Tiểu luận Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá là nhằm mục tiêu biến đổi nước ta thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo ra sự chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nước ta về kinh tế chính trị - quốc phòng - an ninh. Quá trình công nghiệp hoá hiện nay mới chỉ là bước đầu những thành tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đạt được rất đáng khích lệ. Việc Đảng và Nhà nước chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là hết sức đúng đắn. Bằng sự thông minh, sáng tạo cần cù con người Việt Nam chúng ta hoan toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng Châu á và chúng ta hoàn thành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước Việt Nam sánh vai các nước bạn bè trong cộng đồng quốc tế trên con đường phát triển.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời mở đầu Công cuộc xây dựng xã hội mới phải được tiến hành toàn diện trên các mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và những con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Xây dựng cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta, nền sản xuất nhỏ, là thuật thủ công là chủ yếu... công nghiệp hoá là quá trình chủ mang tính quy luật để tạo ra cơ sở vật chất - là thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Chính vì vậy tại đại hội VIII Đảng ta khẳng định: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên CNXH - là nhiệm vụ sắp tới của dân tộc ta. Những thành tựu sau 10 năm đổi mới, đặc biệt là kết quả thực hiện vượt mức những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm1991 - 1995 đã đưa nền kinh tế nước ta khỏi khủng hoảng và tạo được nhứng tiền đề cho phép chuyển sang giai đoạn của sự phát triển đất nước. Cũng tại đại hội lần thứ VIII của Đảng công sản Việt Nam xuất phát từ nguyện vọng và ý chí của nhân dân. Từ điều kiện và khả năng thực tế của đất nước trong bối cảnh và xu thế của thời đại ngày nay đã khẳng định quyết tâm phấn đấu đưa nước Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào khoảng năm 2020. Từ lý do trên em quyết đinh chọn đề tài "Tính tất yếu của quá trình CNH, HĐH trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay". Cho bài tiểu luận này. Với chút hiểu biết ít ỏi của mình, em mạnh dạn xin được trình bày một số ý kiến cá nhân mình với hy vọng góp phần nhỏ bé làm phong phú thêm hệ thống lý luận trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn quan tâm đến đề tài này để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn và trân trọng ý kiến đóng góp. B. Nội dung I/ Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 1. Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong qua trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất được hiểu ra sao: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người phải có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm ba mặt. - Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai. - Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân. - Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng ,cơ bản nhất vì trong một nền sản xuất xã hội giai cấp nào, lực lượng nào nắm được những tư liệu sản xuất của xã hội, giai cấp đó có quyền tổ chức điều khiển quá trình sản xuất, quy định, mục đích của nền sản xuất và quyết định cách thức sản phẩm sao cho có lợi cho giai cấp mình và nó trở thành giai cấp thống trị giai cấp bóc lột còn những giai cấp không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất chủ yếu thì không có được quyền như giai cấp có tư liệu sản xuất và sớm hay muộn trở thành người làm thuê bị thống trị. 3. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. a. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp. Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859 C.Mác viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất. Những qui luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ..." Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất". Cho đến nay hầu như qui luật này đã được khẳng định cũng như các nhà nghiên cứu triết học Mác xít. Khái niệm "phù hợp" được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau. - Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự yên tính" giữa các mặt. - Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới. Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối. Chính đâylà nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng. Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động. Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế. - Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ đi lên một nền sản xuất lớn. Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có , nó do quá trình tính luỹ về lượng ngay từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu như không có gì nhưng trải qua sự nỗ lực của con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử giời đây con người đã tạo ra được những thành công đáng kể. Thành tựu đạt được là do quy luật phát triển do tự thân vận động của con người trong toàn xã hội. Ngày nay công cuộc xây dựng các nước đã cố gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chay đua về kinh tế. Thể hiện là các chính sách, đường lối về phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không giống nhau nên cách thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta hiện nay (nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu...) công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật, tất yếu để tồn tại và phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới: - Xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. - Mới tiến hàng tái sản xuất mở rộng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, mới tích luỹ về lượng mới để xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. - Mới tăng cường phát triển lực lượng giai cấp công nhân. - Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. - Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con người mới ở Việt Nam. Như vậy công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật cả các nước đi từ một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn. b. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở thành nước kiệt quệ đã trở thanh một trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn. - Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70. Giai đoạn này sử dụng khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá các công cụ sản xuất, phát triển kinh tế theo hướng mở rộng và tăng thêm các yếu tố sản xuất. Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất cả về con người và công cụ sản xuất. Bình quân tăng trưởng kinh tế hàng năm ở các nước kinh tế phát triển là 5,6%. Tốc độ tăng trưởng này được giữ nguyên trong vòng 20 năm kể từ năm 1950 đến 1970. - Giai đoạn hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn đang tiếp tục rất mạnh mẽ. Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với qui mô lớn và toàn diện trên lực lượng sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng những phương tiện kỹ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm lên cao. Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây là thời kỳ mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế. Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của XHCN. Để có cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn,không còn con đường nào khác là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao. Muốn vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát triển nhảy vọt, cùng một lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao động thô xơ sang lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của nhà nước theo định hướng XHCN. Một số định nghĩa: * Định nghĩa công nghiệp hoá: Công nghiệp hoá được định nghĩa và có nhiều quan niệm khác nhau song nó thường được hiểu là một quá trình gắn liền với việc xác định một cơ cấukinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế nhằm thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu cácnguồn lực và lợi thế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Tổ chức phát triển nông nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa: “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong các quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế, nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là óc một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đámự tiến bộ về kinh tế xã hội. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ ,lao động thủ công là phổ biến .cái thiếu thốn nhất của chúng ta là là một nền đại công nghiệp .chính vì vậy ,chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoa .trong thời đại ngay nay ,công nghiệp hoá phải gắn liền với hiên đại hoá .công nghiẹp hoá hiên đại hoá ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỉ thuật cho chủ nghĩa xã hội .đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xa hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng ta đã chỉ ra :"con đường công nghiệp hoá ,hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian ,vừa có những bước tuần tự ,vừa có những bước nhảy vọt .phát huy những lợi thế của đất nước ,tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến , ddawcj biệt là công nghệ thgông tin và công nghệ sinh học ,tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn ,ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thanh tựu mới về kghoa học kĩ thuật và công nghệ ,từng bước phát triển kinh tế trí thức .phát huy nghuon lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của nghười việt nam ;coi phat triển giáo dục và đào tạo ,khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự ngjhiệp công nghệ hoá hiện đại hoá . từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang gtiai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá ,hiện đại hoấphns đấu đến năm 2020cơ bản trở thành một nước công nghiệp .đây cũng là yếu tố có ý nghĩa quết định chống lại 'nghuy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới 'sự nghiệp xây dưng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thanh công sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nươc *: Hiện đại hoá Khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của hiện đại hoá. Hiện đại hoá có nội dung lớn và phong phú, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá. Hiện đại hoá thường được định nghĩa là một quá trình nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế xã hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát triển hiện đại hoá cưỡng bức, dập khuôn sẽ làm bại hoại cho quốc gia vì nó đối nghịch với bản sắc dân tộc, thù địch với dân chủ. II. Một số vấn đề thực tiễn lý luận trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá. 1. Lý luận chung: Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này dược biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác, con người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời – phương thức sản xuất – mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, và lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức cũ lạc hậu tất yếu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những là thước đo thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người với người trong sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội. Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế xã hội, là cơ sở thực hiện hoạt động sản xuất tinh thần của con người của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội. Ph. Ang - ghen khẳng định "Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển theo một quá trình tự nhiên, và về căn bản cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau". Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và "một xã hội ngay cả khi đã phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó ... cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ nhưng giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng "nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ". Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch sử tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thaí kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời đại. Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo, phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì một mặt, chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ xã hội mới. ở đây "công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với căn bản công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và theo định hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động, thúc đẩy hỗ trợ cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp". Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội để xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở nước ta. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc cách mạng đó phải thực hiện là "tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái". a. Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá: - Như ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội đuợc xây dựng tất cả các nước XHCN đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế này duy trì một thời gian khá dài và được xem là đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội. Thật sự thì không phải như vậy. Nền kinh tế tập chung không phải là sản phẩm riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, cũng nưh nền kinh tế thị trường không phải là duy nhất được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập chung đã được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản được các nươc stư bản áp dụng từ trước khi nhiều nước xác lập XHCN nhưng họ đã xoá bỏ nó để chuyển sang cơ chế thị trường. Nhưng công bằng mà nói cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo sự t ăng trưởng và phát triển xã hội theo quan điểm Mác - Lênin thì xã hội cộng sản là một xã hội tiên tiến, con người có thể "làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu" nhưng thực tế trong chủ nghiã xã hội của cải xã hội chưa đạt đến mức hết sức phong phú, dư thừa và cả trong giai đoạn tiếp theo, do vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tồn tại nền sản xuất kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là lẽ đương nhiên. . - Đổi mới ở nước ta không chỉ giới hạn về lĩnh vực kinh tế mà còn tạo điều kiện cho chúng ta nhận thức mới chính xác hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa Mác - lênin tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đây ta nhận thức chưa đúng, hơn thế ta còn nhận thức sai lầm nghiêm trọng đầy ảo tưởng duy ý chí về mình. Chúng ta đã nhận thức lại và đánh giá đúng sự thật. Nhờ đổi mới tư duy nhiều ván đề về công nghiệp hoá - hiện đại hoá được nhận thức lại. - Bảo vệ vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là mục tiêu nhiệm vụ không kém phần quan trọng, làm sang tỏ thêm ý nghĩa vai trò cách mạng của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta hiện nay. Chủ nghĩa Mác - lênin là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không có ai có thể phủ nhận rằng khi lý luận đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân thế giới đã làm lên biến cố lịch sử vĩ đại do vậy Đảng ta đã tuyên bó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng. - Các nước tư bản chủ nghiã đã thực hiện thành cường quốc về kinh tế, nhưng họ lại bất lực trước vấn đề giải quyết quanhệ xã hội họ mang tư tưởng bảo thủ lấy hiện tượng che lấp bản chất, công cuộc đổi mới mục đích là vì kinh tế chứ không phải là vì con người. Một xã hội vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chính thì con người chỉ là kẻ làm thuê luôn bị bóc lột sức lao động của mình không hưởng quyền của con người. Hiện nay Đảng ta đã đi đôi với công nghiệp hoá đất nước phải thực hiện mục tiêu "ổn định chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân". - Một mục tiêu cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính cách mạng của công nghiệp hoá Việt Nam đó là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá - hiện đại hoá "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh". b. Đường lối chỉ đạo: - Nội dung của công nghiệp hoá ở nước ta bao gồm 2 nội dung chủ yếu là trang bị kỹ thuật và công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. - Các Mác nhận xét khoa học là động lực của công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hội nghị TW II một lần nữa nhấn mạnh "cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, là nhân tố quyết định công nghiệp hoá - hiện đại hoá" - Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một hoạt động có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào nhân tố dân số và nhu cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm tàng của đất nước, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn tích lũy quan hệ kinh tế quốc tế. Theo qui luật của vận động thì đấu tranh là cha đẻ của vận động. ở nước ta là một nước có nền kinh tế thấp thì việc tồn tại 5 thành phần kinh tế là tất yếu. 5 thành phần đó là: kinh tế nhà nước (quốc doanh), kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo dưới sự lãnh đạo của Nhà nước. Việc tồn tại 5 thành phần kinh tế là khách quan nhưng kiểm soát được nhằm đảm bảo các qui luật của cạnh tranh (có cạnh tranh mới có phát triển) của nội bộ ngành kinh tế theo hướng XHCN. Tổng kết: Nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ, từ nhận thức trên nền trong thực tiễn không thể dẫn đến những sai lầm nôn nóng trong cách làm và bước đi, thiếu kết hợp hài hoà quá trình vận dụng quy luật tuần tự với qui luật nhảy vọt, để tìm ra mô hình phát triển nhanh, đưa nước ta phát triển theo định hướng đã định. - áp dụng một cách máy móc mô hình "kinh tế chỉ huy" và theo đó là cơ chế quan liêu bao cấp mang nặng tính hiện vật kéo dài, chính mô hình và cơ chế này đã vi phạm nghiêm trọng qui luật lợi ích của người lao động và của chủ thể kinh tế. Vô tình hay hữu ý đã xoá đi những mặt tích cực của kinh tế thị trường, làm kìm hãm sự phát triển khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất. 2. Thực tiễn: a. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy mọi quá trình công nghiệp hoá thành công cho đến nay đều đòi hỏi phải có các điều kiện sau đây: + Thứ nhất là thị trường. Lịch sử nhân loại chưa có một quốc gia nào khi công nghiệp hoá mà không cần đến thị trường, vốn, công nghệ, lao động, tài nguyên. Các chính sách tự do hoá thương mại, giá cả, tín dụng ... Là cực kỳ quan trọng trong việc mở rộng thị trường trong nước còn thị trường ngoài nước, trong thời kỳ trước các quốc gia đã phải dùng chiến tranh để phân chia thị trường thế giới. Ngày nay người ta không còn chiến tranh mà vẫn mở rộng thị trường thông qua thoả thuận ký kết các hiệp nghị thương mại giữa các quốc gia trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Đối với Việt Nam thì thị trường có ý nghĩa rất quan trọng, đồng thời Việt Nam là thị trường hấp dẫn cho việc đầu tư nước ngoài. + Nguồn nhân lực: Đây là một trong những hạt nhân của lực lượng sản xuất. Thực tế ở các nước đã tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá cho thấy là việc xác lập một cơ cấu nguồn nhân lực thích hợp, đầu tư tài chính đủ cho giáo dục và y tế, thực hiện cơ chế thị trường trong việc sử dụng nhân lực kết hợp với chính sách ưu đãi. Là nguồn gốc cơ bản của thành công. Đối với Việt Nam không còn con đường nào khác là hợp tác trung tâm kỹ thuật có nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời đẩy mạnh giáo dục đào tào. + Thứ ba là công nghệ và vốn: Để phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất của XHCN thì không thể không cần đến công nghệ và vốn. Thực tế cho thấy các nước đi trước phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đều dựa chủ yếu vào phát triển công nghệ và vốn. Đối với Việt Nam thì thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài là cần thiết đồng thời có chính sách thu hút vốn trong nước và phát triển công nghệ với 3 đặc trưng chủ yếu trên mô hình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt nam phải tận dụng tối đa lợi thế của nền kinh tế phát triển cao hơn, có chính sách cụ thể đúng đắn để điều chỉnh sự vận động của các nhân tố trên phục vụ đắc lực vào thực tiễn. b. Những thuận lợi khó khăn * Những khó khăn: Tiến hành CNH – HĐH theo định hướng XHCN là mục tiêu con đường phát triển lớn nhất quan trọng nhất của nước ta trong giai đoạn tới. Trong thời kỳ đầu của CNH – HĐH chúng ta còn đứng trước nhiều điều mới mẻ, nhận thức về CNH, HĐH còn hạn chế bởi nước ta vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh tàn khốc, điểm xuất phát kinh tế thấp từ một cơ cấu kinh tế mất cân đối và kết cấu hạ tầng thấp kém. Vốn là chìa khoá là nhân tố quan trọng để thực hiện CNH, HĐH thế nhưng khả năng huy động vốn cho quá trình này rất bị hạn chế. Hiện nay trong tổng số vốn dùng để đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thì vốn trong nước chỉ có 25% còn 75% là vay nợ nước ngoài. Quản lý và sử dụng kém hiệu quả cùng với tham nhũng sẽ dẫn đến nguy cơ gánh nặng nợ nần lớn và khả năng trả nợ khó khăn. Tiếp đó, bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi vừa đặt ra những thử thách nguy cơ. Đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt (Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, Tr 79). Nước ta lại nằm ở khu vực châu á Thái Bình Dương và Biển Đông, nơi đang có những diễn biến phức tạp, nơi đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định. Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chưa xóa bỏ hết cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hình thành. Quản lý kinh tế xã hội còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh kém hiệu quả... có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình CNH, HĐH đến việc thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ... Đặc biệt tệ quan liêu tham nhũng và suy thoái về phẩm chấ, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên... làm cho các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng đó cũng là mảnh đất thuật lợi cho diễn biến hoà bình. * Những thuận lợi. Bước vào thời kỳ CNH, HĐH nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi. Trên thế giới cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển vào trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép chúng ta có thể khai thác được những yếu tố nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ thị trường...) và những nguồn lực bên trong của đất nước có hiệu quả, thực hiện CNH, HĐH rút ngắn, kết hợp các bước đi tuần tự với nhảy vọt, vừa tăng tốc, vừa chạy trước, đón đầu. Nhà nước tiến hành CNH, HĐH đi sau chúng ta có lợi thế của con người đi sau. Chúng ta có thể tiến hành được những thất bại mà những nước đi trước gặp phải. Lợi dụng cơ hội là đi thẳng vào công nghệ tiên tiến thích hợp với Việt Nam, đạt được sự phát triển nhanh bền vững. Đất nước sau 10 năm đổi mới đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội nhiều tiền để cần thiết cho CNH, HĐH đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có những thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để bước vào một thời kỳ phát triển mới. Nước ta có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu kinh tế. Nằm trên bán đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam á Viẹt Nam là cửa ngõ đầu mối giao thông của các tuyến đường quốc tế quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động và được coi là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Do đó, chúng ta có điều kiện để mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại có điều kiện thu nhập và xử lý thông tin nhanh chóng. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 28/7/1995 và Mỹ bỏ lệnh cấm vận 3/2/1994 mở ra một hướng phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thêm điều kiện thuận lợi để hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Bên cạnh đó tình hình kinh tế chính trị tự ổn định nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn lực vật chất được tăng cường mức sống nhân dân tăng nhanh rõ rệt, sản lượng lương thực thực phẩm đã tăng lên đáng kể; nếu như 1996 nước ta xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới thì đến cuối 1997 nước ta đã vượt lên đứng thứ 2 trên thế giới xuất khẩu gạo sau Mỹ, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ trong năm 1991 – 1995 nhịp độ tăng hàng năm về GNP đạt 8,2% vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 chiếm 18,8% GNP đến 1995 tăng lên 27,4% GNP. Sự nghiệp giáo dục đào tạo của đất nước có nhiều tiến bộ, trình độ dân trí được nâng lên nhờ đó có thể tiếp thu dễ dàng những tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cho quá trình CNH, HĐH. Ngoài ra nước ta còn có những thuận lợi quan trọng khác và nó được coi là nguồn nội lực không thể thiếu được cho quá trình CNH, HĐH: có chế độ chính sách ưu việt phù hợp cho từng ngành nghề, nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú. Như vậy qua phân tích trên ta thấy với những tiềm năng trên cộng với đường lối chính sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi vượt qua những thử thách, thực hiện thắng lợi cộng với đường lối chính sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi vượt qua những thử thách, thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH đất nước thành một nước công nghiệp vào năm 2000. Căn cứ vào sự đổi mới thực sự toàn diện về lý luận và thực tiễn của quá trình CNH ở nước ta chia làm hai giai đoạn cơ bản: giai đoạn từ 1960 – 1980 và giai đoạn 1986 đến nay * Giai đoạn 1960 – 1986: Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được xác định từ Đại hội Đảng lao động Việt Nam lần thứ III (9/1960). Tại đại hội này Đảng ta khẳng định: Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hoá XHCN, mà vấn đề mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Chủ trương về công nghiệp hoá là: Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ... Thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung một nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh thủ viện trợ, giúp đỡ của các nước XHCN đầu tư trang bị lại và xây dựng mới hàng loạt các cơ sở sản xuất và các ngành kinh tế. Chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta đã hình thành một cơ cấu kinh tế đa ngành trong đó các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, khai thác than... Cơ cấukinh tế đã có sự cấu trúc lại, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp trong tổng sản phẩm, xã hội không ngừng tăng từ 31,7%(1960) lên 42,7%(1978). Nông nghiệp giảm từ 31,5% xuống 29,3%khối lượng vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định trong các ngành tăng nhanh đặc biệt là công nghiệp nặng. Sau 1975 tình hình trong và ngoài nước có nhiều thay đổi lớn. Tốc độ tăng bình quân về sản phẩm xã hội chỉ đạt bình quân 1,4, hội chi ngân sách 2,1 lần trong thời kỳ 1976 – 1980. Đại hội Đảng lần thứ V khẳng định: Nội dung của công nghiệp hoá XHCN trong 5 năm (1981 – 1985) và những năm 80 ta tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Nhờ kết quả của sự điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đầu tư này đã đạt được những tiến độ đáng kể. Tốc độ tăng bình quân tổng sản phẩm xã hội 7,3% thu nhập quốc dân tăng 6,4%, công nghiệp 9,5% nông nghiệp 5,1%. Song việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất diễn ra chậm, ứng dụng khoa học kỹ thuật và mức độ đổi mới trang bị kỹ thuật thấp, chậm. Nền kinh tế vẫn khủng hoảng tình hình kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn. * Giai đoạn từ 1956 đến nay Đây là thời kỳ đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ cả về quan điểm, nhận thức cũng như tổ chức chủ đạo thực hiện CNH đất nước. Đại hộiVI khẳng định: “tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường tiếp theo” và trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 – 1990, phải thực sự tập trung sức người sức của vào việc thực hiện cho được ba mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu... Sự chuyển hướng chiến lược cùng với những thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế đã thu được những hiệu quả đáng khích lệ. Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là chúng ta bước đầu hình thành một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ đó trong thời kỳ từ 1986 – 1990 chúng ta đã đạt được tốc độ tăng bình quân của tổng sản phẩm xã hội là 4,5% thu nhập quốc dân 3,9% giá trị sản lượng công nghiệp 3,9%, nông nghiệp 3,8% giá trị xuất khẩu 28%, nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành: dầu mỏ, than đá, lâm, hải sản, gạo. Lần đầu tiên sau hơn 30 năm chúng ta gần như lập được cânđối giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong tình hình nguồn viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu không còn nữa. c. Kết luận: Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm tới những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay đổi mới hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính trị - xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa mác - lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh điều kiện mới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá là nhằm mục tiêu biến đổi nước ta thành nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo ra sự chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ mặt nước ta về kinh tế chính trị - quốc phòng - an ninh. Quá trình công nghiệp hoá hiện nay mới chỉ là bước đầu những thành tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đạt được rất đáng khích lệ. Việc Đảng và Nhà nước chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là hết sức đúng đắn. Bằng sự thông minh, sáng tạo cần cù con người Việt Nam chúng ta hoan toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng Châu á và chúng ta hoàn thành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước Việt Nam sánh vai các nước bạn bè trong cộng đồng quốc tế trên con đường phát triển. Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đối với cô giáo phụ trách bộ môn đã hướng dẫn và định hướng cho em đề cập đề tài một cách khoa học và nghiêm túc. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình triết học . 2. Sách về thực trạng CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam "NXB thống kê Hà Nội - 2000" 3. CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn "NXB chính trị quốc gia". 4. Tạp chí cộng sản "Số ra tháng 1/2002". 5. Tạp chí triết học "Số 95, tháng 9/2002". Mục lục A. Phần mở đầu 1 B. Nội dung 3 I. đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 3 1. lực lượng sản xuất là gì? 3 2. quan hệ sản xuất được hiểu ra sao? 3 3. quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ………………………………………………………..3 a. quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẩn hay phù hợp…. 4 b. tính tất yếu phải tiến hành đồng thời CNH- HĐH của nước ta…… 6 II. Một số vấn đề thực tiễn lý luận trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá 8 1. Lý luận chung 8 a. tổng kết, hệ thông, khái quát hoá của quá trình CNH-HĐH………. 11 b. đường lối chỉ đạo …………………………………………………. 12 2. Thực tiễn 13 a. kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy mọi quá trình CNH-HĐH thành công cho đến nay đều phải hỏi ……………………13 b. những thuận lợi khó khăn ………………………………………… 14 C. Kết luận 18 Danh mục tài liệu tham khảo 19

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35725.doc
Tài liệu liên quan