Những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới cho thấy việc chú trọng đến con người và nhân tố con người không chỉ là bài học của hôm nay mà còn là tư tưởng có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển đất nước mai sau. Những kết quả cụ thể trong việc sử dụng hợp lý nhân tố con người, quan tâm nuôi dưỡng nguồn lực con người, nhất là nguồn lực trí tuệ là vốn kinh nghiệm ban đầu quý giá để Việt Nam tiếp tục phát triển.
Con người là nguyên nhân cuối cùng của mọi thất bại, cơ sở sâu xa của mọi thành công. Điều này tưởng chừng như rất xưa cũ, nhưng hóa ra vẫn chứa đựng ý nghĩa thời sự của nó. Một lần nữa, điều này đã được chứng minh một cách thuyết phục bằng thực tiễn sinh động của sự tăng trưởng, phát triển và tiếp tục phát triển của đất nước ở giai đoạn đổi mới.
Ngày nay, toàn cầu hóa đang tạo ra điều kiện để đa số cư dân được tiếp xúc nhiều hơn với văn hóa, văn minh nhân loại. Nhưng học tập được cái gì, hay biến đổi thế nào - điều này lại phụ thuộc vào bản lĩnh văn hóa của dân tộc và của mỗi con người. Bản sắc văn hóa, bản lĩnh làm người là cái cần phải được bảo tồn, phát huy làm hành trang cho sự phát triển. Bản sắc văn hóa Việt Nam, bản lĩnh làm người Việt Nam chắc chắn là một phẩm chất cần có của con người Việt Nam hiện đại.
22 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3787 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục
Lời nói đầu
Nội dung chính
Chương I. Lý luận chung về con người
1. Các quan điểm trước Mác về vấn đề con người
1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông.
1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây.
2. Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người
2.1. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
2.2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
2.3. Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ
Chương II. Vai trò của con người
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
1.1. Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược “trăm năm trồng người”.
1.3. Tính đoàn kết, yêu thương lẫn nhau “Bầu ơi thương lấy bí cùng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Vai trò của con người Việt Nam trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay
2.1. Thực trạng Con người Việt Nam hiện nay.
2.2. Giải pháp khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam.
2.3. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận.
Lời nói đầu
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là ta phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
Do vậy nên em chọn đề tài: “Vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho tiểu luận môn triết học Mác-Lênin.
Để hoàn thành bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Bích Thủy.
Nội dung chính
Chương I: Lý luận chung về con người
1. Các quan điểm trước Mác về vấn đề con người
1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông:
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: con người là gì? Bản tính, bản chất của con người? Mối liên hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?... Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
Trong triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này các nhà tư tưởng của Nho giáo và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính của con người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là bất thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và tới kết luận bản tính tự nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo nhất của triết học Đạo Phật.
1.2. Quan niệm về con người của triết học phương Tây:
Giác độ tiếp cận giải quyết vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề có liên quan. Từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrit về bản chất vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Những quan điểm duy vật này đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời kỳ Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
Các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm của Platôn thời cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời Cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Các nhà triết học này đã lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ, đó là bản chất phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính, còn đối với Hêghen, thì đó là bản chất lý tính tuyệt đối...
Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi những vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mácxít còn có những hạn chế cơ bản. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin về con người.
2. Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người
2.1. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
-Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó cả bản tính sinh học, tính loài của nó.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, động thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Con người luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau, đó là hệ thống các quy luật tự nhiên, hệ thống các quy định về tâm lý ý thức và hệ thống các quy luật xã hội.
- Trong tính hiẹn thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất của con người không phải là cái cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sủ cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
ở con người, mặt tự nhiên tồn tại thống nhất với mặt xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội mới giúp ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Con người là sản phẩm của của lịch sử, của tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. Nhưng lịch sử ấy không do chúng ta làm ra, mà trong một chừng mực nào đó chúng ta tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng ta không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thới thức đẩy sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Không có hoạt động của con người thí cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất của con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động và biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Vì vậy, để phát triển bản chất của con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
2.2 Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
- Cá nhân và nhân cách
Cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất bao gồm những đặc điểm riêng không lặp lại kết hợp với những điểm chung của bản chất người, đóng vai trò chủ thể tự ý thức và có một vị trí nhất định trong xã hội.
Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất, tâm lý, sinh lý để tạo thành một chỉnh thể đơn nhất, tự đánh giá ý thức và điều chỉnh được những hành vi của mình.
Cá nhân bao giờ cũng gắn liền với nhân cách.
- Biện chứng giữa cá nhân và xã hội
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau.
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân va tập thể là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Đó cũng là mối quan hệ vừa có sự thống vừa có mâu thuẫn.
Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, không thể tách rời khỏi những cộng đòng xã hội nhất định, đồng thời mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử. Quan hệ cá nhân - xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
Xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân. Cá nhân phát triển lại là điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ lợi ích. Mối quan hệ này do sự quy định của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngaycả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó để giải quyết đúng đắn quan hệ cá nhân - xã hội , cần tránh hai thái độ cực đoan. Một là chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội. Hai là chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân.
ở nước ta hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để phát triển cá nhân. Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, phân hóa giàu nghèo trong xã hội,chứa đựng khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do vậy, ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta.
2.3 Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ
Cần khẳng định rằng, mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng. Tính biện chứng của mối quan hệ trên biểu hiện ở:
Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân lãnh tụ là biện chứng, vừa thống nhất vừa khác biệt.
- Vai trò của quần chúng nhân dân
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định:”Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử”. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Đảng cộng sản Việt Nam cũng khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
- Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết các quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội. Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng. Thứ ba, tổ chức lực lượng giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng. Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải bài trừ tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, nhiều hậu quả xấu, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Vì thế , các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn coi sùng bái cá nhân là một hiện tượng xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản. Những lãmh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản như C.Mác, ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh đều hết sức khiêm tốn, gần gũi nhân dân, đề cao vai trò quần chúng nhân dân, xứng đáng là các vĩ nhân kiệt xuất mà toàn thể loài người tôn kính và ngưỡng mộ.
Chương II. Vai trò của con người Việt nam thời đại mới
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
1.1. Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước hết là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân biệt dân tộc và màu da.
Nội dung của toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mạnh năng lực của dân, ở mỗi cá nhân cũng của cả cộng đồng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người tồn tại vừa với tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và cộng đồng, có cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Con người là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và là động lực của chính sự nghiệp đó. Người coi con người là một thực thể thống nhất của cái “cá nhân” và cái “xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại, yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược “trăm năm trồng người”:
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là con người nhân cách, bao gồm hai yếu tố đức và tài. Trong đó, đức là nền tảng, tài là yếu tố quan trọng.
Người chỉ ra bốn phẩm chất đạo đức chung, cơ bản nhất của con người là:
Trung với nước, hiếu với dân
Yêu thương đồng loại
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Tinh thần quốc tế trong sáng
Người cũng đưa ra các nguyên tắc xây đưng đạo đức con người Việt Nam trong thời đại mới:
Nói đi đôi với làm
Xây đi đôi với chống
Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, phải làm cho phẩm chất tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi.” Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con người.
1.3. Tính đoàn kết, yêu thương lẫn nhau “Bầu ơi thương lấy bí cùng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân bao la, thắm thiết: tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt Nam mà là tình bác ái bao la, yêu thương nhưng người đồng cảnh ngộ mất nước, những người lao động nghèo đói, những người thuộc các dân tộc khác có chung số phận với dân tộc Việt Nam. Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người cũng tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Người luôn đề cao tư tưởng “Lấy dân làm gốc”, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tinh thần chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn kính, kính trọng với nhân dân lao động. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đặc biệt nhấm mạnh vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chăm lo, bồi dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh toàn dân, xuất phát từ truyền thống yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt cuộc đời, Người vì nước, vì dân.
2. Vai trò của con người Việt Nam trong thời đại mới
2.1. Thực trạng con người Việt Nam hiện nay
Con người Việt Nam được đánh giá là thông minh, hiếu học, cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu. Đó là những đức tính quý báu, đã giúp dân tộc ta tồn tại được đền ngày nay, trải qua không ít thăng trầm của lịch sử. Thế nhưng không thể tự hào mãi với quá khứ. Những giá trị truyền thống ấy cũng cần được cải biến cho thích nghi với thời đại hội nhập.
Nguời Việt Nam hiếu học, chuộng tri thức. Thời đại này tri thức là của báu, vậy tưởng chừng dân ta đã có ưu thế cơ bản để đi vào thế kỷ 21. Thế nhưng vẫn chưa phải. Bởi lẽ cái động lực hàng đầu để thức đẩy xã hội tri thức phát triển là đầu óc tưởng tượng, sáng tạo, mà chúng ta còn nghèo trí tưởng tưởng. Thiếu sức tưởng tượng là một khiếm khuyết lớn mà tới đây ta phải cố gắng khắc phục, trước hết từ cơ chế quản lý xã hội và sự chấn hưng giáo dục từ nhiều năm nay chỉ thiên về nhồi nhét kiến thức, bắt chước máy móc và kiếm chế cá tính.
Con người Việt Nam ít dám chấp nhập rủi ro tìm con đường mới; không có thói quen tính toán hiệu quả, thiếu đầu óc thực tế, lại ham chuộng hình thức, chạy theo hư danh viển vông; kém khả năng, kinh nghiệm hợp tác, góp sức cùng nhau thức hiện một mục tiêu, một kế hoạch lớn, cho nên ít xây dựng được êkip hùng mạnh về một lĩnh vực nào, thường chỉ có nhiều cá nhân giỏi đứng riêng lẻ mà không hợp lại để tạo ra những tập thể hùng mạnh, xuất sắc được.
Tính cộng đồng bền chặt có ở người Việt Nam cũng là điều dễ hiểu, bởi vì họ là những công dân của Quốc gia có vị trí địa lý thuận lợi, luôn phải đối mặt với những thế lực dòm ngó, xâm lăng và đồng hóa; bởi vì họ là công dân của một đất nước có điều kiện khí hậu “mưa chẳng thuận, gió chẳng hòa”...
Nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc tạo sự khép kín trong một khuôn khổ gia đình và làng xã, do đó tạo nên những cá nhân có tính bảo thủ khá cao. Với điều kiện như vậy, dễ dàng luyện cho con người lối sống: “năng nhặt, chặt bị”, khuyến khích sự khéo tay, hay làm mà xa lạ với sự cách tân, đổi mới, tìm tòi, xung kích... Điều đặc biệt hơn, nền sản xuất nhỏ ấy lại được dung dưỡng bởi một hệ tư tưởng Nho giáo với sự phân chia đẳng cấp: Sĩ -Nông - Công - Thương. Cụ thể là trong bảng thang giá trị ấy, tầng lớp Sĩ (kẻ sĩ hay tầng lớp có học) được đứng đầu tiên. Học ở đây là học sách thánh hiền, học Ngũ kinh tứ thư chứ không phải là học khoa học, kỹ thuật. Học ở đây là học làm quan, làm thầy chứ không phải học để làm thợ, cho nên mỗi cá nhân phải phấn đấu học cho được để đỗ ông Nghè, ông Tổng. Tâm lý này tồn tại tới ngày nay mà “di chứng” của nó trong xã hội chưa thể khắc phục triệt để được. Đó là trình trạng: trọng bằng hơn thực tại, tình trạng bằng rởm, bằng giả; tình trạng thừa thầy thiếu thợ, thiếu thợ đang tồn tại mà việc giải quyết không phải một sớm một chiều. Cũng trong bảng thang giá trị này tầng lớp thưong nhân bị xếp vào cuối bảng. Thương nhân đồng nghĩa với vụ lợi, tiểu nhân, mánh khóe... Chính với cách nhìn như vậy, trong suốt quá trình phát triển, tầng lớp này luôn nhỏ bé. Và đương nhiên cách nhìn và không gian xã hội đó đã dẫn tới hệ quả là hiện nay tầng lớp doanh nhân Việt Nam đang rất chật vật trong “biển cả” của nền kinh tế thị trường, trong điều kiện hội nhập và giao lưu quốc tế. Những biểu hiện thiếu tính chuyên nghiệp trong kinh doanh đó là: mất thương hiệu trên thị trường quốc tế, mất uy tín trong kinh doanh hay quảng bá sản phẩm còn yếu...
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố pháp luật có vai trò đặc biệt. Bởi vì, việc điều chỉnh tất cả các quan hệ từ cá nhân tới xã hội đều bằng luật pháp, điều đó đảm bảo cho sự công bằng của mỗi cá nhân trong xã hội. Thế nhưng xuất phát từ xã hội tiểu nông cộng tư tưởng Nho giáo, những con người với tư cách cá nhân đã “vác nặng ” trên vai những yếu tố truyền thống bằng lối suy nghĩ: gia đình là cái gốc của Nước, Nước là cái Nhà to, Nhà là cái Nước nhỏ. Biểu hiện ở quan niệm một người làm quan cả họ được nhờ, tâm lý cục bộ, bè phái... Những biểu hiện này tránh sao khỏi hiện tượng tùy tiện, độc đoán bất chấp pháp luật.
Về chất lượng nguồn nhân lực:
Trong các năm đổi mới, mạng lưới đào tạo, dạy nghề của nước ta có sự phát triển mạnh về quy mô và chất lượng đào tạo. Hiện nay cả nước có hơn 204 trường dạy nghề, 148 trung tâm dạy nghề, 104 trường cao đẳng, 74 trường đại học (chưa kể các trường của bộ Công an và Bộ Quốc phòng), hàng năm đào tạo hơn 900 nghìn học sinh nghề và 1 triệu sinh viên Cao đẳng, Đại học. Các cải cách về giáo dục, đào tạo đã có tác động đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng tri thức, khả năng sáng tạo, phát minh, óc tưởng tượng và các kỹ năng thực hành nghề nghiệp của người lao động. Bộ phận không nhỏ người lao động nước ta đã làm chủ được khoa học, công nghệ mới hiện đại chuyển giao từ nước ngoài, đáp ứng được sự phát triển tăng tốc của các ngành nghề công nghệ cao, ngành nghề dịch vụ mới (công nghệ thông tin, viễn thông, vật liệu mới, công nghệ sinh học, máy móc thiết bị chính xác, hàng không, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, tư vấn kinh tế và pháp luật...). Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới quy mô và chất lượng nguồn nhân lực nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn trong cạnh tranh và hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa.
Với dân số trên 70% làm nông nghiệp và sống ở nông thôn thì ít nhiều chịu sự tác động của lối sống sản xuất nông nghiệp. Do đó tác phong công nghiệp dường như vẫn còn thiếu trong mỗi cá nhân. Hiện tượng làm việc được chăng hay chớ, hiệu quả kinh tế ở các cơ quan công nghiệp của mỗi công nhân cũng chưa được đề cao. Hiện tượng tùy tiện trong công việc, coi thường kỷ cương, kỷ luật, làm việc ít tính tới hiệu quả đang dần làm cho khu vực doanh nghiệp mất đi tính cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế...
2.2. Giải pháp khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam:
Chìa khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chính là phải nâng cao giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện dại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Giải quyết tốt quan hệ giữa yêu cầu tăng nhanh quy mô giáo dục, lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật và nâng cao chất lượng của giáo dục, đào tạo để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa hướng vào nền kinh tế tri thức và tham gia mạnh mẽ vào quá trình toàn cầu hóa. Các giải pháp cụ thể là: tăng cường xã hội hóa, đa dạng hóa các hình thức sở hữu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, đào tạo và dạy nghề; đổi mới nội dung và công nghệ giáo dục, đào tạo phù hợp với xu thế hiện đại của thế giới; tăng đầu tư của Chính phủ theo hướng đầu tư có trọng điểm nhằm xây dựng các trường, cơ sở giáo dục và đào tạo lý thuyết và thực hành nghề nghiệp, giữa đào tạo lý thuyết và thực hành nghề nghiệp, giữa đào tạo chuyên môn kỹ thuật với nguyên cứu khoa học và hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Dân số của Việt Nam là dân số trẻ, chúng ta nên tập trung cho giáo dục từ nhỏ nhất về hình thành nhân cách và tác phong làm việc mới (nhân cách và trí lực). Đầu tư về dinh dưỡng để phát triển thể lực cho thế hệ trẻ của đất nước.
Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng lao động các ngành nghề công nghệ cao, ngành dịch vụ chất lượng và trình độ cao để thúc đẩy phát triển hướng vào nền kinh tế tri thức; thúc đẩy hợp tác hiệu quả với các hang, tập đoàn sản xuất - kinh doanh có khoa học và công nghệ hiện đại và các tổ chức phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới. Chú trọng đào tạo và dạy nghề đáp ứng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu đầu tư trực tiếp nước ngoài, đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động, đào tạo nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn.
Nâng cao hiệu quả cạnh tranh của lao động nước ta trên phương diện thể lực, tác phong công nghiệp, kỹ thuật lao động, kỷ luật, khả năng thích ứng và các phẩm chất khác của lao động quốc tế thông qua môi trường giáo dục huấn luyện, đào tạo ra các quy trình tiêu chuẩn hoạt động tại các cơ sở.
Nâng cao chỉ số HDI của nước ta thông qua các kế hoạch, giải pháp và thực hiện tăng tốc phát triển kinh tế nhằm không ngừng nâng cao nhanh chóng mức sống, tăng số năm đi học, đảm bảo tốt chăm sóc y tế, an ninh xã hội cho dân cư và người lao động cũng là những giải pháp cần được Nhà nước ta quan tâm và đầu tư đúng mức.
Nhà nước cũng nên hoàn thiện các chính sách liên quan đến thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực đảm bảo tham gia hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa. Trong đó đặc biệt là các chính sách như: khuyến khích người lao động tham gia vào đào tạo chuyên môn kỹ thuật, phát triển và điều chỉnh thị trường lao động (phát triển hệ thống cung ứng, tư vấn việc làm; chính sách tác động đến cung - cầu và quan hệ cung - cầu lao động, chính sách di chuyển lao động…), tiền lương và tiền công đối với hệ thống những người làm công tác đào tạo, dạy nghề và lao động chuyên môn kỹ thuật cao, ưu tiên đối với học sinh các nghề mà tuy nền kinh tế có nhu cầu nhưng khó thu hút học sinh (nghề kém hấp dẫn, nghề nặng học, độc hại…)
2.3. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa đất nước về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động phổ thông là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Quan điểm của Đảng ta xem con người là động lực có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Về mặt lý luận, quan điểm này thể hiện một bước tiến dài trong nhận thức về con người và vai trò của con người, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới ngày nay: nếu có một chiến lược phát triển hợp lý, các quốc gia đi sau vẫn có khả năng phát triển nhanh mà không nhất thiết phải được thiên nhiên ưu đãi về tài nguyên, không nhất thiết phải có các điều kiện như các nước công nghiệp thế hệ thứ nhất. Quan điểm này cũng đòi hỏi các quyết định vĩ mô phải năng động, sáng suốt, luôn phản ánh được những quy luật tiến bộ thời đại. Ngoài ra, việc xem con người là động lực của sự phát triển còn thể hiện một niềm tin vào năng lực, tin vào sức mạnh trí tuệ của con người. Đó chính là khía cạnh nhân văn thể hiện trong đường lối của Đảng ta.
Về mặt thực tiễn, quan điểm của Đảng xem con người là động lực đã đưa ra được lời giải cho vấn đề tạo nguồn lực thực sự cho sự phát triển, chỉ rõ mục tiêu căn bản và lâu dài của sự phát triển không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế, hay phát triển xã hội mà là phát triển con người. “Cương lĩnh xay dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ” đã xác định và được Đại hội IX của Đảng tiếp tục khăng định: “Vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng nêu rõ: “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.”
Thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp - những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi của công nghiêp hóa, hiện đại hóa là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động cao.
Ngay từ những năm 60, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ và cũng đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng trong quá trình công nghiêp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cũng đã phạm phải một số sai lầm, thiếu sót. Chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên thực tế đã làm suy yếu và hạn chế khả năng phát triển của công nghiệp nhẹ, dịch vụ và nông nghiệp. Trong điều kiện đất nước còn nghèo như trước đây, việc ưu tiên công nghiệp nặng gắn với mục tiêu của hiện đại hóa là phấn đấu để cơ khí hóa toàn bộ nền sản xuất xã hội đã bị hoàn cảnh khiến cho trở thành không thực tế. Từ những thành tựu cũng như những sai lầm, thiếu sót trước đây, nhận thức và cách làm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã có bước phát triển phù hợp với tình hình mới. Đó là:
Một là, công nghiêp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Có như vậy mới có thể rút ngắn được quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả của chuyển giao công nghệ và tiến tới bắt kịp được với sự phát triển nói chung. Quan điểm này có một ý nghĩa quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi khoa học công nghệ phát triển hết sức nhanh chóng.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo cơ chế mới - cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Điều tiết và quản lý vĩ mô không phải là kế hoạch hóa tập trung - quan liêu.
Ba là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế nhà nước chỉ giữ vai trò chủ đạo thay cho quan niệm trước đây-công nghiệp hóa, hiện đại hóa chủ yếu là việc của nhà nước thông qua khu vục kinh tế quốc doanh và tập thể.
Thứ tư là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo xu hướng quốc tế hóa và hội nhập kinh tế thế giới, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa chứ không phải theo kiểu khép kín, làm từ đầu đến cuối như trước đây.
Với quan điểm đổi mới như trên, có thể thấy Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát huy mọi tiềm lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chúng ta tiến hành nhiệm vụ này khi nhiều nước trên thế giới đã bước vào giai đoạn hậu công nghiệp, nền kinh tế thế giới đã bước sang một giai đoạn phát triển mới về chất: giai đoạn kinh tế tri thức với đặc điểm là khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, hàm lượng tri thức chiếm phần lớn giá trị sản phẩm. Bối cảnh đó với xu thế toàn cầu hóa đưa lại cho những nước đi sau nhiều cơ hội để có thể đi tắt đón đầu, rút ngắn thời gian, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh như thế đặt ra nhiều vấn đề, trong đó, con người - nhân tố phát triển nguồn nhân lực là những vấn đề đặt ra cấp bách.
Thực tiễn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, vấn đề bất cập lớn nhất vẫn là vấn đề con người chứ không phải là vấn đề vốn hay kỹ thuật. Khó khăn thường vẫn được nhiều người nhắc đến là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, yếu kém, vốn tài chính hạn hẹp, công nghệ lạc hậu… Nhưng tất cả những khó nhăn to lớn đó vẫn có thể khắc phục được trong một khoảng thời gian nhất định nếu có những người đủ năng lực giải quyết chúng. Nhưng những hạn chế thuộc về hạ tầng xã hội như: trình độ dân trí, trình độ lao động, thái độ, thói quen sản xuất lớn của người lao động, trong nền sản xuất hàng hóa lớn là những thứ chúng ta đang rất thiếu và trong một thời gian ngắn không thể thay đổi nhanh chóng được. Vốn có thể vay được từ nước ngoài, từ các tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế hoặc huy động được từ trong nhân dân, kỹ thuật cũng có thể mua được, hoặc chuyển giao công nghệ, nhưng con người - nguồn nhân lực chất lượng cao thì trong một khoảng thời gian ngắn không thể có được. Hiện nay đó là điều thiếu nhất ở nước ta. Nước ta có dân số đông, dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ lớn, nhưng số lao động được đào tạo nghề chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Hàng năm chúng ta có khoảng một triệu người đến tuổi bổ sung vào đội ngũ lao động, nhưng 70% trong số đó vẫn không được đào tạo nghề. Số lao động này không thể đáp ứng yêu cầu của các cơ sở sản xuất đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Đây chính là khó khăn với nước ta, hiện nay khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như thực hiện các giải pháp nhằm tạo công ăn việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân. Thực tế đó rõ ràng đang cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta hiện nay. Vậy, để có được con người và nguồn nhân lực thực sự đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại toàn cầu hóa, con người Việt Nam cần phải được xây dựng như thế nào?
Tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Tư tưởng này là sự cụ thể hóa thêm một bước quan điểm về xây dựng con người đã được nêu rõ trong Cương lĩnh 1991: Xây dựng con người “có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”. Tư tưởng này cũng là cụ thể hóa một quan điểm rất cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: phát triển toàn diện con người là một tất yếu lịch sử mang tính quy luật về giải phóng con người, giải phóng dân tộc, phát triển xã hội - sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người.
Kết luận
Những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới cho thấy việc chú trọng đến con người và nhân tố con người không chỉ là bài học của hôm nay mà còn là tư tưởng có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển đất nước mai sau. Những kết quả cụ thể trong việc sử dụng hợp lý nhân tố con người, quan tâm nuôi dưỡng nguồn lực con người, nhất là nguồn lực trí tuệ là vốn kinh nghiệm ban đầu quý giá để Việt Nam tiếp tục phát triển.
Con người là nguyên nhân cuối cùng của mọi thất bại, cơ sở sâu xa của mọi thành công. Điều này tưởng chừng như rất xưa cũ, nhưng hóa ra vẫn chứa đựng ý nghĩa thời sự của nó. Một lần nữa, điều này đã được chứng minh một cách thuyết phục bằng thực tiễn sinh động của sự tăng trưởng, phát triển và tiếp tục phát triển của đất nước ở giai đoạn đổi mới.
Ngày nay, toàn cầu hóa đang tạo ra điều kiện để đa số cư dân được tiếp xúc nhiều hơn với văn hóa, văn minh nhân loại. Nhưng học tập được cái gì, hay biến đổi thế nào - điều này lại phụ thuộc vào bản lĩnh văn hóa của dân tộc và của mỗi con người. Bản sắc văn hóa, bản lĩnh làm người là cái cần phải được bảo tồn, phát huy làm hành trang cho sự phát triển. Bản sắc văn hóa Việt Nam, bản lĩnh làm người Việt Nam chắc chắn là một phẩm chất cần có của con người Việt Nam hiện đại.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999
2. Con người và phát triển con người, Nxb giáo dục, trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, khoa triết học, Hồ Sĩ Quý.
3. Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người. Nxb CTQG. Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
5. Giáo trình triết học Mác - Lê nin, Nxb trính trị quốc qia.
6. Trung tâm KHXH&NVQG (2006) báo cáo phát triển con người Việt Nam 2006.
7. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980
8. Viện triết học (dịch, 1996), Nxb KHXH, Hà Nội
Website của một số tổ chức nghiên cứu khoa học:
1. (website của viện Khoa học xã hội Việt Nam)
2. (website của Viện Triết học Việt Nam)
----------Hết----------
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10527.doc