vẫn còn tồn tại các nhà xưởng chế biến mini ở một số địa phương cạnh tranh với công nghiệp chế biến hoàn chỉnh và đủ tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Cùng với việc phát triển ồ ạt các xưởng chế biến này là hiện tượng cạnh tranh quyết liệt, tranh chấp nguyên liệu, sản xuất chè bán thành phẩm chất lượng xấu tiêu thụ trước mắt
Hai là, thiết bị phổ biến vẫn còn lạc hậu, vệ sinh công nghiệp không đảm bảo. Các hiện tượng phổ biến là lên men không đủ tiêu chuẩn, xưởng chế biến nóng, nhiều bụi, công nhân dẫm đạp lên chè, nguyên liệu ấn vào bao tải, chè bị ôi ngốt. Một số doanh nghiệp tuỳ tiện đấu trộn một phần sản phẩm chất lượng xấu vào sản phẩm tốt rồi đua vào lưu thông làm ảnh hưởng tới cả lô sản phẩm, làm cho sản phẩm không có mùi vị đặc trưng. Một số nhà máy quy mô khá lớn nhưng thiết bị đầu tư ở mức thấp, thậm chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu sao chép nhưng lại kém chất lượng đã khiến cho một lượng lớn chè sản xuất ra kém chất lượng. Mặc dù Hiệp hội Chè đã đưa ra dự thảo về tiêu chuẩn nguyên liệu ( không cách xa quá 5 km bán kính nhà máy), năng suất vùng nguyên liệu phải thoả mãn 80% công suất nhà máy...đồng thời việc thiết kế, xây lắp nhà máy phải đáp ứng đủ quy trình công nghệ và yêu cầu kĩ thuật. Tuy nhiên, để áp dụng quy chuẩn này cho các cơ sở chế biến hiện nay là rất khó do số lượng các nhà máy không theo quy hoạch mọc lên quá nhiều, lại phân bố không đều, do vậy rát khó kiểm soát.
Bảng 3-6 : Hiện trạng thiết bị công nghệ chủ yếu của VINATEA
Tên dây chuyền công nghệ
Nước chế tạo
Năm SX
Số lượng
Đánh giá
Tiên tiến
TB
Lạc hậu
Chè xanh Nhật Bản
Nhật
1994
2
2
Chè xanh Pauchong
1994
1
1
Chè xanh, chè hương
VN
1995
5
5
T Quốc
1995
Đ Loan
1995
Chè đen OTD
L Xô
1970-1999
8
8
VN
Chè đen CTC
VN
1970-1999
8
8
T Quốc
1999
Tổng cộng
27
6
13
8
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực trạng các nhà máy chế biến chè thuộc VINATEA)
- Về năng lực chế biến của các xí nghiệp, công suất thiết kế hiện nay là 390 tấn chè tươi nguyên liệu/ngày. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, công suất chế biến chỉ đạt khoảng 75% công suất thiết kế.
Bảng 3-7: Công suất thiết bị của các nhà máy chế biến chè năm 2000
Tên xí nghiệp
Công suất ( tấn/năm)
Thiết kế
Thực hiện
Tỷ lệ
Các nhà máy chế biến từ chè tươi
Nhà máy Chè Kim Anh
1500
1250
83,3
Nhà máy Chè Hải Phòng
120
100
83,3
Nhà máy Chè Sài Gòn
200
150
75,0
Tổng cộng
1820
1450
79,7
Các nhà máy chế biến từ chè khô
Xí nghiệp Chè Phú Thọ
35
15
42,9
Xí nghiệp Chè Hạ Hỏa
25
15
60,0
Xí nghiệp Chè Đoan Hùng
27
20
74,1
Xí nghiệp Chè Yên Bái
26
20
77,0
Xí nghiệp Chè Tân Trào
16
15
93,8
Xí nghiệp Chè Trần Phú
42
15
35,7
Xí nghiệp Chè Nghĩa Lộ
46
30
65,2
Xí nghiệp Chè Thanh niên
20
15
75,0
Xí nghiệp Chè Phú Sơn
32
10
31,2
Xí nghiệp Chè Sông Cầu
23,5
20
85,1
Xí nghiệp Chè Quân Chu
13
10
76,9
Xí nghiệp Chè Long Phú
13,5
8
59,3
Xí nghiệp Chè Tuyên Quang
32
25
78,1
Xí nghiệp Chè Mộc Châu
32
25
78,1
Tổng cộng
304
211
70,5
(Nguồn : Báo cáo của Tổng công ty Chè Việt Nam)
- Tuy nhiên, việc cải tiến công nghệ, trang bị dây chuyền sản xuất mới đã thực hiện trong thời gian qua góp phần vào sự tăng lên của tổng sản phẩm chè chế biến
Giao thông vận tải
Giao thông Việt Nam hiện nay khá phức tạp và lộn xộn. Đồng thời, giá xăng đang tăng cao ảnh hưởng đên vận chuyển chè nguyên liệu từ vùng sản xuất đến các nhà máy. Hơn nữa, mức độ tập trung của các vùng trồng chè chưa cao, quy hoạch của các nhà máy chưa hợp lý làm giảm năng lực cạnh tranh của cây chè Việt Nam.
Điều kiện về cầu thị trường
Cầu thị trường trong nước
* Thực trạng
Những người uống chè theo kiểu truyền thống: ưa chuộng chè mạn được chế biến theo phương pháp thủ công. Một số lượng nhỏ trong nhóm người tiêu dùng này cũng đang tiêu thụ các sản phẩm chè xanh ướp hương. Nhóm khách hàng này hầu như không quan tâm đến mẫu mã sản phẩm.
Những người uống chè theo kiểu hiện đại: ưa chuộng những loại chè túi nhúng và hoà tan, nhất là của các nhãn hiệu nổi tiếng. Nhóm khách hàng này rất coi trọng tới mẫu mã sản phẩm, đặc biệt là biểu tượng đặc trưng. Nhóm khách hàng này tiêu dùng theo xu thế hiện đại nên uy tín của nhãn hiệu là rất quan trọng.
Nhu cầu tiêu thụ chè trong nước còn mang tính thời vụ. Mặt hàng tiêu thụ chè trong nước tăng nhanh về sô lượng nhất là vào dịp cuối năm và một số dịp lễ khác nên giá bán hay cao hơn ngày bình thường. Lượng tiêu dùng của người Việt Nam còn thấp nên số lượng chè tồn đọng còn nhều. Vì vậy, cần có một chính sách giá cả hợp lý cho những thời gian cao điểm của nhu cầu thị trường để có thể tiêu thụ hết lượng chè mà công ty của ta sản xuất ra.
Có sự khác biệt nhau về nhu cầu chè giữa các vùng trong cả nước. Ở thành phố và các khu công nghiệp, người tiêu dùng thường chấp nhận mức giá cao hơn so với ở các vùng nông thôn xa xôi. Các doanh nghiệp chè cũng nên có chiến lược giá thích hợp để chiếm lĩnh được thị trường trong nước.
Văn hoá trà Việt dường như không tồn tại trong ý thức người Việt cũ.
* Nhận xét:
Kết cấu của cầu trong nước sẽ quyết định các công ty nhận biết, giải thích và phản ứng với nhu cầu khách hàng như thế nào. Có thể nhận thấy rằng các nhãn hiệu chè của Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của lớp khách hàng thứ 2 nêu trên và để mất thị phần vào tay các nhãn hiệu nổi tiếng như Lipton của Unilever.
Ngoài ra, nhu cầu của lớp khách hàng thứ nhất khá đơn giản nên không tạo được áp lực buộc các công ty đổi mới nhanh hơn để đạt được những lợi thế cạnh tranh cao cấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Do thiếu văn hoá trà Việt đặc sắc ( như văn hoá trà Trung Quốc và Nhật Bản ) nên khó chuyển lượng cầu từ trong nước ra nước ngoài, làm giảm khả năng cạnh tranh của chè Việt Nam.
Cầu thị trường thế giới
Chè là một thức uống bổ dưỡng, có tác dụng phòng chống và chữa bệnh. Bên cạnh đó, các sản phẩm hiện đại chiết xuất từ chè đang ngày càng được ưa chuộng cho nên nhu cầu về chè trên thế giới khá lớn và đang ngày một gia tăng. Chè hiện chiếm khoảng 1/3 lượng tiêu dùng của thị trường đồ uống nóng trên thế giới. Theo tổ chức Nông Lương Quốc tế, đến đầu thế kỉ 21, đã có trên một nửa dân số thế giới uống chè. Mức tiêu thụ chè bình quân trên toàn thế giới là 0,5kg/người/năm.
Mức tiêu thụ chè trên thế giới (không kể Trung Quốc) trong năm 2004 lên đến 2,26 triệu tấn, tăng 2,3% so với năm 2003 và tiếp tục tăng trong những năm 2005 và 2006. Trung Đông, nhất là các nước xuất khẩu dầu lửa, vẫn là một trong những thị trường tiêu thụ chè mạnh nhất. Nhu cầu ở Iran, Ai Cập, và Pakixtan cũng sẽ tăng nhiều. Mặc dù đã giảm trong hai năm 2003 và 2004 nhưng mức tiêu thụ chè ở các nước Châu Âu tăng trong 2 năm tiếp đó. Đó là những tín hiệu đáng mừng cho chè xuất khẩu Việt Nam.
Tuy nhiên, phần lớn các nước xuất khẩu chè và một số nước nhập khẩu chè như Pakixtan và Iran đang tích cực khuyến khích sản xuất chè thông qua việc mở rộng và trẻ hóa các vùng trồng chè. Mới đây nhất, chính phủ Ấn Độ đã thông báo một chương trình rộng lớn về khôi phục sản xuất chè thông qua giảm thuế cho nông dân. Như vậy khả năng cạnh tranh của Việt Nam có nguy cơ tụt hậu nếu chính phủ không có các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ kịp thời.
Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh
Chiến lược doanh nghiệp
Về công tác nghiên cứu thị trường:
Hoạt động nghiên cứu thị trường trong các doanh nghiệp ngành chè vẫn chưa được quan tâm một cách thích đáng trong thời gian qua. Trước đây, có hiện tượng một số doanh nghiệp khi đã xuất khẩu vào được một thị trường rồi không chú trọng việc nghiên cứu thị trường đó nữa, do đó đã không củng cố được vững chắc vị thế của mình. Các nghiên cứu hiện nay còn thiếu chiều sâu về thị hiếu và nhu cầu cụ thể của từng loại thị trường.
Đến năm 2005, chưa có công ty chè Việt Nam nào nằm trong danh sách các nhà cung cấp của bất cứ công ty nào trên thế giới, ngoại trừ thị trường Iraq. Do chào nhiều giá và bán cho nhiều khách hàng với giá khác nhau và chất lượng không đồng đều nên các khách hàng đều mất lòng tin và không muốn xây dựng mối quan hệ lâu dài với Tổng công ty Chè Việt Nam.
Về marketing hỗn hợp:
Kế hoạch marketing của ngành chè mới chỉ dừng lại ở các nội dung như doanh số, dự kiến bán trên thị trường nào, chứ chưa làm được nhiệm vụ của nó là cung cấp cho người tiêu dùng cái mà họ cần
Về sản phẩm
Mặc dù những năm gần đây, nhãn hiệu chè của Tổng công ty đã được đổi mới, các bao bì , mẫu mã có nhiều tiến bộ như Dragon, Bamboo, Tùng Lộc, các loại chè đen, chè xanh của Nhà máy Chè Kim Anh... song so với các loại chè nhập ngoại như Lipton, Dimal, Hồng Trà... thì ta vẫn còn kém xa.
Một chuyên gia chè người SriLanka nhận định: " Trà Việt Nam hiện nay mới chỉ được coi là trà " lấp chỗ trống " trên thế giới, hình thức đóng gói được cải tiến nhưng bản thân chất lượng sản phẩm còn phải cải tiến nhiều hơn nữa.". Như vậy, Việt Nam đang rất cần đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng dần tỷ trọng các mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng và giảm dần các sản phẩm thô, sơ chế.
Chất lượng hàng hoá chưa đáp ứng kịp yêu cầu đa dạng hoá của khách hàng, lợi thế cạnh tranh tựu trung lại vẫn do giá rẻ, nhưng không phải do chủ động giảm giá để cạnh tranh mà do chưa đáp ứng được nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường thế giới.
Về chiến lược phân phối hiện nay
Chủ yếu hàng xuất khẩu của các công ty bán cho các nhà trung gian, môi giới; chỉ có một lượng rất ít bán trực tiếp cho người tiêu dùng ở thị trường Nga. Điều này làm cho doanh nghiệp mất đi một khoản lợi nhuận.
Về chiến lược giá
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang là người chấp nhận giá trên thị trường thế giới do chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa có thương hiệu. Cần có chiến lược giá để tránh việc xuất khi giá chưa tăng hết mức.
Hiện nay, trên thị trường chè, tình trạng tranh mua, tranh bán khiến sản phẩm chè Việt Nam bị bán với giá thành thấp hơn thực tế. Nhiều cơ sở sản xuất chè kém chất lượng ra đời, với hơn 3.150 sản phẩm chè khiến khách hàng gặp khó khăn trong việc lựa chọn nhà cung cấp uy tín, chất lượng. Hậu quả là, trong khi chất lượng chè Việt Nam tương đương các nước thì giá chè nước ta chưa bằng một nửa của Sri Lanka và Ấn Độ... Giá chè cũng đã giảm 50% trong vòng 7 năm qua.
Về chiến lược xúc tiến
Xúc tiến hỗn hợp bao gồm 5 công cụ: quảng cáo, khuyến mãi, bán hàng cá nhân, marketing trực tiếp và quan hệ công chúng. Hình thức xúc tiến hỗn hợp phù hợp nhất với chè là tham gia hội chợ. Thời gian qua, chỉ có Tổng công ty Chè Việt Nam là đơn vị đầu ngành đã tham gia các hội chợ khá đầy đủ, trung bình một năm 7-8 hội chợ; thông qua đó, kí các hợp đồng lớn và học tập từ các doanh nghiệp nước ngoài. Sáng 19/7/2008, Hiệp hội Chè Việt Nam tổ chức cắt băng khai trương Hội chợ Chè Việt Nam tại Hà Nội. Hội chợ tổ chức nhằm tôn vinh thương hiệu Chè Việt Nam trong cả nước và trên thế giới.
Ngành sản xuất chè Việt Nam chưa khai thác được lợi ích từ việc quảng cáo. Quảng cáo trên truyền hình thì hầu như bị các doanh nghiệp bỏ qua, quảng cáo trên radio cũng chưa được thực hiện, quảng cáo trên Internet chưa được các doanh nghiệp khai thác tối đa.
Nhìn chung, những hạn chế về nguồn kinh phí đã khién cho công tác quản bá, xúc tiến gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, những tập đoàn đa quốc gia lứon như Unilever hay Van Rees B.V đang sử dụng những nguồn kinh phí rất lớn cho xúc tiến. Do đó, không thể nào nâng cao năng lực cạnh tranh của chè Việt Nam nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước về mặt chính sách và kinh phí.
Vấn đề xây dựng thương hiệu hình ảnh chè Việt Nam
Tổng công ty Chè Việt Nam đã đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm chè tại Cục Sở hữu Công nghiệp. Lôg nhãn hiệu chè Việt Nam đã được chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng hoá.
Tuy nhiên, việc tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm chè Việt Nam thì các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa làm được. Các công ty kinh doanh chủ yếu còn chộp giật đối với các nhà máy cũng như đối với khách hàng nước ngoài. Đây cũng là lí do mà đến bây giờ chưa có một thương hiệu chè Việt Nam nào trên thị trường thế giới.
Chính phủ đã đồng ý về việc đầu tư xây dựng thương hiệu cho chè Việt Nam, với số tiền 27,5 tỷ đồng; trong đó, Nhà nước hỗ trợ 70%, các DN đóng góp 30%. Việc xây dựng thương hiệu sẽ được triển khai trong 2 năm 2004-2005. Gần đây nhất, Hiệp hội Chè Việt Nam đã tổ chức Ngày Chè Việt Nam 2008 từ ngày 18 - 20/7/2008 tại Hà Nội để quảng bá cho thương hiệu chè Việt Nam.
Cơ cấu và môi trường cạnh tranh trong ngành công nghiệp chè
Chính sách của chính phủ
Cùng với chính sách đổi mới, Chính phủ đã đầu tư lớn vào việc xây dụng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Nhiều chính sách khuyến khích đàu tư phát triển chè đã được ban hành; các tiến bộ về khoa học kĩ thuật về giống, hệ thống canh tác, hệ thống chế biến chè đã được chú ý đầu tư đến tận hộ nông dân và cơ sở sản xuất.
Cây chè đã được Nhà nước xác định là một trong số những cây chủ lực, cây xoá đói giảm nghèo, và phải được quan tâm đầu tư từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
Chè là 1 trong 13 mặt hàng được ưu tiên vay vốn theo quy chế tín dụng ưu đãi xuất khẩu từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Đồng thời chè cũng thuộc diện các mặt hàng được thưởng theo kim ngạch xuất khẩu từ năm 2001.
Năm 1999, Chính phủ đã kí với Ngân hàng ADB Dự án phát triển chè và cây ăn quả nhằm phát triển, nghiên cứu tăng năng suất sản lượng các loại cây này .
Hiệp hội chè Việt Nam đang được củng cố để khẳng định vị trí và phát huy vai trò trong việc gắn kết các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, là nơi cung cấp thị trường, xúc tiến thương mại, các hoạt động dịch vụ về giống, khuyến nông, chuyển giao công nghệ cũng như tư vấn cho chính phủ về quy hoạch, kế hoạch phát triển cây chè.
Chính phủ đã phê duyệt danh mục dự án nghiên cứu khả thi "Xây dựng sàn đấu giá chè" của Hiệp hội Chè Việt Nam, dự kiến sử dụng 385.740 euro viện trợ không hoàn lại từ Quỹ tăng cường năng lực thương mại do AFD tài trợ.
Theo Hiệp hội Chè, Việt Nam cần phải thiết lập thị trường đấu giá để có các tiêu chuẩn cho nền công nghiệp và thương mại chè. Các sàn đấu giá sẽ là nơi để các bạn hàng theo dõi, xem và mua hàng một cách thường xuyên. Đây còn là nơi quảng bá cho các sản phẩm và DN chè trong nước trên thị trường thế giới. Trên sàn đấu giá, người mua và người bán có thể thống nhất về giá cả một cách công khai để mua và bán đều đúng giá. Nhờ vậy, sẽ loại bỏ được các loại chè kém chất lượng có xuất xứ Việt Nam, gây tác động tiêu cực đến uy tín của ngành chè.
Cơ hội mà việc hội nhập kinh tế thế giới mang lại
Trong quá trình hôị nhập kinh tế quốc tế, các cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế cũng đem lại những cơ hội và thách thức, ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu
Tham gia Hiệp hội chè xanh thế giới
Tại festival tổ chức ở Shizuoka, Nhật Bản trong 3 ngày từ 1 đến 3/11/2004, Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas) chính thức gia nhập Hiệp hội Chè xanh thế giới.
Việc thành lập Hiệp hội Chè xanh thế giới nhằm kêu gọi các nước hợp tác kiểm tra, kiểm soát không cho sản xuất lưu thông và tiêu thụ chè xanh có dư lượng hóa chất độc hại. Hiệp hội Chè xanh thế giới sẽ cùng Hiệp hội chè các nước xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện việc kiểm soát nói trên. Như vậy, việc tham gia hiệp hội này sẽ tạo sức ép lớn hơn để Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm chè, đáp ứng các yêu cầu về kĩ thuật mà các nước bạn hàng lớn đặt ra. Đồng thời, Việt Nam cũng gặp phải thách thức mới khi mà việc lưu thông chè không đạt chất lượng, hiện đang chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng sản lượng của Việt Nam, sẽ bị kiểm soát gắt gao hơn. Tuy nhiên, về dài hạn, trở thành thành viên của Hiệp hội Chè xanh thế giới sẽ tốt cho sự phát triển của ngành chè xuất khẩu Việt Nam.
Hiệp hội Chè xanh thế giới còn làm cầu nối cho các nhà mua bán trực tiếp giao dịch với nhau, là trung tâm cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho sản xuất và kinh doanh chè của các nước. Vitas sẽ phối hợp với thương vụ Việt Nam tại Tokyo tổ chức triển lãm, trưng bày các mặt hàng, giới thiệu văn hóa chè Việt Nam, góp phần quảng bá và làm tăng thị phần cho chè Việt Nam.
Hợp tác với ASEAN
Từ năm 2005, trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã tham gia vào tất cả các hoạt động của ASEAN, trong đó quan trọng nhất là các cam kết thực hiện Hiệp định về Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA). Đối với hàng nông sản, trong năm 2003, Việt Nam đưa 50 dòng thuế vào Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT ) để hoàn thành việc cắt giảm thuế xuống 0-5 % vào ngày 1/1/2006. Các mặt hàng nông sản chế biến sẽ phải cạnh tranh gay gắt, trong khi điều này lại không đáng ngại đối với nông sản thô.
Chè là các mặt hàng có hệ số an toàn thấp hơn các mặt hàng nông sản thô như gạo, nói cách khác, mức độ cạnh tranh sẽ khá cao. Chất lượng chè chế biến của Việt Nam không cao bằng Indonesia, một nước trong khu vực, cho nên khả năng chè của Việt Nam bị cạnh tranh bởi chè của Indonesia là khá lớn. Tuy nhiên, việc cắt giảm thuế quan trong ASEAN cũng mở ra cơ hội mở rộng thị trường chè xuất khẩu trong khu vực Đông Nam Á cho Việt Nam.
Điểm nổi bật trong Hiệp định khung nói trên là ASEAN và Trung Quốc sẽ thành lập một Khu vực mậu dịch tự do (ACFTA) trong vòng 10 năm. Trong đó, 6 nước thành viên cũ của ASEAN và Trung Quốc sẽ phải hoàn thành nghĩa vụ cắt giảm thuế xuống 0% vào năm 2010. Riêng đối với Việt Nam, thời điểm phải xoá bỏ hoàn toàn thuế quan trong ACFTA là vào năm 2015, tương tự như thời điểm cắt giảm thuế trong AFTA. Tuy nhiên, lịch trình và tiến độ cắt giảm trong ACFTA sẽ khác so với cắt giảm trong AFTA.
ASEAN và Trung Quốc đã và đang tiếp tục đàm phán để xác định từng danh mục cũng như lộ trình cắt giảm. Tuy nhiên, có thể thấy rõ là tiến độ cắt giảm thuế trong ACFTA sẽ nhanh hơn so với tiến độ cát giảm thuế trong AFTA. Có chuyên gia đánh giá, tham gia ACFTA, hàng nông sản Việt Nam ( trong đó có chè) sẽ có lợi thế xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc rộng lớn do giáp đường biên giới, giảm chi phí giao dịch, vận tải, thanh toán.
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Theo cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đến năm 2005, mức thuế trung bình của hàng hoá xuất nhập khẩu sẽ giảm từ 30-40% xuống còn 10-29% . Riêng hàng nông sản đã cam kết giảm thuế đối với 195 dòng thuế, chủ yếu là nông sản chế biến, mức thuế giảm từ 35,5% xuống còn 25,7 %.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ tạo điều kiện cho hàng nông sản Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ do thuế MFN thấp hơn nhiều so với mức thuế không MFN, nhưng cũng lại là thách thức lớn đối với những hàng nông sản Việt Nam do khả năng cạnh tranh còn thấp.
Gia nhập WTO
Vào ngày 1/1 /2007, Việt nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO
“Sân chơi” WTO quy định 4 “luật chơi” cũng chính là 4 thách thức trong sản xuất nông sản mà chúng ta đang thiếu: Đó là luật chơi về số lượng với yêu cầu hàng hóa phải lớn về số lượng, đồng bộ về kích cỡ, màu sắc, bao bì và thời gian giao hàng chính xác. Hai là luật chơi về chất lượng với chứng chỉ xác nhận về nguồn gốc giống, chất lượng sản phẩm... để chứng minh mặt hàng đảm bảo về chất lượng. Ba là, giá rẻ để có thể cạnh tranh, yếu tố quyết định như một thứ luật bất thành văn của bất cứ quốc gia nào muốn tham gia “cuộc chơi” này. Và cuối cùng là luật chơi về an toàn thực phẩm, với yêu cầu hàng hóa phải có chứng chỉ nông nghiệp an toàn hay còn gọi là nông nghiệp tốt (GAP - Good Agricultural Practices) để đảm bảo tính vệ sinh và an toàn sản phẩm.
Ngoài ra, đối với các mặt hàng nông phẩm, Việt Nam phải thực hiện thuế hoá các biện pháp phi thuế và cam kết thuế, coi thuế là biện pháp duy nhất để bảo vệ sản xuất trong nước; đồng thời cũng phải tiến hành cắt giảm thuế. Hàng rào bảo hộ đối với mặt hàng chè không còn như trước đây nữa khiến cho chè Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn với các sản phẩm chè nhập khẩu chất lượng cao và có nhãn hiệu.
Tuy nhiên, WTO mang lại cho Việt Nam một “sân chơi” khổng lồ, với hơn 5 tỷ người tiêu thụ, 95% giá trị thương mại thế giới và kim ngạch nhập khẩu trị giá 635 tỷ USD/năm. Sản lượng chè xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 thực tế đã tăng khoảng 8,63 %, đạt 704,9 nghìn tấn chè búp tươi ( theo Tổng cục thống kê). Chè Việt Nam đã được xuất sang 107 thị trường trên thế giới, trong đó có 68 thị trường thuộc các quốc gia thành viên của WTO cho nên quy tắc MFN sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam trong việc mở rộng thị trường.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MẶT HÀNG CHÈ XUẤT KHẨU
Thực trạng sản xuất và xuất khẩu chè của Việt Nam những năm qua đã đạt được nhiều thành công về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên hoạt động sản xuất và xuất khẩu chè của chúng ta không ổn định, bị ảnh hưởng nhiều bởi những biến động bất lợi trên thế giới. Nguyên nhân là do tăng trưởng của chúng ta chủ yếu phụ thuộc vào số lượng chứ chưa có những phát triển về chất. Những yếu kém này đòi hỏi chúng ta phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ trên cả ba phương diện: Nhà nước-Ngành chè-Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chè.
Các giải pháp từ phía Nhà nước
Chè là loại hàng hóa đặc thù, vì vậy Nhà nước nên tổ chức quy mô vừa đa dạng vừa tập trung. Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, thu mua và thu gom nhưng cần tập trung xuất khẩu vào các đầu mối lớn. Có như vậy, Nhà nước vừa dễ kiểm soát vừa nâng cao được chất lượng chè xuất khẩu tránh cạnh tranh lẫn nhau giữa các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường chè thế giới. Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước bằng việc hoàn chỉnh hệ thống chính sách tổ chức sản xuất và quản lý xuất khẩu chè. Đồng thời, tạo cơ chế thuận lợi phù hợp với các định chế quốc tế nhằm hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp như đa dạng hóa các nguồn vốn cho phát triển chè, áp dụng chính sách cho vay ưu đãi và linh hoạt đối với các doanh nghiệp chế biến chè, có chính sách thuế, chính sách trợ cấp phù hợp. Xây dựng và chú trọng bảo hộ thương hiệu quốc gia đối với mặt hàng chè, tù đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên phương diện quốc gia. Gắn chính sách lưu thông nội địa và hoạt động ngoại thương với snả xuất. Chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng đa phương hóa đa dạng hóa gắn liền với việc củng cố thị trường đã có và xây dựng mới. Thực hiện chủ trương hội nhập, tham gia vào cộng đồng quốc tế.
Các giải pháp từ phía ngành chè
Đối với ngành chè cần làm tốt công tác quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu, tổ chức phân công lại lao động. Xây dựng chiến lược sản phẩm, đầu tư khoa học kỹ thuật công nghệ chế biến, xuất khẩu chè. Đa dạng hóa các sản phẩm tổng hợp có chè và khai thác các sản phẩm từ đất chè. Để tăng được thị phần trong nước cũng như ở nước ngoài, ngành chè cần nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu của từng thị trường, nhu cầu về sản phẩm, về dung lượng đối với từng loại, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu các dịch vụ vận tải, thanh toán, luật pháp, phong tục. Bên cạnh đó để phát triển bền vững ngành chè cần đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật tại cơ sở. do hiện tại lực lượng can sbộ kỹ thuật còn thiếu, trình độ còn yếu kém, tay nghề chưa cao, trong sản xuất chưa kiên quyết uốn nắn theo quy trình, chưa phát hiện được kịp thời các khuyết tật và sự cố xảy ra. Chú trọng quản lý chặt chẽ chất lượng sản phẩm đồng thời tổ chức bảo vệ và quảng bá thương hiệu chè Việt Nam.
Các giải pháp từ phía Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chè
Về phía mình, các doanh nghiệp cũng cần nâng cao chất lượng nguyên liệu đầu vào bằng cách áp dụng hệ thống quản lý chất lựong ISO hoặc HACCP. Xây dựng tiêu chuẩn chè xuất khẩuvà tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn của doanh nghiệp, của ngành và của Nhà nước để tạo dựng thương hiệu, hình ảnh trên thị trường thế giới trên cơ sở đó tiến tới cải thiện giá. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng các loại thuốc hóa chất đối với cây chè, quản lý chỉ đạo kỹ thuật công nghệ chế biến, đảm bảo tạo ra chất lượng sản phẩm tốt ngay tại cơ sở, ngay trên dây chuyền sản xuất. Xây dựng và phát triển hệ thống thu mua. Để làm đựợc vấn đề này nhiệm vụ trong thời gian tới là phải lựa chọn một mạng lưới các nhà cung cấp trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng, việc bao tiêu sản phẩm của các công ty phải tuân theo các quy định về chất lượng. Xây dựng lòng tin, mối quan hệ tốt luôn luôn lắng nghe và hợp tác trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng với các công ty sản xuất tốt tôn trọng đạo đức kinh doanh và cần phải có các biện pháp kiên quyết xử lý đối với những công ty vi phạm. Cuối cùng giá thu mua phải hấp dẫn hơn các dịch cụ đưa ra phải có hiệu quả hơn. Đổi mới hệ thống phân phối và đa dạng hóa phương thức bán hàng là một việc then chốt cần tiến hành ngay. Chiến lược Marketing trong thời gian tới cần áp dụng hình thức xuất khẩu chủ động có chiến lược, kế hoach khoa học. Số lựơng khách hàng tại một thị trường hau một khu vực cần ở mức tối thiều hợp lý để tạo sự cạnh tranh có lợi cho người bán tại nước nhập khẩu. Cũng cần đẩy mạnh các hình thức chào hàng, quảng cáo, tham gia hội chơj triển lãm hàng quốc tế, gửi các lô chè chào hàng đến thị trường đấu giá chè, tạo sự hiện diện của chè Việt Nam trên thị trường thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS Nguyễn Hữu Khải, 2005, Cây chè Việt Nam năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển, nhà xuất bản lao động xã hội.
GS, TS Bùi Xuân Lưu, 2006, giáo trình Kinh tế Ngoại thương, nhà xuất bản lao động xã hội
Niên giám thống kê 2007, Tổng cục thống kê Việt Nam.
Trang web của Tổ chưc lương thực thế giới : www.fao.org
Trang web của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam: www.agroviet.gov.vn
Báo điện tử : vietnamnet.vn/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan.doc
- Slide.ppt