Tiểu luận Vai trò và tác dụng của công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam

Quản trị tài chính doanh nghiệp giữ vị trí trung tâm trong quản trị doanh nghiệp,đồng thời là một lĩnh vực hoạt động rộng,phức tạp và có thể nói là còn khá mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp Việt nam hiện nay.Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp đã thực hiện rất tốt công tác này đem lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp,nhưng cũng có không ít doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của quản trị tài chính trong quản trị doanh nghiệp.Chính vì vậy,đặt ra yêu cầu khách quan là phải có những công trình nghiên cứu được công bố rộng rãi về những vai trò và tác dụng của quản trị tài chính doanh nghiệp nhằm giúp các chủ doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về vấn đề này,từ đó có được những biện pháp tích cực để cải thiện chất lượng công tác quản trị tài chính,nâng cao hiệu quả hoạt động mọi mặt của toàn doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước hiện nay,vai trò và những đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng được khẳng định và coi trọng.Sự phát triển bền vững và hiệu quả của mỗi doanh nghiệp không chỉ mang lại lợi ích cho chủ doanh nghiệp,cho người lao động mà còn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội chung trong sự nghiệp xây dựng đất nước.Bên cạnh những ưu ái mà nhà nước và xã hội dành cho,mỗi doanh nghiệp hãy tự đứng vững trên đôi chân của mình,phát huy nội lực để làm giàu cho mình,cho đất nước.

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò và tác dụng của công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò và tác dụng của công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam mở đầu Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới,thực hiện mở cửa nền kinh tế,chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,bộ mặt kinh tế xã hội Việt nam đã có nhiều khởi sắc.Đóng góp vào thành tựu chung đó có một phần không nhỏ của hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Với việc ban hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990,sự tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam đã chính thức được thừa nhận với tư cách là một thực thể kinh tế,một tế bào của nền kinh tế quốc dân.Đặc biệt,gần đây nhất,tại kỳ họp thứ 6 quốc hội khoa IX ngày 12 tháng 6 năm1999 đã thông qua Luật doanh nghiệp,thay thế cho Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân trước đây,tạo thêm nhiều đIều kiện thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp Việt nam nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.Tuy nhiên,bên cạnh những lợi thế của mình,các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn khiến cho loại hình doanh nghiệp này chưa thể phát huy được hết tiềm năng vốn có của nó.Chính vì vậy,xét trên tầm vĩ mô,việc nhà nước nghiên cứu,ban hành chính sách,pháp luật và các biện pháp cụ thể để hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một việc làm cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp nhiều hơn nữa cho nền kinh tế Việt nam.Bên cạnh đó,về phía các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực hơn nữa về mọi mặt để tự hoàn thiện mình và vươn lên giành thắng lợi trong cạnh tranh,đáp ứng xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới. Đề tài này trình bày một số vấn đề cơ bản về công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ,thông qua đó làm nổi bật những vai trò và tác dụng của công tác này trong doanh nghiệp,nhằm làm cho các nhà quản trị,các chủ sở hữu doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của hoạt động này,từ đó có các biện pháp chủ dộng và quản trị có hiệu quả hơn hoạt động tài chính,góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mình.Vì khả năng tài chính hạn hẹp là một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung. Quản trị tài chính là một lĩnh vực hoạt động rộng,phức tạp và là một bộ phận cấu thành quan trọng trong khoa học quản trị kinh doanh.Quản trị tài chính có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với các hoạt động quản trị kinh doanh khác và giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong quản trị doanh nghiệp.Hầu hết các quyết định quản trị khác đều dựa trên những đánh giá đựoc rút ra từ hoạt động quản trị tài chính.Hơn nữa,khoa học quản trị tài chính đã được hình thành từ khá lâu trên thế giới vàđã được nhiều nước phát triển áp dụng từ rất sớm,song có thể nói quản trị tài chính vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam nói riêng.Chính vì vậy,việc nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác này là một việc làm cần thiết hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo-tiến sỹ Vũ Kim Dũng về sự giúp đỡ,chỉ bảo tận tình của thầy trong quá trình hoàn thành bài viết này.Em mong nhận được sự nhận xét,đánh giá của thầy để em có thể hoàn thiện hơn nữa kiến thức của bản thân. Hà nội,ngày24 tháng11 năm 2001 Sinh viên thực hiện Bùi Minh Tuấn Phần 1: Tổng quan về quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ : "Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những tổ chức kinh tế độc lập,có tư cách pháp nhân,hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận,tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và mục tiêu tăng trưởng,phát triển."( Quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ - PTS Vũ Duy Hào.NXB Thống kê - Hà nội 1998 - Tr 5 ) 2.Hoạt động tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ : Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. "Hoạt động tài chính là quá trình tìm tòi,nghiên cứu các nguồn lực nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai.Đó là quá trình dự toán vốn đầu tư và quyết định đầu tư dài hạn;phân tích,đánh giá rủi ro ảnh hưởng tới qui môvà thời hạn các dòng tiền trong tương lai."( Quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ - PTS Vũ Duy Hào.NXB Thống kê-Hà nội 1998 Tr 9 ) Hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có mục đích giống như các hoạt động khác của doanh nghiệp đều nhằm đạt được các mục tiêu chung của doanh nghiệp.Trong doanh nghiệp vừa và nhỏ,do đặc điểm về kinh tế,kỹ thuật,tổ chức và quản lý có những nét đặc thù so với doanh nghiệp lớn nên quản lý tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những nét riêng biệt. Có thể khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp theo sơ đồ sau:(hình 1) Phân tích sơ đồ ở hình 1 có thể thấy hoạt động tài chính doanh nghiệp bao gồm các dòng và các dự trữ tài chính.Quan hệ giữa các dòng và các dự trữ tài chính là nền tảng của hoạt động tài chính doanh nghiệp.Sự chuyển hoá không ngừng giữa các dòng và các dự trữ tài chính được thể hiện trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ,điều kiện tiền đề để các doanh nghiệp có thể tiến hành được các hoạt động kinh doanh nhằm đạt mục tiêu đặt ra là phải có một số lượng vốn nhất định.Muốn có vốn,doanh nghiệp cần phải tìm được cho mình các nguồn tài trợ phù hợp.Và khi đã có vốn,doanh nghiệp sẽ tiến hành ký kết các hợp đồng mua sắm nguyên vật liệu,đầu tư trang thiết cần thiết để tiến hành hoạt động theo chương trình kế hoạch đã vạch ra.Tại một thời điểm nhất định,tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp được thể hiện và phản ánh ở hai bên trái và bên phải của bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Sự thay đổi vật sự thay đổi giá Sự thay đổi giá trị Tư tồn kho trị SP dở dang sản phẩm tồn kho Giá cuối kỳ Vật tư TSCĐ (khấu hao) Nhân công(lương) Chi phí sản xuất chung Chi phí Sản xuất Giá Thành Sản xuất Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng Chi phí quản lý Thuế Chi phí chung Gía thành tiêu thụ Chi phí hoạt động kinh doanh Lãi sau thuế Doanh thu bán hàng (tiền) : Các dòng tài chính hoạt động : Các dự trữ tài chính Hình 1 :Khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp Nội dung của hoạt động tài chính doanh nghiệp là nhằm trả lời các câu hỏi chủ yếu sau: Đầu tư vào đâu và như thế nào là phù hợp nhất với hình thức kinh doanh đã chọn,với khả năng của doanh nghiệp? Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu,vào thời điểm nào,với cơ cấu vốn như thế nào là tối ưu và chi phí vốn thấp nhất? Quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra các quyết định thu chi phù hơp ? Lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào? Phân tích,đánh giá,kiểm tra các hoạt động tài chính như thế nào để thướng xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính? Những câu hỏi trên đây chưa phải là tất cả mọi nội dung của hoạt động tài chính doanh nghiệp,nhưng đó là những câu hỏi quan trọng nhất liên tới cách thức tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp . 3.Nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp : Cũng như các hoạt động quản trị doanh nghiệp khác,quản trị hoạt động tài chính doanh nghiệp nhằm đưa ra các quyết định phù hợp với mục tiêu quản trị tài chính và mục tiêu chung của doanh nghiệp. Quản trị tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động quản trị doanh nghiệp khác và giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong quản trị doanh nghiệp.Hầu hết các quyết định quản trị khác đều dựa trên cơ sở các kết luận có được từ những đánh giá về mặt tài chính. 3.1.Bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp Các quyết định quản trị tài chính do bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp đưa ra.Sơ đồ sau khái quát bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp(hình 2) Sơ đồ này cho thấy vai trò trung tâm của quản trị tài chính trong quản trị doanh nghiệp. Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Giám đốc Marketing Giám đốc nhân sự Giám đốc tài chính Giám đốc SX-kỹ thuật Kế toán trưởng Nhân viên kế toán Nhân viên kiểm toán Hình 2-Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp 3.2.Nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp Quản trị tài chính doanh nghiệp có các nội dung chủ yếu sau: Huy động đủ nguồn tài chính cho doanh nghiệp với chi phí thấp nhất Sử dụng tiết kiệm,có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh Chính sách phân phối Phân tích tài chính và hoạch định tài chính 3.3.Chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp Thông qua việc giải quyết các mối quan hệ tài chính của doanh nghiệp với môi trường kinh doanh,giúp doanh nghiệp xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào,xác định khả năng cung ứng các sản phẩm(hàng hoá và dịch vụ)đầu ra;tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động huy động đủ,kịp thời nguồn vốn phục vụ kinh doanh và sử dụng linh hoạt các công cụ huy động vốn;xác định chĩnh xác giá trị của doanh nghiệp trên thương trường,nhằm thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng hoàn thiện các phương thức kinh doanh để đạt hiệu quả cao hơn.Như vậy,quản trị hoạt động tài chính doanh nghiệp có chức năng cơ bản là huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn phù hợp với yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. 3.4.Nhiệm vụ của quản trị tài chính doanh nghiệp Với những chức năng như trên,quản trị hoạt động tài chính doanh nghiệp có 3 nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Phân tích tài chính và hoạch định tài chính : “Thực hiện nhiệm vụ này,quản trị hoạt động tài chính thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu thích hợp.Trên cơ sở phân tích tình hình tài chính và các phân tích cũng như dự báo cần thiết khác,quản trị hoạt động tài chính tiến hành lập các dự án đầu tư,các kế hoạch ngân sách dài hạn,trung hạn và ngắn hạn.” ,2 Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp PGS-TS Nguyễn Thành Độ và TS Nguyễn Ngọc Huyền đồng chủ biên.NXB Thống kê Hà nội - 2001. Xác định các thời điểm doanh nghiệp cần vốn: Để thực hiện nhiệm vụ này,quản trị hoạt động tài chính phải trả lời được chính xác các câu hỏi:khi nào cần vốn?cần vốn cho hoạt động gì?cần bao nhiêu vốn? Tìm các nguồn cung ứng vốn thích hợp: Quản trị hoạt động tài chính phải nghiên cứu lựa chọn các nguồn cung ứng vốn phù hợp với doanh nghiệp,đảm bảo huy động vốn kịp thời với chi phí vốn thấp nhất. 3.5.Yêu cầu đối với quản trị tài chính doanh nghiệp Quản trị tài chính doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau: 1.Tạo sự cân đối thường xuyên giữa cầu về vốn và khả năng tài chính của doanh nghiệp 2.Hiểu rõ đặc điểm của từng nguồn vốn để lựa chọn các quyết định cạnh tranh thu hút vốn 3.Khai thác,sử dụng các nguồn vốn với hiệu quả kinh tế cao nhất 4.Mối quan hệ tài chính của doanh nghiệp với môi trường kinh doanh Thực chất hoạt động tài chính doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào việc xác lập và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn và dài hạn.Do đó,hoạt động tài chính doanh nghiệp chính là hoạt động giải quyết các mối quan hệ tài chính tiền tệ giữa doanh nghiệp với các đối tuợng hữu quan.Đó là các quan hệ tài chính trong kinh doanh giữa doanh nghiệp với nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách quản lý tài chính của nhà nước đối với doanh nghiệp;giữa doanh nghiệp với thị trường,đặc biệt là thị trường tài chính;giữa doanh nghiệp với bạn hàng,với các đối tác kinh doanh và quan hệ tài chính nội bộ doanh nghiệp. 5.Quản trị tài chính ngắn hạn 5.1.Quản lý thu nhập,chi phí và lợi nhuận kinh doanh Thu nhập của doanh nghiệp Thu nhập của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,nó đảm bảo cho doanh nghiệp trang trải các chi phí,thực hiện tái sản xuất và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Căn cứ vào nguồn hình thành,thu nhập của doanh nghiệp được chia làm 3 loại: -Thu nhập từ hoạt động kinh doanh -Thu nhập từ hoạt động tài chính -Thu nhập từ các hoạt động bất thường khác Trong đó thu nhập từ hoạt động kinh doanh(mà chủ yếu là doanh thu bán hàng) là nguồn thu chính của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm : -Chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về vật chất và lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.Đó là các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đạt được mục tiêu kinh doanh. -Chi phí lưu thông sản phẩm: Trong sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường,việc tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.Khối lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng quyết định tới qui mô kinh doanh của doanh nghiệp.Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định.Những chi phí này bao gồm chi phí liên quan trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm(chi phi đóng gói,bao bì,vận chuyển,bảo quản,...)và chi phí Marketing(chi phí điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường,chi phí quảng cáo,...) -Giá thành sản phẩm: Nghiên cứu chi phí sản xuất chưa cho ta biết lượng chi phí cần thiết cho việc hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định là bao nhiêu.Do vậy cần tiến hành xác định giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có những điểm giống nhau và khác nhau:chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm,nhưng không phải toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm,mà chỉ những chi phí phát sinh trong kỳ có liên quan tới việc hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định mới được tính vào giá thành sản phẩm. -Chi phí hoạt động kinh doanh : Chi phí hoạt động kinh doanh bao gồm các chi phí có liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật liệu ,chi phí khấu hao tài sản cố định,chi phí tiền lương,... -Chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất thường Chi phí hoạt động tài chính bao gồm:chi phí thuê tài sản,chi phi mua,bán chứng khoán,... Chi phí bất thường bao gồm:chi phí nhượng bán thanh lý tài sản cố định. Thuế : Thuế là một khoản chi của doanh nghiệp.Vì vậy,khi quyết định phương án kinh doanh doanh nghiệp phải tính tới các khoản thuế và tiền thuế phải nộp cho mặt hàng doanh nghiệp dự định kinh doanh. Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận: Lợi nhuận của doanh nghiệp được xem xét ở đây là lợi nhuận sau thuế,lợi nhuận này bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. Phân phối lợi nhuận nhằm mục đích chủ yếu là tái đầu tư mở rộng năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh,bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp,khuyến khích người lao động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 5.2.Quản lý ngân quĩ doanh nghiệp Nghiên cứu ngân quỹ doanh nghiệp xác định các luồng tiền vào,ra,các khoản phải thu,phải trả phát sinh trong kỳ;lập kế hoạch tài chính ngắn hạn,dự báo các luồng thu,chi bằng tiền phát sinh trong kỳ,dự đoán nhu cầu và khả năng tiền mặt để chủ động trong đầu tư hoặc tìm nguồn tài trợ. Quản lý ngân quĩ doanh nghiệp bao gồm quản lý việc thu ngân quỹ,chi ngân quỹ và cân đối ngân quỹ doanh nghiệp. 5.3.Dự báo nhu cầu tài chính ngắn hạn Dự báo tài chính là một nội dung của kế hoạch hoá tài chính.Trong thực tiễn quản lý tài chính,doanh nghiệp luôn nảy sinh nhu cầu dự báo tài chính để phục vụ cho việc lập các kế hoạch tài chính.Thị trường luôn biến động và sự biến động đó có lúc tuân theo những quy luật nhất định,có lúc lại không tuân theo qui luật nào cả,vì vậy đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn có “dự tính”,”ước tính”để chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên quản trị tài chính doanh nghiệp phải tiến hành dự báo nhu cầu tài chính để có kế hoạch phục vụ kịp thời cho sản xuất kinh doanh.Có như vậy quản trị hoạt động tài chính doanh nghiệp mới đảm bảo thực hiện được chức năng,nhiệm vụ của mình. 6.Quản trị tài chính dài hạn 6.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị tài chính dài hạn 1.Giá trị theo thời gian của tiền Giá trị theo thời gian của tiền là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quản trị tài chính dài hạn.Do tiền có giá trị theo thời gian nên trong quản trị tài chính dài hạn các doanh nghiệp phải tiến hành tínhvà phân tích luồng tiền chiết khấu.Để làm được việc này,các nhà quản trị tài chính phải lựa chọn một lãi suất chiết khấu và dựa vào lãi suất này để tính,qui đổi giá trị của tiền ở những thời điểm khác nhau về giá trị hiện tại hoặc giá trị tương lai nhằm đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư. Giá trị tương lai của tiền: +)Kí hiệu chung: FVn : Giá trị tương lai của một khoản tiền PV : Giá trị hiện tại của khoản tiền i: Lãi suất dự kiến FVAn : giá trị tương lai của luồng tiền CF : luồng tiền đều mỗi năm N: số kỳ hạn T : năm thứ t(t=1 n) PVAn: giá trị hiện tại của luồng tiền +)Giá trị tương lai của một khoản tiền: Công thức: FVn = PV(1+i)n (1) +)Giá trị tương lai của luồng tiền đều xuất hiện cuối mỗi năm: Công thức : FVAn = CF[(1+i)n + 1]/i (2) +)Giá trị tương lai của dòng tiền đều xuất hiện đầu năm: Công thức : FVAn = CF[(1+i)n – 1](1+i)/i (3) +)Giá trị tương lai của dòng tiền biến thiên: Công thức : FVAn = ồCFt(1+i)n (4) Giá trị hiện tại của tiền: Tính giá trị hiện tại của tiền tức là tiến hành qui đổi vốn đầu tư và thu nhập ròng ở các thời điểm khác nhau trong tương lai về cùng thời điểm hiện tại theo một lãi suất chiết khấu để có thể tính toán chính xác hiệu quả đầu tư. +)Giá trị hiện tại của một khoản tiền: Công thức: PV = FVn/(1+i)n (5) +)Giá trị hiện tại của dòng tiền đều xuất hiện vào cuối năm: Công thức : PVA = CF.ồ[1/(1+i)]t (6) +)Giá trị hiện tại của dòng tiền đều xuất hiện vào đầu năm: Công thức : PVAn = CF.[1/i + 1/i(1+i)n].(1+i) (7) +)Giá trị hiện tại dòng tiền tệ biến thiên: Công thức : PVAn = ồCFt.[1/(1+i)]t (8) Ưng dụng giá trị theo thời gian của tiền trong quản trị tài chính dài hạn: Tìm lãi suất để quyết định đâu tư,tài trợ: Từ công thức (1) suy ra : i = (9) 2.Xác định khoản tiền bằng nhau hàng năm: Từ công thức (6) suy ra : CF = PVAn/ồ[1/(1+i)t] (10) 2.Doanh lợi và rủi ro Rủi ro là khả năng mà một sự kiện không thuận lợi nào đó xuất hiện;doanh nghiệp có thể dự đoán trước các kết quả và cả xác suất xảy ra các kết quả đó. Các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận.Tuy nhiên,do môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp luôn luôn biến động nên hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chứa đựng yếu tố rủi ro.Do đó,có thể hiểu lợi nhuận mà các nhà đầu tư thu được chính là phần thưởng cho việc họ giám chấp nhận rủi ro và thực tế đã cho thấy một khoản đầu tư có mức rủi ro lớn thì khả năng nhận được một khoản doanh lợi cao hơn và ngược lại.Đồng thời,khoản thu nhập nhận được càng xa với thời điểm bỏ vốn đầu tư thì khả năng rủi ro càng cao.Giải pháp lựa chọn của nhà đầu tư là rủi ro phải tương xứng với lợi nhuận thu được.Rủi ro là yếu tố làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nên quản trị rủi ro cũng là một nội dung liên quan chặt chẽ với quản trị doanh nghiệp,đặc biệt là quản trị hoạt động tài chính doanh nghiệp. Có thể chia rủi ro làm hai loại là rủi ro thị trường(khủng hoảng kinh tế,lạm phát,suy thoái kinh tế,...),loại rủi ro này doanh nghiệp không thể tránh được và rủi ro công ty(những rủi ro chỉ liên quan đến từng công ty),loại rủi ro này doanh nghiệp hoàn toàn có thể tránh được bằng cách đa dạng hoá đầu tư. 3.Chi phí vốn Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có vốn,ngoài vốn tự có doanh nghiệp phải huy động vốn bằng các hình thức vay nợ.Chi phí vốn có thể hiểu là tỉ suất sinh lời cần thiết của một khoản tiền đầu tư mà người chủ sở hữu nó yêu cầu. Chi phí vốn bao gồm chi phí các khoản nợ trước và sau thuế,chi phí cổ phiếu ưu tiên,chi phí cổ phiếu thường thông qua lợi nhuận giữ lại và phát hành cổ phiếu thường mới. Nghiên cứu chi phí vốn nhằm mục đích tìm ra các nguồn vốn đáp ứng được yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với chi phí thấp nhất. 6.2.Hoạch định và quản trị dự án đầu tư Khái niệm dự án đầu tư : “Dự án đầu tư là việc nghiên cứu và đề xuất tổng hợp một hệ thống các luận chứng khả thi về các giải pháp sử dụng tài nguyên vào một hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với các điều kiện nhất định nhằm thu được các lợi ích kinh tế-xã hội xác định" Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp-PGS-TSNguyễn Thành Độ và TS Nguyễn Ngọc Huyền đồng chủ biên.NXB Thống kê -Hà nội 2001. Chu kỳ dự án đầu tư Chu kỳ dự án đầu tư gồm 3 giai đoạn : Giai đoạn 1 : Giai đoạn chuẩn bị -Nghiên cứu thị trường,hình thành ý tưởng dự -Thẩm định sơ bộ,sàng lọc ý tưởng -Nghiên cứu tiền khả thi,thẩm định tiền khả thi -Nghiên cứu khả thi,thẩm định khả thi -Thiết kế chi tiết và xác định vấn đề tài chính dự án,thẩm định chi tiết dự án -Huy động vốn và chuẩn bị triển khai dự án Giai đoạn 2 : Giai đoạn triển khai thực hiện -Thực hiện các công việc như kế hoạch đã đặt ra,từ việc khởi động dự án,thành lập bộ máy quản lý dự án,tuyển dụng nhân sự,thành lập văn phòng,mua sắm trang bị,mở tài khoản dự án,thực hiện các hoạt động biến đổi các nguồn lực đầu vào thành đầu ra của dự án -Kiểm tra,giám sát,đánh giá dự án đầu tư Giai đoạn 3 : Giai đoạn kết thúc dự án và phát triển dự án mới -Hội nghị đánh giá kết thúc dự án -Hoạt động kết thúc -Nghiên cứu phát triển dự án mới 3.Phân tích tài chính dự án đầu tư Nội dung và trình tự phân tích tài chính dự án đầu tư gồm các bước sau: -Xác định mức vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn của dự án -Xác định các nguồn tài trợ và khả năng đảm bảo vốn từ mỗi nguồn -Lập các kế hoạch tài chính hàng năm và từng giai đoạn -Lập các báo cáo tài chính hàng năm và từng giai đoạn -Tính toán các chỉ tiêu tài chính để đánh giá tính khả thi về tài chính -Đánh giá độ an toàn về mặt tài chính của dự án đầu tư -Phân tích rủi ro của dự án đầu tư 6.3.Hoạch định tài chính doanh nghiệp 1.Khái niệm: Hoạch định tài chính là quá trình thực hiện các bước công việc bao gồm: +)Xác định mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp +)Phân tích sự khác biệt mục tiêu lợi nhuận đó với tình trạng hiện tại của doanh nghiệp để lập ra các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu đó. 2.Nội dung : +)Hoạch định vốn và cơ cấu vốn: -Xác định nhu cầu vốn trong kỳ kế hoạch -Xác định cơ cấu vốn cần thiết cho từng loại vốn cố định,vốn lưu động,vốn dự phòng,vốn đầu tư nghiên cứu nhu cầu thị trường -Xác định mức cung về vốn +)Hoạch định cơ cấu tài sản: Là việc xác định số lượng,giá trị từng loại tài sản cố địnhvà tài sản lưu động cần thiết,hợp lý. 7.Phân tích tài chính doanh nghiệp 7.1.Khái niệm: "Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm,phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp,nhằm đánh giá tình hình tài chính,khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp,giúp người xủ dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính,quyết định quản lý phù hợp" Quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ -PTS Vũ Duy Hào.NXB Thống kê-Hà nội 1998 Tr 52 7.2.Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Nội dung chủ yếu phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm: +)Đánh giá khái quát tình hình tài chính +)Phân tích tình hình và khả năng thanh toán +)Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả tài sản lưu động +) Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả tài sản cố định +)Phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp 7.3.Tài liệu phân tích tài chính doanh nghiệp Để tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải sử dụng rất nhiều tài liệu khác nhau,trong đó chủ yếu là các báo cáo tài chính,gồm các báo cáo tài chính sau: -Bảng cân đối kế toán(còn gọi là bảng tổng kết tài sản) -Báo cáo kết quả kinh doanh -Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 7.4.Các bước tiến hành trong phân tích tài chính +)Thu thập thông tin: Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp.Trên thực tế,đó là việc phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp-bao gồm:bảng cân đối kế toán,báo cáo kết quả kinh doanh,báo cáo lưu chuyển tiền tệ. +)Xử lý thông tin: Là qúa trình chọn lọc và sắp xếp các thông tin thu thập được theo những mục tiêu nhất định. +)Dự đoán và quyết định: Trên cơ sở kết quả xử lý thông tin,quản trị tài chính tiến hành dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định tài chính thích hợp.Mục tiêu của phân tích tài chính là nhằm đưa ra các quyết định tài chính. 7.5.Các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp Quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ -PTS Vũ Duy Hào.NXB Thống kê-Hà nội 1998 Tr 66,67,68 +)Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính : -Hệ số nợ tổng tài sản = Tổng nợ phải trả /Tổng tài sản -Hệ số nợ vốn cổ phần = Tổng nợ phải trả/Tổng vốn chủ sở hữu -Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = (Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay)/Lãi vay -Hệ số cơ cấu tài sản = TSCĐ hoặc TSLĐ/Tổng tài sản -Hệ số cơ cấu nguồn vốn = Tổng vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn +)Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động: -Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán/Hàng tồn kho -Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần/Tài sản lưu động -Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần /Tài sản cố định -Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu thuần/Tổng tài sản +)Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận: *Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi: -Hệ số sinh lợi doanh thu = Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần -Hệ số sinh lợi của tài sản = Lợi nhuận sau thuế +Tiền lãi phải trả /Vốn chủ sở hữu -Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu *Nhóm chỉ tiêu về phân phối lợi nhuận: -Thu nhập cổ phần = Lợi nhuận sau thuế/Số lượng cổ phiếu thương -Cổ tức = Lợi nhuận đem chia/Số lượng cổ phiếu thường -Tỉ lệ trả cổ tức =Cổ tức /Thu nhập cổ phiếu =Lãi đem chia /Lãi sau thuế Sau khi đã xác định các chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu,bước tiếp theo là lựa chọn,sắp xếp các chỉ tiêu phù hợp với mục đích nghiên cứu và lập ra các bảng để so sánh và đánh giá. Phần 2: Vai trò và tác dụng của công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam 1.Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được khẳng định cả về mặt lý thuyết và thực tế.Trong nền kinh tế thị trường ở nhiều quốc gia trên thế giới,doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển nền kinh tế đất nước,thông qua việc cung cấp một khối lượng lớn và đa dạng các sản phẩm hàng hoá,dịch vụ,cũng như tạo việc làm cho người lao động và đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước. ở Việt nam,vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được pháp luật chính thức thừa nhận từ khi luật doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân được ban hành năm 1990.Kể từ đó đến nay,số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng tăng lên nhanh chóng với các hình thức phong phú:công ty trách nhiệm hữu hạn,công ty cổ phần,hợp tác xã,công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân;nhất là từ sau khi Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam,khoá X,kỳ họp thứ 5ban hành Luật doanh nghiệp ngày 12 tháng 6 năm 1999 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2000.Trong tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.Theo thống kê,"hiện nay ở nước ta doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 65,9% so với tổng số doanh nghiệp nhà nước và chiếm 33,6% so với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài;chiếm 26% lực lượng lao động,đóng góp 24-25%GDP và 31%giá trị sản xuất công nghiệp;chiếm 78%mức bán lẻ của nghành thương nghiệp,64%khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá." Những nội dung cơ bản về quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ-PGS.TS Đồng Xuân Ninh và Ths Vũ Kim Dũng đồng chủ biên.Trường đại học kinh tế quốc dân-Hà nội 1/2000 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có rất nhiều lợi thế so với loại hình doanh nghiệp lớn,được mệnh danh là "doanh nghiệp đánh nhanh,thắng nhanh và chuyển hướng nhanh",những đóng góp của chúng cho nền kinh tế đất nước là không thể phủ nhận.Song trên thực tế,doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là không có hạn chế,không phải là không gặp khó khăn.Một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam đó là khả năng hạn hẹp về mặt tài chính và năng lực,trình độ quản trị tài chính của phần lớn chủ doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Tiêu chí phân doanh nghiệp ở Việt nam được thực hiện theo công văn số 681/CP-KTN do chính phủ ban hành ngàu 20 tháng 6 năm 1998;theo đó doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ Đồng(378600USD)và có số lao động dưới 200 người.Như vậy,tiêu chí cơ bản để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ là số lao động ít và qui mô vốn nhỏ. 2.Thực trạng tài chính và quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam Như trên đã trình bày,doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt nam và chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh;chúng tồn tại đưới nhiều hình thức phong phú,trong đó chủ yếu là Doanh nghiệp tư nhân,Công ty trách nhiệm hữu hạn,Công ty cổ phần và Hợp tác xã.Bảng số liệu sau đây cho thấy số lượng,qui mô vốn và cả xu phát triển của các loại hình doanh nghiệp mới được thành lập trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm1997(bảng 2.1): Theo số liệu bảng 2.1,trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm1997,tức là sau khi Luật công ty và Luật doanh nghiệp nhà nước được ban hành và có hiệu lực,có tới gần 41.000 doanh nghiệp được thành lập.Trong đó chủ yếu là hai loại hình doanh nghiệp tư nhân(gần 24.000 doanh nghiệp,chiếm 58.93%)và công ty trách nhiệm hữu hạn(gần 10.000 doanh nghiệp,chiếm 24.45%).Cùng với sự gia tăng về số lượng doanh nghiệp qua các năm thì tổng số vốn cũng ngày một lớn hơn.Số liệu về quy mô vốn trung bình của các doanh nghiệp mới thành lập được cho ở bảng 2.2 Năm Tổng Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ phần Doanh nghiệp nhà nước Số lượng Vốn(Tr đồng) Số lượng Vốn(Tr đồng) Số lượng Vốn9(Tr đồng) Số lượng Vốn(Tr đồng) Số lượng Vốn(Tr đồng) 1991 109 119.791 69 12.059 36 27.141 4 78.600 1992 5.170 8.239.292 2.858 608.772 1.064 1.506826 56 929.456 1.192 5.196.296 1993 10.670 33.055.123 5.265 975.901 2.104 1.930.378 40 569.015 3.261 29.577.836 1994 7.527 17.817.942 5.306 846.088 1.840 1.452.289 25 1.240.739 356 14.276.832 1995 6.592 31.925.856 4.076 830.892 2.047 1.658.290 35 402.226 434 29.032.453 1996 6.172 20.899.686 3.696 659.893 1.753 1.433.791 39 428.123 684 18.375.893 1997 4.227 8.630.623 2.607 475.176 1.064 1.098.438 22 229.066 584 6.825.916 Tổng 40.517 120.688.313 23.877 4.408.731 9.908 9.107.143 221 3.837.225 6.511 103.285.256 Bảng 2.1-Số lượng và vốn của doanh nghiệp mới thành lập Năm Tổng Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH Công ty cổ phần Doanh nghiệp nhà nước 1991 1.080,73 174,77 753,92 19.650,00 1992 1.583,16 212,99 1.416,19 16.526,00 4.359,31 1993 2.947,81 185,36 917,48 14.225,38 9.070,17 1994 2.323,57 159,46 789,29 49.629,56 40.103,46 1995 4.796,78 203,85 810,11 11.492,17 66.895,05 1996 3.301,78 178,54 817,90 10.977,51 26.865,34 1997 2.017,00 182,27 1.032,37 10.412,09 11.688,26 Tổng thể 2.979,95 184,64 919,17 17.525,90 15.863,256 Nguồn:tính toán theo số liệu bảng 2.1 Bảng 2.2:Qui mô vốn trung bình của các loại hình doanh nghiệp Như vậy,qui mô vốn trung bình của một doanh nghiệp tư nhân vào khoảng hơn 184 triệu Đồng(=4.408.731Tr Đồng/23.877Doanh nghiệp),chỉ bằng 1,16%vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước;qui mô vốn trung bình của một công ty trách nhiệm hữu hạn khoảng hơn 900 Tr Đồng(=9.107.143Tr Đồng/9.908Doanh nghiệp),bằng 5,79%vốn trung bình của một doanh nghiệp nhà nước.Qui mô vốn nhỏ bé của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như nêu trên cũng là một điêu dễ hiểu vì ở Việt nam,một trong hai tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ là qui mô vốn nhỏ(<=5 tỷ Đồng). Số liệu ở bảng 2.2 cũng cho thấy qui mô vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ- nhất là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn-là tương đối ổn định,trong khi đó qui mô vốn trung bình của doanh nghiệp nhà nước có xu hướng gia tăng.Điều này không có gi khó hiểu vì các doanh nghiệp nhà nước được coi là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu được ngân sách nhà nước cấp và nhà nước đang ngày càng quan tâm nhiều hơn tới việc phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ,vốn của các doanh nghiệp này được huy động chủ yếu từ 5 nguồn sau đây: Thứ nhất,là vốn tự có của chủ doanh nghiệp.Chủ doanh nghiệp bỏ vốn tự có của mình đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời.Đây là nguồn vốn chủ yếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ,nhất là các doanh nghiệp nhỏ.Tuy nhiên,thông thường các chủ doanh nghiệp phải đầu tư khoảng từ 50%trở lên,vì đây có thể coi là tỷ lệ an toàn cho các nhà đầu tư khác tham gia đầu tư vào doanh nghiệp.Trên thực tế,rất ít người sáng lập doanh nghiệp có đủ 100%vốn để đầu tư vào doanh nghiệp của mình;hơn nữa dù có đủ vốn để làm việc đó thì các chủ doanh nghiệp cũng không bao giờ đầu tư toàn bộ vốn của mình vi như vậy tỷ lệ rủi ro quá cao.Do vậy,họ thường chỉ đầu tư khoảng 50-70%vốn tự có,phần còn lại họ đi vay mượn của bạn bè,người thân,của các tổ chức tín dụng,...để chia sẻ rủi ro. Thứ hai,là nguồn huy động từ bạn bè,người thân của chủ doanh nghiệp dưới các hình thức vay mượn với lợi tức thoả thuận(hình thức này tương tự như phát hành trái phiếu);hay cùng nhau góp vốn cùng kinh doanh ngay từ ban đầu và người góp vốn đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp.Hình thức này thường áp dụng đối với loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn. Thứ ba,là hình thức bán cổ phiếu để huy động vốn của các công ty cổ phần;người mua cổ phiếu đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp và được hưởng lãi(cổ tức)căn cứ vào số lượng cổ phiếu mình có. Thứ tư,là vay vốn của ngân hàng.Vay vốn từ ngân hàng cũng là một trong những cách huy động tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ.Tuy nhiên trên thực tế có rất ít chủ doanh nghiệp sử dụng vốn từ nguồn này(chỉ có khoảng39-40%số chủ doanh nghiệp có yêu cầu được vay vôn từ nguồn này Vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ-Hoàng Kim Gýao.Nghiên cứu kinh tế số 8/1996 ).Điều này cũng hoàn toàn dễ hiẻu vì hiện nay để có thể vay được vốn từ ngân hàng các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải trải qua nhiều thủ tục phiền hà,đòi hỏi thủ tục thế chấp chặt chẽ,rồi luận chứngcụ thể về phương án kinh doanh...trong khi đó,điều kiện về cơ sở vật chất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu hết còn yếu kém khó có thể đáp ứng được yêu cầu thế chấp để có thể vay được số vốn cần thiết.Hơn nữa,lãi suất vẫn chưa khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn và nhà nước vẫn chưa có được những chính sách hỗ trợ thoả đáng về tài chính cho loại hình doanh nghiệp này. Thứ năm,là nguồn vốn có được từ các đối tác kinh doanh.Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong một môi trường kinh doanh đa dạng,các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng có thể là đối thủ của nhau,nhưng cũng có thể là những đối tác làm ăn tin cậy của nhau.Các hình thức như mùa bán trả chậm,hàng đổi hàng hay liên doanh liên kết ...giữa các đối tác cũng trở thành nguồn hình thành,huy động vốn cho các doanh nghiệp.Điều này rất dễ thực hiện đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì một trong những ưu thế lớn của loại hình doanh nghiệp này là rất dễ dàng phát huy bản chất của chế độ hợp tác sản xuất,liên doanh liên kết. Như vậy,khác với các doanh nghiệp nhà nước,doanh nghiệp vừa và nhỏ không được sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước về mặt tài chính,những người sáng lâp ra doanh nghiệp phải tự tìm nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động cho doanh nghiệp mình.Những nguồn vốn huy động được sẽ là đủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả,vấn đề ở chỗ những người chủ doanh nghiệp phải xác định được qui mô kinh doanh phù hợp với khả năng tài chính và thực hiện tốt công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp mình. Có lẽ quản trị tài chính vẫn còn là một lĩnh vực hoạt động khá mới mẻ đối với Việt nam nên một bộ phận chủ doanh nghiệp-nhất là chủ doanh nghiệp nhỏ-chưa nhận thức hết vai trò và tác dụng cũng như tầm quan trọng của mặt hoạt động này trong quản trị doanh nghiệp.Họ lập kế hoạch cho các lĩnh vực hoạt động khác mà không lập kế hoạch cho hoạt động tài chính,do vậy khả năng kiểm soát tài chính doanh nghiệp mình rất kém và thường xuyên thụ động trước thị trường.Sự yếu kém trong quản trị hoạt động tài chính cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả chung của doanh nghiệp;những thất bại như làm ăn thua lỗ hay thậm chí phá sản của một số doanh nghiệp,bên cạnh những vướng mắc về vấn đề cơ chế chính sách,thiếu thông tin,hạn chế về mặt bằng,...thì sự yếu kém trong công tác quản trị tài chính cũng là một nguyên nhân chủ yếu xuất phát chủ quan từ phía doanh nghiệp. Tuy nhiên,trên thực tế tình hình kinh tế đất nước ta thời gian gần đây,bộ mặt kinh tế đất nước có nhiều khởi sắc,số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả ngày một gia tăng đem lại nhiều việc làm cho người lao động và đóng góp không nhỏ cho ngân sách quốc gia.Có được sự thành công đó là nhờ rất nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan,quan trọng nhất có lẽ phải kể đến sự trưởng thành của các chủ doanh nghiệp,sự thay đổi quan điểm và cách nhìn nhận và đánh giá về những quy luật kinh tế khách quan,nhanh nhạy trong nắm bắt nhu cầu thị trường và tìm cách thoả mãn nhu cầu ấy,đồng thời cũng thay đổi nhận thức về vai trò và tác dụng của công tác quản trị tài chính doanh nghiệp,họ đã biết hoạch định và kiểm soát tốt hơn tài chính của doanh nghiệp mình.Sự thành công của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian gần đây cũng cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xu hướng làm ăn có hiệu quả hơn so với các doanh nghiệp nhà nước.Điều này đã được chứng minh bởi nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ.Song do thiếu số liệu cụ thể về các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể phân tích rõ hơn về hoạt động tài chính cũng như công tác quản trị tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên trong khuôn khổ bài viết nàychỉ so sánh được một số chỉ tiêu về hiệu qủa sử dụng vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh(mà chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ)với các doanh nghiệp nhà nước,số liệu được cho ở bảng sau: Giá trị TSCĐtheo nguyên giá trên doanh thu Giá trị nhà xưởng trên doanh thu Giá trị máy móc thiết bị trên doanh thu Thực hiện vốn ĐTXDCBtrên doanh thu Tổng nguồn vốn trên doanh thu Vốn vay trên doanh thu Tổng số 0.381 0.098 0.234 0.039 0.611 0.275 1.DNNN 0.417 0.101 0.261 0.043 0.652 0.302 1.1DNNN TƯ 0.562 0.109 0.370 0.050 0.876 0.431 1.2DNNN ĐP 0.220 0.090 0.111 0.034 0.346 0.126 2.DNTập thể 0.298 0.089 0.188 0.010 0.358 0.065 3.DN Tư nhân 0.197 0.099 0.088 0.018 0.287 0.045 4.CT Cổ phần 0.224 0.102 0.097 0.010 1.395 0.603 5.CT TNHH 0.188 0.074 0.103 0.018 0.363 0.147 So sánh với các doanh nghiệp nhà nước trung ương 1.1DNNN TƯ 100 100 100 100 100 100 1.2.DNNN ĐP 39 82 30 69 40 29 2.DN Tập thể 53 81 51 21 41 15 3.DN tư nhân 35 91 24 36 33 10 4.CT Cổ phần 40 94 26 20 155 140 5.CT TNHH 33 68 68 37 41 34 Nguồn:Một số chỉ tiêu về qui mô vốn và hiệu quả của 1,9 triệucơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt nam,Tổng cục thống kê,Nhà xuất bản thống kê,Hà nội-1997.Bảng 28,Tr 176-1997. Bảng2.3-Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của các doanh nghiệp vốn đầu tư trong nước. Phân tích bảng này cho thấy,xét về mặt sử dụng vốn vay nói riêng và sử dụng tổng nguồn vốn nói chung thì các doanh nghiệp nhà nước địa phương(DNNN ĐP)và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh(chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ)nhìn chung đạt hiệu quả cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước trung ương.Cụ thể phân tích hai chỉ tiêu "tổng nguồn vốn trên doanh thu"và chỉ tiêu"vốn vay trên doanh thu"ta thấy:để tạo ra một đồng doanh thu,các doanh nghiệp nhà nước trung ương phải đầu tư 0.876đồng vốn,trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước địa phương chỉ phải đầu tư 0.346đồng(bằng 40%),các doanh nghiệp tập thể(hợp tác xã) đầu tư 0.358đồng(bằng41%),công ty trách nhiệm hữu hạn(CT TNHH)đầu tư 0.636đồng(bằng41%)và doanh nghiệp tư nhân chỉ đầu tư 0.287đồng(bằng 33%). Với cách đánh giá tương tự cho số liệu ở các cột còn lại cũng đều cho kết quả tương tự về hiệu quả chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ(chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn)nhìn chung cao hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Tìm hiểu và phân tích hoạt động tài chính và công tác quản trị tài chính doanh nghiệp trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam có thể khái quát lại một số mặt tích cực và hạn chế,xét trên cả phương diện khách quan và chủ quan như sau: *Về những kết quả tích cực: Trước những hiệu quả thiết thực của công tác quản trị tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện,nhiều chủ doanh nghiệp đã nhận thức rõ hơn về vai trò và những tác dụng tích cực của quản trị tài chính trong quản trị doanh nghiệp.Họ đã quan tâm hơn tới việc lập các kế hoạch tài chính ngắn-trung và dài hạn cho hoạt động của doanh nghiệp,quan tâm tới tuyển chọn,bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp có đủ năng lực,trình độ và các kỹ năng cần thiết;áp dụng kiến thức và kỹ thuật mới trong quản trị doanh nghiệp nói chung và quản trị tài chính nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp. Tuy vậy,trong hoạt động tài chính cũng như quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. *Về những hạn chế,tồn tại: Thứ nhất,hoạt động tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa "sôi động",rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các thị trường tài chính. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do nguồn vốn đầu tư ban đầu còn hạn hẹp,khả năng huy động lại bị hạn chế vì nhiều nhà đầu tư cũng như một bộ phận nhân dân chưa có niềm tin vào khả năng hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ;vấn đề vay vốn của ngân hàng cũng gặp khó khăn do cơ chế,chính sách chưa thuận lợi và thủ tục còn phiền hà;mặt khác,do còn thiếu những cán bộ quản trị tài chính có năng lực. Thứ hai,công tác quản trị tài chính chưa thật sự được đặt đúng vị trí của nó trong quản trị doanh nghiệp do nhận thức về tầm quan trọng của một số nhà quản trị về công tác này chưa được đầy đủ,dẫn đến việc thực hiện chưa đồng bộ,chưa phát huy được hết vai trò trung tâm và tác dụng tích cực của quản trị tài chính trong quản trị doanh nghiệp.Chính vì vậy mà hiệu quả hoạt động tài chính và quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa cao làm giảm hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp. Phần 3: Một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quản trị tài chính trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam 1.Về phía nhà nước Thứ nhất,sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật,tạo hành lang pháp lý thuận lợi và "sân chơi"bình đẳng cho các doanh nghiệp và vừa và nhỏ;tránh để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chịu thiệt thòi khi "chơi chung một sân" với các doanh nghiệp lớn. Thứ hai,có chế đô đãi ngộ và ưu tiên hợp lý cho sự phát triển của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vai trò tích cực của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được khẳng định cả về mặt lý luận và thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt nam thời gian qua.Các nhà hoạch định chính sách cần nhận thức rõ hơn về những vai trò to lớn và tác dụng tích cực của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tham gia giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động,đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách quốc gia,...Đồng thời cũng cần làm thay đổi nhận thức của người dân về vị trí thực sự của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong xã hội,trong nền kinh tế quốc dân. 2.Về phía các doanh nghiệp Thứ nhất,hoạt động sản xuất kinh doanh trung thực,có hiệu quả,luôn luôn giữ chữ tín để tạo dựng lòng tin đối với các nhà hoạch định chính sách và với nhân dân. Một khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và giữ vững chữ tín với khách hàng,với chính phủ,sự ủng hộ đối với doanh nghiệp sẽ không ngừng tăng lên.Các nhà đầu tư sẽ yên tâm khi "gửi gắm" tiền và tài sản của mình vào doanh nghiệp và nhờ đó doanh nghiệp có thể có được nguồn huy động tài chính với số lượng đáng kể;giữ chữ tín trong kinh doanh cũng có nghĩa là doanh nghiệp tạo dựng được mối quan hệ tốt với các bạn hàng và nhờ đó doanh nghiệp có thể tranh thủ được nguồn tài chính thông qua mua chịu các yếu tố đầu vào hay nhận được tiền ứng trước của khách hàng.Đồng thời về phía nhà nước,các nhà hoạch định chính sách sẽ yên tâm khi biết chắc chắn rằng doanh nghiệp sẽ không gây ra chuyện gì phiền phức khi có được những điều kiện ưu đãi thông thoáng hơn.Trên cơ sở những điều kiện thuận lợi có được đó,doanh nghiệp sẽ thực hiện đa dạng hoá các nguồn cung ứng vốn,lựa chọn những nguồn cung ứng phù hợp với chi phí vốn thấp nhất. Thứ hai,thực hiện tốt công tác ghi chép và quản lý sổ sách,chứng từ kế toán;doanh nghiệp nên tổ chức ra bộ phận kế toán quản trị để tạo nguồn cung cấp thông tin kịp thời,chính xác và đầy đủ phục vụ cho phân tích tài chính doanh nghiệp đạt kết quả như mong muốn,từ đó giúp cho quản trị tài chính doanh nghiệp đưa ra được những quyết định quản trị phù hợp. Thứ ba,tuyển chọn,đào tạo,bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ quản trị có năng lực về mọi lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Quản trị tài chính doanh nghiệp mặc dù giữ vị trí trung tâm trong quản trị doanh nghiệp nhưng nó không tách rời các bộ phận quản trị khác mà có mối liên hệ chặt chẽ với các bộ phận ấy.Do đó cần phải thiết lập và duy trì quan hệ giữa các bộ phận quản trị trong doanh nghiệp.Cách tốt nhất để thực hiện điều này là phải có đội ngũ nhà quản trị doanh nghiệp vừa có kiến thức tổng hợp về các lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp,vừa có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực mình phụ trách. Mọi hoạt động quản trị doanh nghiệp suy cho cùng đều là quản trị con người. Trên đây là một số kiến nghị giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao hơn nữa hiệu quả quản trị tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung.Đây chỉ là những giải pháp mang tính tổng quát,khi áp dụng còn tuỳ thuộc tình hình cụ thể của doanh nghiệp thì mới đưa ra được giải pháp cụ thể. Kết luận Quản trị tài chính doanh nghiệp giữ vị trí trung tâm trong quản trị doanh nghiệp,đồng thời là một lĩnh vực hoạt động rộng,phức tạp và có thể nói là còn khá mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp Việt nam hiện nay.Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp đã thực hiện rất tốt công tác này đem lại hiệu quả tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp,nhưng cũng có không ít doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của quản trị tài chính trong quản trị doanh nghiệp.Chính vì vậy,đặt ra yêu cầu khách quan là phải có những công trình nghiên cứu được công bố rộng rãi về những vai trò và tác dụng của quản trị tài chính doanh nghiệp nhằm giúp các chủ doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về vấn đề này,từ đó có được những biện pháp tích cực để cải thiện chất lượng công tác quản trị tài chính,nâng cao hiệu quả hoạt động mọi mặt của toàn doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước hiện nay,vai trò và những đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng được khẳng định và coi trọng.Sự phát triển bền vững và hiệu quả của mỗi doanh nghiệp không chỉ mang lại lợi ích cho chủ doanh nghiệp,cho người lao động mà còn góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội chung trong sự nghiệp xây dựng đất nước.Bên cạnh những ưu ái mà nhà nước và xã hội dành cho,mỗi doanh nghiệp hãy tự đứng vững trên đôi chân của mình,phát huy nội lực để làm giàu cho mình,cho đất nước. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp-Khoa ngân hàng tài chính-Đại học kinh tế quốc dân.NXB Thống kê-Hà nội-1998 2.Quản trị tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ-PTS Vũ Duy Hào.NXB Thống kê-Hà nội 1998 3.Giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp-Bộ môn Quản trị kinh doanh-Trung tâm đào tạo quản trị kinh doanh tổng hợp-Trường đại học kinh tế quốc dân.NXB Thống kê-Hà nội 2001.Tập 2 4.Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh-Khoa kế toán-kiểm toán-Trường đại học kinh tế quốc dân.NXB Thống kê-Hà nội 2001 5.Những nội dung cơ bản về quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ.PGS.TS. Đồng Xuân Ninh và Ths.Vũ Kim Dũng đồng chủ biên.Hà nội-1/2000 6.Tạp chí nghiên cứu kinh tế 7.Báo cáo nghiên cứu "Doanh nghiệp vừa và nhỏ-hiện trạng và những kiến nghị giải pháp".Nhóm biên soạn:Nguyễn Đình Cung,Trần Kim Hào,Lê Viết Thái(chủ biên),Tô Đình Thái,Hoàng Văn Thành,với sự hỗ trợ và hợp tác của viện Friedrich Erbert Hà nội-Hà nội 5/2000 8.Báo cáo nghiên cứu"Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam".Dự án MIP-UNIDO Hỗ trợ Doanh nghiệp công nghiệp Vừa và nhỏ tại Việt nam .Hà nội,tháng 1,1999 9.Niên giám thống kê các năm 1996,1997 mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0653.doc
Tài liệu liên quan