MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
ChươngI:Lý luận chính vấn đề toàn cầu hóa và vấ đề hội nhập của Việt Nam: 2
1.1:Định nghĩa: 2
1.2:Lịch sử toàn cầu hóa 2
1.3:Các dấu hiệu toàn cầu hóa: 4
1.4:Tác động toàn cầu hóa: 6
1.4.1:khía cạnh kinh tế: 6
1.4.3:Khía cạnh chính trị: 7
1.5:vấn đề hội nhập của Việt Nam: 8
1.5.1:Chống toàn cầu hóa: 8
1.5.2:Ủng hộ toàn cầu hóa: 10
Chương II:Vận dụng Toàn cầu hóa Và vấn đề hội nhập 12
2.1:Cơ hội Toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập của Việt Nam: 12
2.1.1:Toàn cầu hóa,từ sức ép đến cơ hội: 12
2.1.2:Tự do trong thời đại toàn cầu hóa: 16
2.1.2.1:Nhân quyền,tự do mang tính toàn cầu: 16
2.1.2.2:sự dịch chuyển dòng năng lực: 20
2.2:thách thức Toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập của Việt Nam: 22
2.2.1:Đến giáo dục: 22
2.2.2:Đối với kinh tế: 28
2.2.3:Đối đầu với tệ nạn: 30
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 6141 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập cửa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay.
Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hóa về dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn "quốc tế".
Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới.
1.5:vấn đề hội nhập của Việt Nam:
1.5.1:Chống toàn cầu hóa:
Các chủ nghĩa tích cực vì lợi ích công dồng coi một số khía cạnh của toàn cầu hoá là nguy hại. Phong trào này không có tên gọi thống nhất. "Chống toàn cầu hoá" là thuật ngữ báo chí hay dùng nhất. Ngay chính các nhà hoạt động xã hội như Noamchom sky đã cho rằng tên này không có ý nghĩa gì cả vì mục tiêu của phong trào là toàn cầu hoá sự công bằng. Trên thực tế, có một tên phổ biến là "phong trào đòi công bằng toàn cầu". Nhiều nhà hoạt động xã hội cũng tập hợp dưới khẩu hiệu "có thể có một thế giới khác", từ đó ra đời những tên gọi như altermondisme hay altermondialisation, đến từ tiếng Pháp.
Có rất nhiều kiểu "chống toàn cầu hoá" khác nhau. Nói chung, những phê phán cho rằng kết quả của toàn cầu hoá hiện không phải là những gì đã được hình dung khi bắt đầu quá trình tăng cường thương mại tự do, cũng như nhiều tổ chức tham gia trong hệ thống toàn cầu hoá đã không xét đến lợi ích cho các nước nghèo cũng như như giơi lao động.
Các lý luận kinh tế của các nhà kinh tế theo học thương mại công bằng thì cho rằng thương mại tư do không giới hạn chỉ đem lại lợi ích cho những ai có tỷ lệ vốn lớn (v.d. người giàu) mà không hề đếm xỉa đến người nghèo.
Nhiều nhà hoạt động xã hội "chống toàn cầu hoá" coi toàn cầu hoá là việc thúc đẩy chương trình nghị sự của những người theo chủ nghĩa tập đoàn, một chương trình này nhằm mục tiêu giới hạn các quyền tư do cái nhân dưới danh nghĩa lợi nhuận. Họ cũng cho rằng sự tự chủ và sức mạnh ngày càng tăng của các tập đoàn dần dần hình thành nên các chính sách chính trị của nhà nước quốc gia.
Một số nhóm "chống toàn cầu hoá" lý luận rằng toàn cầu hoá chỉ đơn thuần là hình thứcđế quốc, là một trong những lý do căn bản dẫn đến chiến tranh Irac và là cơ hội kiếm tiền của Mỹ hơn là các nước đang phát triển.
Một số khác cho rằng toàn cầu hoá áp đặt một hình thức kinh tế dựa trên tín dụng, kết quả là dẫn tới các nợ nần và khủng hoảng nợ nần chồng chất không tránh khỏi.
Sự phản đối chủ yếu nhắm vào sự toàn cầu hoá không kiểm soát (như trong các chủ nghĩa Tân tự do và tư bản tự do tuyệt đối) do các chính phủ hay các tổ chức gần như chính phủ (như Quỷ tiền tệ quốc tếNgân hàng thế giới) chỉ đạo và không chịu trách nhiệm đối với quần chúng mà họ lãnh đạo mà thay vào đó gần như chỉ đáp ứng lợi ích của các tập đoàn. Rất nhiều các cuộc hội thảo giữa các vị bộ trưởng tài chính và thương mại các nước trong trục toàn cầu hoá đã gặp phải những phản kháng rầm rộ, đôi khi cũng có bạo lực từ các đối tượng chống đối "chủ nghĩa toàn cầu tập đoàn".
Phong trào này quy tụ nhiều thành phần, bao gồm các nhóm tín ngưỡng, các đảng phái tự do dân tộc, các đảng phái cánh tả, các nhà hoạt động vì môi trường, các hiệp hội nông dân, các nhóm chống phân biệt chủng tộc, các nhà chủ nghĩa xã hội tự do và các thành phần khác. Đa số theo chủ nghĩa cải cách (hay ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng mang tính nhân bản hơn) và một thiểu số tương đối thuộc thành phần cách mạng (ủng hộ một hệ thống nhân bản hơn chủ nghĩa tư bản). Nhiều người đã chê trách sự thiếu thống nhất và định hướng của phong trào, tuy nhiên một số khác như Noam Chomsky thì cho rằng sự thiếu tập trung hoá kiểu này trên thực tế có thể lại là một sức mạnh.
Những người phản đối bằng phong trào công bằng toàn cầu đã tổ chức các cuộc gặp mặt quốc tế lớn ở những thành phố nhỏ thay vì những trung tâm đô thị lớn như trước đây.
1.5.2:Ủng hộ toàn cầu hóa:
Những người ủng toàn cầu hóa dân chủ có thể được gọi là những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu. Họ cho rằng giai đoạn đầu của toàn cầu hoá là hướng thị trường, và sẽ được kết thúc bởi giai đoạn xây dựng các thiết chế chính trị toàn cầu đại diện cho ý chí của toàn thể công dân thế giới. Sự khác biệt giữa họ với những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu khác là họ không định nghĩa trước bất kỳ hệ tư tưởng nào để định hướng ý chí này, mà để cho các công dân được tự do chọn lựa thông qua một tiến trình dân chủ.
Những người ủng hộ thương mại tư do dùng các học thuyết kinh tế như lợi thế so sánh để chứng minh thương mại tự do sẽ dẫn đến một sự phân phối tài nguyên hiệu quả hơn, với tất cả những ai tham gia vào quá trình tìm kiếm lợi ích từ thương mại. Thương mại tự do sẽ cho những nhà sản xuất tại các nước một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn. Đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các nguồn tư bản, từ đó đem lại lợi ích cho người lao động trên toàn thế giới; cũng như cạnh tranh giữa nguồn nhân công trên toàn thế giới sẽ mang lại lợi ích cho các nhà tư bản và trên hết là cho người tiêu thụ. Nói chung, họ cho rằng điều này sẽ dẫn đến giá thành thấp hơn, nhiều việc làm hơn và phân phối tài nguyên tốt hơn. Toàn cầu hoá đối với những người ủng hộ dường như là một yếu tố dẫn đến phát triển kinh tế cho số đông. Chính từ điều này mà họ chỉ nhìn thấy trong sự truyền thông hoá khái niệm "toàn cầu hoá" một cố gắng biện minh đầy cảm tính và không duy lý của chủ nghĩa bảo hộ kinh tế.
Chủ nghĩa tự do cá nhân và những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản tự do tuyệt đối cho rằng mức độ tự do cao về kinh tế và chính trị dưới hình thức dân chủ và chủ nghĩa tư bản ở phần thế giới phát triển sẽ làm ra của cải vật chất ở mức cao hơn. Do vậy họ coi toàn cầu hoá là hình thức giúp phổ biến nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản.
Họ phê phán phong trào chống toàn cầu hoá chỉ sử dụng những bằng chứng vụn vặt để biện minh cho quan điểm của mình, còn họ thì sử dụng những thống kê ở quy mô toàn cầu. Một trong những dẫn chứng này là tỉ lệ phần trăm dân chúng ở các nước đang phát triển sống dưới mức 1 Đôla Mỹ (điều chỉnh theolạm phát) một ngày đã giảm một nửa chỉ trong hai mươi năm. Tuổi thọ gần như tăng gấp đôi ở các nước đang phát triển kể từ chiến tranh thế giới thế giới hai và bắt đầu thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển nơi ít có sự cải thiện hơn. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã giảm ở các khu vực đang phát triển trên thế giới. Bất bình đẳng trong thu nhập trên toàn thế giới nói chung đang giảm dần.
Nhiều người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng phản đối Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế với lý luận rằng những tổ chức này đều tham ô, quan liêu do các nhà nước kiểm soát và cung cấp tài chính, chứ không phải các tập đoàn kinh doanh. Nhiều khoản cho vay chỉ đến tay những lãnh đạo độc tài không thực hiện bất kỳ một cải cách nào, rốt cuộc chỉ dân thường là những người phải trả những khoản nợ này về sau. Một số nhóm đặc biệt như các liên đoàn thương mại của thế giới phương Tây cũng phản kháng sự toàn cầu hoá vì mâu thuẫn quyền lợi.
Tuy nhiên, thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt qua khỏi quy mô biên giới quốc gia, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trườn tự nhiên, và như vậy phong trào được biết đến trước đây với tên gọi phong trào chống toàn cầu hoá từ nay đã biến thành một phong trào chung của các phong trào vì toàn cầu hoá; họ tìm kiếm, thông qua thử nghiệm, các hình thức tổ chức xã hội vượt qua khỏi khuôn khổ nhà nước quốc gia và nền dân chủ đại diện. Do đó, cho dù các lý lẽ của phe chống toàn cầu hoá lúc ban đầu có thể bị bác bỏ thông qua các thực tế về quốc tế hoá như ở trên, song sự xuất hiện của một phong trào toàn cầu là không thể chối cãi và do đó chúng ta có thể nói về một tiến trình thực sự hướng tới một xã hội nhân bản ở quy mô toàn cầu của tất cả các xã hội.
Chương II:Vận dụng Toàn cầu hóa Và vấn đề hội nhập
của Việt Nam
2.1:Cơ hội Toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập của Việt Nam:
2.1.1:Toàn cầu hóa,từ sức ép đến cơ hội:
Như tôi đã nói trong nhiều bài viết, quá trình phát triển của con người gồm có hai giai đoạn, giai đoạn phấn đấu để trở thành con người và giai đoạn phấn đấu để trở thành con người phù hợp với đòi hỏi của thời đại. Ba lần thất bại của con người khi đi tìm tự do đánh dấu sự khép lại chặng đường đầu tiên trong tiến trình phát triển. Mở đầu cho chặng đường thứ hai chính là toàn cầu hoá. Chúng ta biết rằng, trước khi toàn cầu hoá, thế giới chưa phải là một khái niệm thống nhất, thế giới gồm những mảnh khác nhau đặt trôi dạt trong một dòng chảy. Con người không chỉ có một sự lệch lạc mà có nhiều sự lệch lạc tương đối với nhau trên phạm vi toàn cầu, cho nên con người không thể đối thoại toàn cầu. Song, tất cả những sự lệch lạc như vậy sẽ được điều chỉnh bởi hiện tượng toàn cầu hoá, bắt đầu từ kinh tế, sang đến chính trị, sang đến văn hóa và do đó, nó xúc tiến một sự phát triển thống nhất đối với các giá trị con người. Như thế có nghĩa là, thế giới đã bắt đầu hội tụ đến một trạng thái tự do mang tính toàn cầu đối với thân phận con người. Các quốc gia buộc phải mở cửa do sự thúc ép của toàn cầu hoá, nhưng đó cũng chính là cơ hội lớn để phát triển cho con người ở tất cả các quốc gia này.
Toàn cầu hóa hay lộ trình để khái niệm tự do bộc lộ dần những giá trị của nó đi theo hai trật tự. Trật tự thứ nhất là nó xuất hiện một cách bản năng do sự toàn cầu hóa về kinh tế và sự giao lưu về mặt văn hóa. Toàn cầu hoá về kinh tế đã và đang là một xu thế lớn cuốn hầu hết tất cả các quốc gia vào đó. Sự giao lưu về mặt văn hóa làm cho các nền văn hóa có điều kiện để tìm cách chung sống với nhau. Du lịch là một trong những cách thức mà con người tạo ra sự giao lưu giữa các nền văn hóa. Nếu nhìn du lịch đơn thuần như là nhìn một ngành kinh tế thì đó là một cách nhìn đúng nhưng không đủ, mà phải nhìn du lịch như một trong những cách thức chủ yếu mà loài người sử dụng để giao lưu văn hóa và làm thức tỉnh những tiêu chuẩn văn hóa toàn cầu. Có thể nói rằng, toàn cầu hóa tạo ra những hiện tượng rất kỳ lạ đối với tiến trình phát triển của nhân loại. Toàn cầu hóa tạo ra các hệ quả kinh tế, hệ quả chính trị, hệ quả văn hóa. Tất cả những hệ quả này đẩy con người vào tình thế buộc phải so sánh, buộc phải cạnh tranh, và buộc phải hợp tác với nhau. Điều đó có nghĩa, càng ngày, việc thế giới được toàn cầu hóa một cách bản năng đã phản ánh vào trong ý thức của con người, con người buộc phải có ý thức về hiện tượng ấy để có thể tham gia một cách có lợi vào quá trình này. Vì thế, toàn cầu hóa lại xuất hiện dưới dạng thức thứ hai là ý thức hóa về các hiện tượng ban đầu của toàn cầu hóa và do đó, có ngành khoa học nghiên cứu các diễn biến toàn cầu. Nghiên cứu về toàn cầu hóa thực chất là nghiên cứu sự cạnh tranh toàn cầu. Sự cạnh tranh toàn cầu tố giác một thực tế quan trọng là sự thiếu năng lực cạnh tranh của các nước thế giới thứ ba. Nói cách khác, quá trình hội nhập tạo ra sự thức tỉnh của các nước thế giới thứ ba về việc thiếu tự do. Thiếu tự do thì không phát triển, thiếu tự do thì thiếu năng lực cạnh tranh. Đặc biệt là thiếu tự do thì con người không hạnh phúc. Trong điều kiện toàn cầu hóa, con người nhận ra và thậm chí cần phải xác định rõ hạnh phúc mới là mục tiêu của tự do. Vì nếu không thì con người ngủ một giấc rất say cũng thấy mình hạnh phúc. Theo tôi, các dân tộc khu trú, các dân tộc đóng cửa là các dân tộc ngủ. Đấy là những dân tộc có tâm lý không cần cố gắng, không cần tự do. Họ ngủ vì họ không cần tự do, vì khi đó con người chỉ là con người ý thức. Ngủ về mặt văn hóa tức là không tự do. Nhiều dân tộc ngủ gà ngủ gật suốt nhiều thế kỷ và họ cảm thấy mình rất hạnh phúc. Ở đâu người ta chống đối các nền văn minh nhiều nhất? Ở những vùng lạc hậu, những vùng Amazone, ở Mexico, ở những vùng sâu thẳm trong rừng Clombia, ở Peru, Bắc Phi, Trung Phi, Congo… Ở chỗ nào mà các dân tộc ngủ thì người ta chống đối, người ta chống Mỹ, người ta chống phương Tây một cách quyết liệt vì bị làm huyên náo giấc ngủ hàng nghìn năm. Suy cho cùng, họ chống đối vì họ sợ nhìn vào sự thật. Toàn cầu hóa là cơ hội để các dân tộc nhìn vào sự thật về mình. Tự nhiên người ta bị đặt vào trong các tương quan so sánh với những người bên cạnh để thấy mình là một người lùn như thế nào. Tất nhiên, nếu không nhìn lên để thừa nhận sự thua kém của mình thì con người có thể nhìn xuống, có thể nhìn ngang. Nhìn các chiều là quyền tự do của con người nhưng người ta không thể giấu được sự thua kém đó. Con người cần phải thức tỉnh giấc ngủ của mình bằng những lợi ích của tự do. Các dân tộc không được đóng cửa. Tất cả các dân tộc muốn phát triển thì không được bảo thủ về mặt chính trị, không được đóng cửa về mặt kinh tế, và không được lạc hậu về mặt văn hóa.
Người ta thường tự do trong những giới hạn mà người ta nhận thức được, những giới hạn mà xã hội loài người ở thời điểm ấy cho phép. Và thậm chí, người ta biết cách hạnh phúc với những giới hạn tự nhiên, những giới hạn mang tính sinh học của mình. Quay trở lại ví dụ trên, nếu con người cứ ngủ triền miên trong sự khu trú của mình thì con người có hạnh phúc không? Tuy nhiên, ngay cả khi con người đóng cửa lại để hạnh phúc một mình, tức là con người đóng cửa về mặt văn hóa, thì khi xu hướng toàn cầu hoá thúc ép anh mở cửa, anh sẽ cảm thấy bất hạnh ngay lập tức. Vì khi anh đóng cửa thì anh rơi vào tình trạng tự mãn, tức là nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống thì cũng chẳng ai bằng mình. Sự tự mãn càng làm cho con người không thể hạnh phúc nếu thấy mình lép vế trong bất kỳ tương quan so sánh nào với những người có địa vị như mình trên thế giới. Ngay trong một quốc gia cũng có người hạnh phúc, có người không hạnh phúc. Người thành đạt thì hạnh phúc hơn người không thành đạt, và thế giới không bao giờ phẳng vì sự chênh lệch đó, toàn cầu hoá không xóa bỏ được sự chênh lệch giàu nghèo, nhưng toàn cầu hóa cho phép người ta so sánh giữa những người không thành đạt với nhau. Người ta nhận rõ ra giữa cái cấu trúc nhìn lên và nhìn xuống của con người còn có nhìn ngang. Nhìn ngang là cái nhìn khẳng định các giới hạn tự nhiên, các giới hạn khách quan của con người. Khi một người ở quốc gia nào đó thấy rằng có những người có tương quan như mình và cũng có trạng thái như mình trên toàn thế giới thì họ sẽ không thắc mắc về sự hẩm hiu của mình nữa. Đây là một khái niệm cực kỳ tinh tế trong phân tâm học. Trong cạnh tranh toàn cầu, con người sẽ so sánh. Tại sao người ta đi xe ô tô Mercedes mà mình lại đi xe đạp? Là bởi vì trong khi người đi Mercedes ấy làm một ngày 20 giờ đồng hồ và chỉ ngủ 4 tiếng thì mình ngủ 12 tiếng một ngày. Và khi nào người ta nhận thấy có người ở một quốc gia khác cũng ngủ 12 tiếng một ngày như mình, cũng đi xe đạp thì khi đó người ta mới yên tâm về trạng thái đi xe đạp là trạng thái tất yếu của mình. Nhưng nếu con người không nhận thức được những giới hạn trong năng lực của mình thì họ sẽ cho rằng mình bất hạnh hay mình không có cơ hội, họ không biết rằng rất nhiều người cũng như thế. Vậy, phải phát triển các dân tộc, các cộng đồng như thế nào để cho họ có thể tìm được sự đồng cảm toàn cầu? Toàn cầu hóa có khả năng đem đến cho con người sự đồng cảm ấy, bởi trong thời đại chúng ta, chỉ cần qua mạng Internet, qua máy tính, người ta cũng cảm nhận được về con người trên khắp thế giới. Do đó, khẳng định sự hẩm hiu trên quy mô toàn cầu là làm cho con người yên tâm với trạng thái vốn có của mình. Nói cách khác, toàn cầu hóa tạo điều kiện cho con người nhận ra sự không bất hạnh hay không bi kịch hóa sự bất hạnh của mình. Toàn cầu hóa là cơ hội cho con người nhận ra giới hạn của các năng lực của mỗi một con người hay mỗi một dân tộc, để từ đó, nó tạo ra trạng thái thỏa mãn tương đối, đồng thời cũng xác lập một trạng thái nhận thức được sự kém tương đối và định hướng con người vượt lên những giới hạn cụ thể trong năng lực của mình.
Khi con người nhận thức được giới hạn của các năng lực của mình thì con người dễ yên phận, yên phận sống trong không gian được phép tức là xây dựng cảm giác tự do của mình chứ không phải là xây dựng nên tự do của mình. Nhưng toàn cầu hóa chỉ ra cho con người nhận thấy rằng, nếu con người yên phận với các tiêu chuẩn tự do của mình thì con người sẽ không đáp ứng được đòi hỏi của thời đại. Vì vậy, con người phải đủ bản lĩnh để không bấu víu, để không khu trú, và để tiếp nhận. Do đó, sau khi nhận ra những điều kiện cần và đủ cho đời sống của mình, cho sự phát triển năng lực của mình thì con người phải biết tổ chức cuộc sống của mình. Con người phải có năng lực tổ chức cuộc sống. Nhận ra các giới hạn để đến ngủ bên cạnh các giới hạn thì không phát triển được. Mà phát triển là nhận ra các giới hạn để từ đó đi tiếp, mở rộng tiếp cái không gian tự do của mình. Tất nhiên, phát triển không có nghĩa là liên tục và vượt quá các quy định tự nhiên. Phát triển tới các giới hạn tự nhiên của một cá thể, đấy chính là phát triển cao nhất. Nếu con người khôn ngoan, con người sẽ biết rõ những giới hạn ở những giai đoạn khác nhau, trên những khía cạnh khác nhau, và ở những vấn đề khác nhau của đời sống. Trong thời đại toàn cầu hóa, mỗi dân tộc, mỗi con người phải tự nhận ra các giới hạn trong năng lực của mình.
Chúng ta cần phân biệt rõ rằng sau khi có tự do, con người có thể phát triển nhất so với chính họ, giải phóng các tiềm năng có thể có của mình nhưng điều này không đồng nghĩa với việc làm cho tiềm năng của con người ở các nước chậm phát triển tăng lên đến mức bằng con người ở các nước phát triển. Chính vì thế, chúng ta không thể đi tìm các định lượng về sự phát triển giống nhau trên toàn thế giới. Tuy nhiên, để thức tỉnh con người phát triển, chúng ta có thể thống nhất các tiêu chuẩn của khái niệm tự do nhằm giải phóng con người đến mức có thể phát triển được hay có thể tìm đến giới hạn tự nhiên của mình.
2.1.2:Tự do trong thời đại toàn cầu hóa:
2.1.2.1:Nhân quyền,tự do mang tính toàn cầu:
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, tự do là một khái niệm cần phải làm sáng tỏ hàng ngày hàng giờ trong đời sống nhận thức của loài người. Tự do cần phải được đảm bảo bằng quy trình làm mới, làm phong phú và quy trình bảo vệ nó liên tục trong cuộc sống con người. Thực ra, trong tất cả những tuyên ngôn chính trị mà các nhà chính trị thế giới nói, hiện nay, không có khái niệm nào làm họ lúng túng như khái niệm tự do. Nhiều nhà khoa học, nhiều nhà triết học cũng cố gắng lý giải khái niệm tự do, nhưng khái niệm tự do vẫn chưa được mô tả một cách hoàn hảo. Nó chưa trở thành những tiêu chuẩn phổ biến để có thể kiểm soát tình trạng tự do của con người trong quan hệ đối với các nhà nước, các nhà lãnh đạo. Chúng ta biết rằng, con người là nơi cư trú của những khát vọng về tự do, khát vọng về bình đẳng và lòng bác ái. Vì thế, nếu con người không trở thành trung tâm của sự phát triển thì mọi sự sắp đặt trật tự dường như không ý nghĩa, nên một cách tự nhiên, nhân quyền trở thành các quyền trung tâm. Bởi vậy, hiện nay, nhiều người nói rằng nhân quyền trở thành quyền trung tâm trong thời đại toàn cầu hoá là nói một cách không đầy đủ. Trong thời đại toàn cầu hoá, con người có cơ hội nhận ra các quyền trung tâm của mình chứ không phải các quyền trung tâm ấy chỉ xuất hiện trong thời đại toàn cầu hoá. Do sự cạnh tranh khốc liệt toàn cầu mà con người bỗng nhiên thấy rằng nếu mình không tự do thì mình không có năng lực, mình thua trong cuộc chơi toàn cầu ấy. Cho nên, sau ba lần con người thất bại khi đi tìm tự do, toàn cầu hoá là cơ hội thứ tư để con người nhận ra sự cần thiết, sự sống còn của khái niệm nhân quyền, mà linh hồn của nó là tự do. Cần phải giải phóng con người để con người chạy kịp với thời đại của mình. Độ thấm của tinh thần toàn cầu chính là giải phóng con người, hay nói cách khác là mở rộng những giới hạn của tự do. Toàn cầu hóa trang bị cho con người những tiêu chuẩn mới về tự do.
Trong thời đại của chúng ta, tự do đã phát triển thành quyền, tự do là tài sản của con người. Đó là trạng thái mới của tự do. Tự do trở thành quyền phát triển cùng với sự hiện đại hóa toàn bộ lối sống, cùng với toàn cầu hóa. Trước đây con người có thể muốn hoặc không muốn phát triển, con người không có quyền và không có kinh nghiệm đòi hỏi tự do, con người hạnh phúc với cái mình đã có. Sự hợp tác toàn cầu đã tạo ra cơ hội cho con người ý thức về các quyền cá nhân, đặc biệt là các quyền phát triển, tất cả mọi người đều có vị trí như nhau trước các cơ hội và quyền lợi của mình. Vậy con người có thể dịch chuyển tự do đến đâu để không mâu thuẫn với sự tự do của người khác? Để đảm bảo tự do và nhân quyền cho tất cả mọi người, thời đại toàn cầu hoá đòi hỏi các dân tộc phải thực hiện những cam kết quốc tế về quyền tự do, về nhân quyền và điều đó tạo ra tự do toàn cầu. Bây giờ tự do là quyền của con người, Liên Hợp Quốc đã có công ước về nhân quyền. Từ những tinh thần tự do của Montesquieu đến công ước về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc là một bước nhảy khổng lồ của con người có được bởi những thể chế toàn cầu. Đấy chính là những dấu hiệu đầu tiên và quan trọng của sự toàn cầu hóa về chính trị, về xã hội và văn hóa. Nếu như không có nhân quyền thì không có tư cách con người, cho nên phải xác lập được các điều kiện về nhân quyền. Nhân quyền bao giờ cũng được thể hiện trên tất cả các khía cạnh của cuộc sống, không có kinh tế tự do, không được buôn bán làm ăn một cách tự do thì không có quyền tự do kinh tế; không có các quyền như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do cư trú thì con người không có các quyền tự do xã hội; sống trong một môi trường văn hóa ở đấy con người bị chất vấn và níu kéo bởi các hủ tục thì con người không tự do về văn hóa. Tự do kinh tế, tự do chính trị, tự do văn hóa là ba nhóm của nhân quyền. Chúng ta đều thấy rằng, thế giới không quan sát dân quyền mà quan sát nhân quyền, cho nên họ không thành lập một tổ chức nào được gọi là tổ chức dân quyền, mà chỉ có tổ chức nhân quyền như Human Rights Watch. Tôn trọng quyền con người đòi hỏi phải làm cho con người hiểu được giá trị của nhân quyền. Bên cạnh đó, cần phải đưa ra tiêu chuẩn về tính hợp pháp của một chính phủ, bởi vì tính hợp pháp của một chính phủ là bằng chứng về mức độ dân chủ của một quốc gia. Chất lượng của một chính phủ là chất lượng của công nghệ sinh ra nó như là hệ quả của quyền làm chủ của người dân.
Khi không thừa nhận đầy đủ các quyền cơ bản của con người thì chủ quyền, là quyền cao nhất của con người đối với quốc gia của mình, không được lý giải minh bạch. Ở các quốc gia chậm phát triển, con người dường như mặc nhiên thừa nhận chủ quyền là quyền của chính phủ. Một vấn đề thể hiện rất rõ sự không hợp lý của quan niệm về quyền làm chủ của người dân là quyền sở hữu đất đai. Một số quốc gia cho đến nay vẫn khẳng định đất đai là sở hữu của toàn dân, quyền sở hữu đất đai là một trong các quyền sở hữu dân tộc. Thực tế cho thấy cách giải thích và tuyên tuyền về quyền sở hữu đất đai có tính chất toàn dân đã gây ra rất nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến việc quản lý đất đai. Vậy phải hiểu chủ quyền trong vấn đề sở hữu đất đai như thế nào? Tôi cho rằng, đất đai có hai địa vị, hai khía cạnh rất quan trọng và đều quan trọng như nhau. Trước hết, đất đai biểu hiện là đất và nước, tức là chủ quyền quốc gia. Đã là con người thì có quyền sở hữu đất đai. Nhưng một người không phải công dân quốc gia này có quyền sở hữu đất đai của quốc gia đó không? Mọi quốc gia đều thảo luận rất gay gắt về điều này và không phải ở đâu người nước ngoài cũng có quyền sở hữu đất đai. Cùng với sự phát triển kinh tế, đất đai không còn mang nhiều ý nghĩa về chủ quyền nữa. Ở nhiều nước phát triển, đất đai không quan trọng bằng những thứ khác, ví dụ, bây giờ người ta chú ý tới việc nghiên cứu các quyền về hàng hải, các quyền về lãnh hải và người ta đang giải quyết vấn đề về quyền bầu trời. Thế nhưng ở những quốc gia chậm phát triển, con người chưa trang bị đủ điều kiện để nói về những quyền này, vì thế, họ cường điệu quyền đất đai. Và quyền đất đai có tính chất thứ nhất là chủ quyền là như vậy. Khía cạnh khác của quyền đất đai là quyền sở hữu thông thường, tức là đất đai có giá trị tài sản thông thường. Chúng ta thấy rằng nếu đất đai không biến thành hàng hoá, đất đai không được thương mại hoá thì tính chất chủ quyền ấy không có giá trị trên thực tế. Và thực tế là người ta đã thương mại hoá một số thứ được gọi là chủ quyền, bán bầu trời cho vệ tinh bay là một việc bán chủ quyền. Do sự phát triển kinh tế mà con người thương mại hoá một số đối tượng sở hữu của chủ quyền trở thành đối tượng của các quyền thương mại thông thường. Điều này khẳng định một vấn đề càng ngày càng trở nên căn bản là nhân quyền, dân quyền hay chủ quyền đều có ý nghĩa phát triển và cần phải được tôn trọng thực sự.
Tôn trọng các quyền con người chính là tôn trọng con người. Bạn đi ra nước ngoài hay ở lại đất nước mình, đó là quyền của bạn. Trong thực tế đời sống quốc tế hiện nay, khi một con người có quyền công dân của nhiều quốc gia thì điều này rất có ý nghĩa. Ở châu Âu bây giờ, một người có quyền công dân của 27 quốc gia. Thời đại toàn cầu hoá, các quốc gia khác nhau chỉ là địa điểm để con người đóng góp vào tiến trình phát triển. Các quốc gia có thể hưởng niềm vinh quang của một người có nguồn gốc ở vùng đất của mình tạo ra đối với các vùng đất khác nhau trên thế giới, nhưng quyền lợi mà sự vinh quang đó đem lại thì thuộc về người sáng tạo chứ không phải thuộc về quốc gia có người đó. Nhân quyền trở thành một khái niệm vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của thế giới hiện đại. Mọi thứ đều phải thuộc về con người thì con người mới mang theo nó một cách tích cực đến nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Mọi cuộc cải cách đều phải phục vụ sự mở rộng không gian có ích của từng con người cụ thể. Cải cách chính trị, cải cách kinh tế, cải cách văn hóa đều phải tạo ra các môi trường hỗ trợ năng lực sáng tạo của con người khi con người dịch chuyển đến những địa điểm khác nhau trên trái đất. Đấy chính là mục tiêu, là kết quả cuối cùng của toàn cầu hóa. Có nhiều định nghĩa về toàn cầu hoá nhưng tôi cho rằng trước hết, toàn cầu hóa cần phải được hiểu là quá trình tạo ra một môi trường vĩ mô mà ở đâu một người cũng đều có hiệu lực đóng góp giống nhau, đấy chính là tự do hiện đại. Tự do cư trú là một phần của tự do hiện đại. Tự do cư trú cũng là một vấn đề lớn của mỗi quốc gia trong thời đại toàn cầu. Chúng ta cần phải rất tinh tế để phân biệt mục đích của việc tự do cư trú với một hệ quả tất yếu của nó là làm xao nhãng tình cảm của con người với vùng xuất xứ của mình. Tại sao người ta phải an phận sống ở một vùng đất không hỗ trợ hạnh phúc cho mình? Con người có quyền di cư. Tự do cư trú chính là một trong những dấu hiệu chính trị để khẳng định con người có quyền thoát ra khỏi những chỗ mình không muốn ở, con người có quyền đi đến những nơi mình thích. Như vậy, ngay cả quyền tự do cư trú cũng được khẳng định bởi nhiều quyền cụ thể, quyền sinh sống ở những chỗ khác nhau và quyền tị nạn. Nói tóm lại, tôn trọng nhân quyền là một trong những giá trị văn hóa vĩ đại nhất của thời đại chúng ta.
2.1.2.2:sự dịch chuyển dòng năng lực:
Toàn cầu hóa là một quá trình dịch chuyển tất cả các dòng năng lực của nhân loại đến những chỗ mà giá trị có thể tăng trưởng. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các dòng dịch chuyển năng lực đang hàng ngày diễn ra với mật độ dày đặc trên toàn thế giới, từ các dòng dịch chuyển con người, các dòng vốn đến các dòng công nghệ, tài nguyên… Các dòng di dân chính là sự thoát ra khỏi sự ràng buộc của các quốc gia đối với các lực lượng con người. Chính sự dịch chuyển của các lực lượng con người tạo ra sự dịch chuyển của các dòng năng lực. Khái niệm năng lực xã hội không chỉ khoanh trong biên giới quốc gia, trong môi trường toàn cầu hóa nó là sự hấp dẫn của các quốc gia đối với các dòng năng lực. Sự dịch chuyển tự do các dòng năng lực trên phạm vi toàn cầu chính là lý tưởng của sự phát triển chính trị trên toàn thế giới, và đó chính là tiền đề của lý thuyết về toàn cầu hoá, tức là tiết kiệm năng lượng sống toàn cầu. Dòng vốn sẽ đổ vào chỗ nào mà ở đấy người ta khai thác một cách hợp lý nhất, hữu ích nhất, tức là tiết kiệm. Sự tiết kiệm trên quy mô toàn cầu tạo ra sự dịch chuyển tự do của tất cả các dòng năng lực, và sự dịch chuyển tự do của các dòng năng lực làm cho năng lực có những dòng đi ra, có những dòng đi vào. Xuất khẩu lao động, xuất khẩu chuyên gia là dòng năng lực đi ra. Bây giờ một dân tộc đông dân thì sự dịch chuyển đi ra của các dòng nhân lực trở thành nhu cầu, bởi vì nhân lực cũng là một yếu tố tạo nên năng lực.
Xã hội là tập hợp các nguồn năng lực. Con người cũng là tập hợp của các nguồn năng lực. Tài chính là một năng lực thuộc về con người. Sự dịch chuyển của tài sản là biểu hiện hiện đại của sự dịch chuyển con người. Nhìn những dòng dịch chuyển đi ra đó chúng ta thấy được bản chất của sự phát triển các dòng năng lực, hay các không gian chính trị. Các dòng ấy dịch chuyển giữa các không gian chính trị, do đó các quốc gia, các nhà nước phải xây dựng các không gian chính trị phù hợp với đòi hỏi của nhu cầu phát triển khách quan của từng vùng lãnh thổ. Ở những chỗ đông dân mà dòng dịch chuyển nhân lực đi ra thì đó là một biểu hiện lành mạnh. Nhưng con người đi ra với tư cách nào? Nếu đi ra với tư cách là những nhân lực cao cấp thì khác với đi ra với tư cách là lao động đơn giản. Vậy một chính phủ phải xác định đầu tư vào đâu? Sự đi ra tất yếu của các dòng nhân lực ở những quốc gia đông dân là một hiện tượng khách quan, và nếu chính phủ đầu tư để cho dòng dịch chuyển đi ra của các nguồn nhân lực ấy trở thành những chuyên gia thì hiệu quả kinh tế sẽ lớn hơn. Xuất khẩu lao động đơn giản là sự đi ra tự nhiên, nhưng xuất khẩu chuyên gia là sự đi ra có đầu tư. Như vậy, men theo các quy luật vận hành của đời sống tự nhiên mà chính phủ hay xã hội phải xác định đối tượng để đầu tư.
Phát triển năng lực là tạo ra sự hấp dẫn các nguồn năng lực. Sự hấp dẫn các nguồn năng lực khác nhau tụ họp về một vùng lãnh thổ chính là năng lực khai thác hết các nguồn lực. Nếu chúng ta hấp dẫn về mặt chính trị, chúng ta hướng dẫn để du nhập những phần thiếu hụt của năng lực, ví dụ như thiếu tiền (tiền là một năng lực) thì một cách tự nhiên, chúng ta sẽ giải quyết được vấn đề phát triển của mình. Tạo ra sự dịch chuyển thuận lợi cho tất cả các dòng năng lực là biểu hiện quan trọng nhất của tự do. Sức hấp dẫn các dòng năng lực được tạo ra bởi sức hấp dẫn của các không gian chính trị tự do. Các không gian chính trị tự do sẽ thu hút các dòng năng lực. Nhưng các dòng năng lực cũng có tính hấp dẫn, bởi vì chính chúng cũng bị lôi kéo. Không ai lôi kéo một dòng năng lực không có giá trị. Vì thế, bên cạnh việc bản thân các dòng năng lực phải được đầu tư để trở nên hấp dẫn thì các không gian chính trị cũng phải đủ hấp dẫn và tự do để thu hút các dòng năng lực. Tất cả các chất lượng hiện có của các nguồn năng lực là tốt và có triển vọng, đấy chính là sự hấp dẫn về chính trị. Một hệ thống tòa án tốt là sự hấp dẫn chính trị, hệ thống luật pháp tốt là sự hấp dẫn chính trị, hệ thống trí tuệ tốt là sự hấp dẫn về chính trị, hệ thống giáo dục tốt là sự hấp dẫn về chính trị. Một quốc gia hấp dẫn sẽ hội tụ được nhiều người thuộc nhiều dòng văn hoá, nhiều môi trường khác nhau đại diện cho nhiều năng lực đa dạng đến sinh sống, tất cả sẽ khuếch đại năng lực phát triển của quốc gia đó. Những phân tích trên cho thấy năng lực quan trọng nhất của một quốc gia là tính hấp dẫn của nó. Nếu một quốc gia không có sự hướng dẫn chính trị tốt dựa trên nền tảng là tự do thì sẽ bị mất năng lực, không chỉ là mất năng lực sản xuất, mà còn là mất tất cả các năng lực con người khác. Đó là kết quả của sự chuyển những năng lực thuộc về con người ra những không gian có điều kiện chính trị tốt hơn. Chính sự thiếu hấp dẫn của một không gian là sự hướng dẫn chính trị để con người thoát ra khỏi không gian ấy. Như vậy, xây dựng một không gian chính trị tự do chính là phát triển năng lực hay tạo ra sự hấp dẫn năng lực trong thời đại toàn cầu hóa.
Sự xuất hiện của toàn cầu hoá cộng với sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ làm cho cuộc sống của con người hiện đại vận động với tốc độ ngày càng nhanh. Càng ngày, các dân tộc, các cộng đồng giao lưu với nhau chủ yếu thông qua các hệ giá trị, thông qua các quyền lợi và đặc biệt là thông qua các nền văn hoá; càng ngày, con người càng nhận ra giá trị chung mà mình phải vươn tới, đó là những tiêu chuẩn có giá trị phổ quát toàn cầu. Do vậy, việc xây dựng một hệ tư tưởng có giá trị toàn cầu là đương nhiên cùng với sự hợp tác và phát triển của con người. Ngày nay, do quá trình toàn cầu hoá, tất cả các quốc gia đã có mặt trong nhau và sự tràn lan của thông tin sẽ khiến cho các quá trình nhận thức cũng có mặt trong nhau. Vì thế, toàn cầu hoá cũng có giá trị như thuyết tương đối của đời sống, và chính nó làm rối loạn hệ tư tưởng, buộc hệ tư tưởng phải bám vào các giá trị thực tức là hệ giá trị để tồn tại. Càng toàn cầu hoá thì hệ tư tưởng vốn chỉ mang tính khu trú cá nhân càng phải trải qua một quá trình sàng lọc khắc nghiệt hơn để tồn tại bằng những giá trị thật của nó.
2.2:thách thức Toàn cầu hóa và vấn đề hội nhập của Việt Nam:
2.2.1:Đến giáo dục:
Toàn cầu hóa đem lại những cơ hội và thách thức, tác động lớn đến phát triển giáo dục đại học ở nước ta. Sau đây là một số thách thức tác động không thuận lợi đến giáo dục đại học nước ta cần được xem xét.
Tác động thứ nhất của toàn cầu hóa đôi với giáo dục đại học nước ta chính là việc các nước Anh, Mỹ, Úc, News Zealand, Singapore… đẩy mạnh kinh doanh và xuất khẩu giáo dục sang nước nghèo nhằm thu lợi nhuận tối đa từ giáo dục, chứ chưa hẳn thương mại hóa giáo dục ở nước họ với các hình thức du học tại chỗ trong nước hoặc đào tạo từ xa, du học nước ngòai.
Nguồn lợi từ giáo dục là khá lớn. Nước Anh đang trở thành thị trường du học lớn nhất thế giới, trong số 2 triệu du học sinh thế giới, nước Anh mỗi năm đón 200000 sinh viên ngoại quốc đến học, trong vòng 15 năm nữa, Anh có thể thu hút 900000 sinh viên đông gấp hơn 4 lần con số hiện nay, mỗi năm ngành giáo dục Anh mang lại 20 tỷ USD cho nền kinh tế. Năm 2004 ở Malaysia ngành giáo dục đã đem về 7 triệu USD từ hơn 1000 du học sinh châu Á. Singapore trở thành trung tâm xuất khẩu giáo dục hàng đầu châu Á. Tác động đến nước ta là nhiều trường học quốc tế của các trường Đại học, cao đẳng đã được kiểm định hoặc chưa kiểm định của các nước Anh, Mỹ…được mở ra ở các thành phố lớn nước ta với học phí khá cao, trong đó có nhiều trường mang yếu tố nước ngoài thu học phí cao rồi bỏ trốn. Ví dụ trường American City University Hoa kỳ đã hợp tác với Trung tâm đào tạo quản lý Singapore để mở một chương trình đào tạo thạc sỹ QTKD ở VN mà đối tác liên kết chính là trường SITC của Michael Yu. Cùng với du học tại chỗ trong nước, du học nước ngòai trở thành trào lưu. Một số đi du học để có kiến thức giỏi, còn phần lớn đi du học có nhiều lý do (con em các đại gia, thi trượt đại học, thay đổi phong cách sống ..). Theo PGS Nguyễn Hữu Chí cho biết có 40000 du hoc sinh tự túc mỗi năm mang ra nước ngoài 300 triệu USD. Hiện nay có 4000 sinh viên VN hiện đang theo học tại các trường đại học trên khắp Hoa kỳ. Theo dự báo của ngành giáo dục trong tương lai con số này sẽ tăng lên 100000 du hoc sinh tự túc với chi phí xấp xỉ 1 tỷ USD/năm, ngoại tệ chẩy ra nước ngoài khá cao.
Trong thời điểm VN gia nhập WTO, các nhà quản lý giáo dục VN cho rằng với cơ chế quản lý hiện nay các trường ĐH trong nước có nguy cơ mất thị phần vì các trường ĐH nước ngòai đang đẩy mạnh đầu tư vào VN. Có một số trường nước ngoài vào VN không vì mục đích giáo dục, chỉ có ý định trục lợi nên chất lượng giáo dục giảm.. TS Mark A.Ashwill giám đốc Viện Giáo dục quốc tế của Hoa kỳ tại VN cho biết đang ngày càng có nhiều trường ĐH và CĐ đã được kiểm định, đặc biệt các trường ĐH chưa kiểm định chất lượng của Hoa kỳ nhắm vào thị trường béo bở VN để xây dựng những chương trình du học tại chỗ trong nước, du học nước ngòai hoặc đào tạo từ xa.
Tác động thứ hai của toàn cầu hóa đôi với giáo dục đại học nước ta chính là việc mang mô hình giáo dục theo hướng thương mại hóa của một số nước phát triển vào nước ta.
Một số nước Mỹ, Anh, Uc và New Zealand.. coi giáo dục là hàng hóa, đẩy mạnh kinh doanh dịch vụ giáo dục. Kết quả là nhiều trường tư thục được lập ở các nước đó, như ở Singapore có tới 400 trường, cung cho nền kinh tế các chuyên gia đủ loại trình độ. Nhiều chuyên gia thuộc lọai giỏi đứng đầu thế giới, sau này nhận giải thưởng Nobel, song cũng có nhiều sinh viên trình độ yếu được đào tạo từ các trường không có thương hiệu, xếp hạng thấp trong các trường, tốt nghiệp ra không được các cơ sở tuyển dụng.
Trái lại có nhiều nước không thương mại hóa giáo dục. Pháp là nước chính phủ bao cấp học phí hoàn toàn, số lượng sinh viên là thông số căn cứ để nhà nước cấp kinh phí họat động. Đức và các nước Bắc Âu như Thụy điển, Na Uy , Phần lan, Đan mạch không có trường tư, chính phủ chi hoàn toàn ngân sách cho giáo dục. Hàn quốc có thuế đào tạo chi cho giáo dục. Nhiều nước châu Mỹ La tinh không co trường tư. Nước nghèo như Cu ba giáo dục các cấp không mất tiền. Ở những nước này chất lượng giáo dục tốt, sinh viên tốt nghiệp ra trường về cơ bản đều được tuyển dụng ở trong nước và nước ngoài. Nhưng chúng ta rất ít nói về mô hình các nước này.
Thực tế ở các nước thực hiện mô hình phát triển giáo dục theo hướng thương mại hóa cho thấy :
Chủ trương tăng quyền tự chủ của các trường trong việc tuyển sinh đưa đến hạ thấp điểm đầu vào. Một cuộc điều tra do báo Uc Sydney Morning Herald thực hiện mới đây cho thấy không ít trường đại học của Uc hạ thấp tiêu chuẩn đầu vào để thu hút sinh viên nước ngoài, các giáo viên đã hạ mức chấm điểm để tiếp nhận các sinh viên dở tiếng Anh… nhằm tăng số lượng sinh viên đầu vào.
Chủ trương trao quyền cho các trường chủ động trong cấp bằng đại học, đưa đến nhiều trường cấp bằng tràn lan. Vì thế để đảm bảo văn bằng ở Trung Quốc quản lý chặt đầu ra, có 1758 cơ sở giáo dục đại học ngòai công lập năm 2001, nhưng chỉ có 89 cơ sở được tự mình cấp bằng, 436 cơ sở được ủy nhiệm cấp bằng.
Chủ trương các trường tự hạch tóan thu chi đưa đến học phí ngày càng tăng. Nhiều nước Đông Á nhận thấy rằng nếu giao phó hoàn toàn cho khu vực tư nhân thì có thể học phí sẽ bị đẩy lên rất cao tới mức không phải tất cả những ai muốn đi học đều được đến trường.
Chủ trương tăng học phí để nâng cao chất lượng cho thấy chất lượng tăng không tương xứng với mức tăng học phí. Theo điều tra ở Trung quốc, gíao dục chuyển sang kinh tế thị trường, trong quá trình chuyển đổi ấy, chất lượng giáo dục không được nâng cao, chỉ thấy rõ nhất là học phí mỗi ngày mỗi tăng đến mức chóng mặt. Ở Phần Lan mức đầu tư cho mỗi học sinh chỉ có 5000 USD/năm thấp hơn nhiều so với các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp,Nhật bản, Uc, song giáo dục Phần Lan đứng hàng đầu trong các nước phát triển trên thế giới.
Ở VN trong phát triển giáo dục đại học của mình, nhằm giảm chi ngân sách cho giáo dục, tăng phần đóng góp của xã hội và người học, chúng ta chủ trương xã hội hóa giáo dục, vận dụng mô hình thị trường hóa giáo dục của các nước phát triển Anh Mỹ Uc.. trong khi trình độ kinh tế xã hội, luật pháp của nước ta còn khoảng cách xa so với những nước đó (chẳng hạn GDP/người của Uc gấp 50 lần VN), luật pháp nước ta thì chưa nghiêm.
Trước hết chúng ta chủ trương cho mở ra rất nhiều trường đại học cao đẳng dân lập. Theo dự kiến đến năm 2010 sẽ có khỏang 40% sinh viên từ hệ ĐH này, hiên nay mới có khỏang 12%. Nhiều trường đại học cao đẳng dân lập tư thục lập ra không có đội ngũ nhà giáo và cơ sở vật chất kỹ thuật tương xứng. Về diện tích không một trường ĐH nào có thể xem là đủ chuẩn hiện đại cho một trường ĐH có những tiện ích phục vụ tốt cho SV như thư viện, sân thể thao, nhà ăn, bãi giữ xe... Diện tích các trường của nước ta chỉ bằng 1/10 hoặc 1/50 diện tích của các trường ở nước ngoài.Chúng ta chủ trương tăng quyền tự chủ cho các trường : tự chủ trong tuyển sinh, tự chủ trong đào tạo, tự chủ trong cấp bằng, tự chủ tài chính…trong điều kiện kinh tế xã hội chưa phát triển, chưa có hệ thống chặt chẽ về quản lý GD ĐH. Tình trạng này làm xuất hiện nhiều gian lận trong giáo dục (hạ thấp điểm để tăng số lượng đầu vào, tăng học phí, ghép lớp, …) do cần có nguồn vốn lớn cho xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng lương giáo viên, trả lợi nhuận cho nhà đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạoMặt khác đầu tư cho giáo dục ở nước ta trong thời gian qua không nhỏ (các dự án ODA về giáo dục, tỷ trọng ngân sách chi cho giáo dục, học phí), chi phí giáo dục theo GDP đạt mức 7,2% của VN thuộc loại cao nhất trong khu vực, đứng trên cả Singapore 3%, nếu học phí tăng từ 4 đến 10 lần sắp tới thì chi phí cho giáo dục chiếm 9,5% GDP, theo Vũ quang Việt (Việt kiều Mỹ) cao nhất thế giới (năm 1995 tỷ lệ GDP dành cho giáo dục ở các nước đang phát triển là 3,8%, ở các nước phát triển là 5,2%, chung toàn thế giới là 4,9%)
Song theo JETRO điều tra các công ty Việt nam cho thấy ½ số công ty được hỏi than phiền về khó khăn trong việc tìm kiếm kỹ sư có trình độ, còn tình hình tuyển dụng cán bộ quản lý cấp trung gian ở VN đang ở mức tồi tệ nhất so với các nước trong khu vực châu Á. Chỉ số chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực nước ta chỉ đạt 3,79/10 điểm, Hàn quốc 6,91, Singapore 6,81, Nhật bản 6,5, Đài loan 6,04, An độ 5,76, Trung quốc 5,73, Malaysia 5,59, Hồngkong 5,2, Philippine 4,53, Thái lan 4,04 Tác động thứ ba của toàn cầu hóa đôi với giáo dục đại học nước ta là làm băng hại đạo đưc sư phạm. Một số nhà quản lý đào tạo đã thương mại hóa họat động đào tạo, coi sinh viên là khách hàng, mà khách hàng là thượng đế thì lấy đâu ra truyền thống tôn sư trọng đạo, nhất tự vi sư, bán tự vi sư, không thày đố mày làm nên. Trong thị trường giáo dục trong điều kiện luật pháp nước ta chưa nghiêm sẽ xuất hiện hiện tượng gian lận giáo dục (thuốc tây chữa bệnh còn làm giả huống chi giáo dục). Thực vậy ở nước ta sự khập khiễng về trình độ đầu vào và đánh giá đầu ra không thống nhất ở nhiều trường, cùng với đi học cốt để thi, cốt để lấy bằng đáp ứng tiêu chí cán bộ và đề bạt chức quyền chứ không phải ra làm người có trình độ có chuyên môn là nguồn gốc đưa đến hiện tượng mua bán bằng. Một bộ phận chủ yếu người có chức có tiền, bỏ tiền ra mua bằng và thi hộ vào đại học (đến 50 triệu đồng/ học sinh). Hải quan TP HCM phát hiện trên 100 cán bộ đang sử dụng bằng giả, hàng loạt cán bộ là quan chức quản lý thị trường ở các tỉnh thành phố cũng bị phát hiện sử dụng văn bằng chứng chỉ dỏm qua kỳ thi nâng ngạch bậc công chức 2004 của Bộ thương mại, ngày 18-5-2005 phát hiện dấu vết một đường dây “thi hộ” tiến sỹ ở Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp VN đào tạo hàng loạt tiến sỹ, không ít người trong số đó bị phát giác là đã nhờ người thi hộ hoặc chạy để trở thành tiến sỹ.
Tác động thứ tư của toàn cầu hóa đối với giáo dục đại học nước ta là nẩy sinh sự bất bình đẳng trong giáo dục đại học ngày càng gia tăng.
Theo điều tra của Trung quốc (huyện Hợp dương tỉnh Thiểm tây) cho thấy để nuôi một sinh viên tốt nghiệp đại học ít nhất phải mất thu nhập ròng 10 năm của một gia đình nông dân, trong khi nhiều sinh viên ra trường thất nghiệp hoặc lương tháng thấp không đủ bù đắp nhanh 10 năm nhịn ăn, nhịn uống của gia đình, khiến con em nông dân ít đi học.
Sự phân hóa giầu nghèo của VN là 13,5 lần. Một sinh viên vào thành phố phải tiêu tốn ước tính 500-1000USD/năm-8-16 triệu đồng, trong khi có vùng ngày công lao động chỉ 100 đồng/ngày làm cho con em nhiều vùng không thể đi học. Vì vậy tỷ lệ nhập đại học của VN thuộc loại thấp nhất khu vực, chỉ có 10% số học sinh VN vào đại học so với 44% của Singapore, 37% của Thái lan, 31% của Philippines và 27% của Malaysia. Chúng ta dự kiến sẽ tăng học phí từ 4-10 lần nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nâng lương giáo viên, thực hiện công bằng xã hội, đồng thời sẽ có giải pháp hỗ trợ để HSSV không bỏ học vì học phí cao. Tình hình này người có tiền nhiều thì được học ở những lớp chất lượng cao, ở những vùng sâu vùng xa chất lượng học sẽ thấp và số con em nhà nghèo, vùng sâu vùng xa sẽ ngày càng ít đến trường.
Trên đây là bốn tác động của toàn cầu hóa mang tính thách thức đối với giáo dục đại học nước ta, chúng ta cần suy ngẫm để giảm tác hại của nó đến phát triển ngành
2.2.2:Đối với kinh tế:
Một là, thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là khả năng cạnh tranh chưa cao. Mở cửa thị trường, cùng với cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với thách thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời gian qua, nhưng nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Ở nhiều doanh nghiệp, tính tự chủ không cao, khả năng vận hành và tính thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh còn hạn chế. Khi toàn cầu hóa, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế là nguồn vốn lớn, sản phẩm sản xuất trên nền tảng CNH, HÐH, nên chất lượng và giá cả phù hợp, thêm vào đó là kinh nghiệm chiếm lĩnh thị trường của những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Sự cạnh tranh này khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa chọn :
- Chấp nhận sự cạnh tranh, liên tục đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học - kỹ thuật, vận hành hệ thống quản lý mới, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng cường dịch vụ nhằm để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại, chiếm lĩnh được thị trường, hướng tới xuất khẩu và dần tạo uy thế trên thị trường.
- Doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, bị đào thải khỏi thị trường. Ðiều này có thể xảy ra với những doanh nghiệp quá yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu, kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Sự đào thải của hàng loạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến số lao động thất nghiệp tăng cao. Ðây là một trong những vấn đề cần giải quyết nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững.
Hai là, thách thức đối với nước ta là phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những thỏa thuận đã ký từ những hiệp định thương mại song phương, đa phương, đồng thời tuân thủ triệt để quy cũa thế giới
Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới, cùng quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã khẳng định sự đúng đắn của con đường phát triển đất nước ta. Khai thác triệt để những lợi thế và chủ động vượt qua những thách thức khi toàn cầu hóa là tiền đề quan trọng trong việc hội nhập thị trường toàn cầu, dần thích nghi và bắt kịp tốc độ phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới. Trước mắt, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, các văn bản luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là những lĩnh vực có liên quan đến những cam kết và thỏa thuận theo hiệp định thương mại song phương, đa phương và quy chế cũa thế giới. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy nhanh quá trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN, chuẩn bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang những ngành mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao. Những doanh nghiệp thuộc những ngành kinh tế mũi nhọn cần được tập trung mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với môi trường kinh doanh toàn cầu, trở thành 'đầu tầu' của nền kinh tế. Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, hoặc làm ăn không hiệu quả cần được chuyển đổi hoặc bán, bảo đảm cho mọi nguồn lực kinh tế được đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất. Những thị trường hỗ trợ cho thị trường hàng hóa như thị trường tài chính, thị trường tiền tệ cần được quan tâm phát triển một cách đồng bộ. Ðồng thời, Nhà nước cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chuẩn bị cho quá trình tiếp thụ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa sau này.
Về phía các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng tiếp cận thị trường toàn cầu, trong đó, hiểu sâu sắc và nghiêm túc thực hiện những quy chế trong kinh doanh thương mại quốc tế, như vấn đề bản quyền, tiêu chuẩn, chất lượng, vệ sinh an toàn, bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng... Cũng cần chuẩn bị thật tốt nguồn nhân lực với trình độ cao, nhằm tiếp thụ những công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tăng dịch vụ sau bán hàng, để hàng hóa Việt Nam có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.
2.2.3:Đối đầu với tệ nạn:
Nhiều tệ nạn đả du nhập vào Việt Nam đả làm cho tầng lớp thanh niên Viêt Nam đả sa đọa,làm cho tính dân tôc trong người của thanh niên bị giải một cách nghiêm trọng,và gây nguy hiểm cho xả hội…………
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa là một hiện thực mới ở Việt Nam. Chúng ta mới chỉ thực sự làm quen với toàn cầu hóa trong vòng 20 năm trở lại đây. Nhớ lại là vào cuối thế kỷ 15, khi làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất bắt đầu thì dân tộc ta vẫn còn bế tắc dưới thời vua Lê, chúa Trịnh; và đèo Ngang vẫn còn sừng sững trên tiến trình Nam tiến của dân tộc. Trong làn sóng toàn cầu hóa thứ hai, chúng ta, lại một lần nữa, không phải là người trong cuộc. Nếu như dân tộc ta đã không có ý thức về làn sóng thứ nhất thì chúng ta đã chủ động chối bỏ một cách có ý thức làn sóng thứ hai. Rất may là đối với làn sóng toàn cầu hóa thứ ba này, dân tộc ta đã có ý thức hơn và đã chủ động hòa mình vào làn sóng ấy, dám chấp nhận vị mặn chát của nó để đổi lấy sức mạnh của đại dương. Chỉ có tinh thần ấy mới tương xứng với những cơ hội và thách thức to lớn mà toàn cầu hóa đang đem lại cho dân tộc chúng ta.
Một lần nữa xin cảm ơn sự giúp đở cũa thầy và các thư viện cùng sự đóng góp ý kiến cũa các bạn đã hoàn thành đè tài này.Tuy nhiên vẫn còn nhiều sai sót mong sự đóng góp ý kiến bổ sung lời nhận xét cũa thầy để đề tài hoàn thiện
Xin cảm ơn đả quan tâm đề tài này
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1,Thời báo kinh tế sài gòn :www.saigontimes.com.vn
2,Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam :www.cpv.org.vn
3,Báo điện tử việt nam net :www.vnn.vn
4,Tạp chí cộng sản điện tử :www.tapchicongsan.org.vn
5,Báo :www.Mquiz.net
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V1089.DOC