Tiểu luận Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị

Tính giá thành sp hoàn thành trong kỳ. Bước 1 : Tổng hợp chi phí sx trong kỳ theo từng loại sp +Chi phí trực tiếp là chi phí NLVLTT và CPNCTT +Chi phí gián tiếp : chi phí sản xuất chung Tập hợp chi phí sx chung : Vật liệu 60.000 Tiền lương 50.000 Khấu hao TSCĐ 200.000

doc29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Hạch toán kế toán là khoa học thu nhận , xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản trong các đơn vị nhằm kiểm tra toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị đó. Hạch toán kế toán có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và trong quản lý kinh tế .Nước ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy hạch toán kế toán là cực kỳ quan trọng, cần thiết không chỉ đối với quản lý kinh tế vĩ mô mà còn quan trọng, cần thiết cho việc quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. LêNin từng nói không có kế toán thì không có CNXH.Muốn xây dựng CNXH buộc phải có kế toán. Xây dựng CNXH, nền sản xuất xã hội phát triển ở tầm cao.Thực tế xây dựng hệ thống CNXH ở các nước đã chứng minh họ không quan tâm đến kế toán nên đã tan rã CNXH. Những năm qua cùng với sự phát triển kinh tế, sự biến đổi sâu sắc của cơ chế kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện và phát triển góp phần nâng cao chất lượng quản lý tài chính của Nhà nước và doanh nghiệp .Trong cơ chế mới hệ thống kế toán cũ đã không còn phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, của cơ chế mở,sự hoà nhập với chuẩn mực của thông lệ kế toán quốc tế đòi hỏi phải có sự đổi mới hệ thống kế toán Việt Nam theo phương châm dễ làm, dễ hiểu, minh bạch, dễ kiểm tra kiểm soát. nagỳ 1/1/1995 hệ thống kế toán hiện hành mới nhất theo quyết định số 1141 TC/CĐKT đã được ban hành. Cùng với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống kế toán, hệ thống các phương pháp cũng có sự thay đổi . Phương pháp kế toán XHCN đáp ứng được yêu cầu tổng hợp số liệu kế toán theo từng nghành và toàn bộ nèn kinh tế quốc dân phục vụ cho sự thông nhất lãnh đạovà quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước được thể hiện ở sự thống nhất về chứng từ kế toán, về nguyên tắc đánh giá và tính giá thành . Nhưng ngày nay trong nền kinh tế thị trường, các quan niệm và cách xử lý theo cách nhìn của nền kinh tế thị trường như quan niệm về chi phí kinh doanh, thu nhập , kết quả hoạt động kinh doanh…sự đổi mới của hệ thống kế toán đáp ứng được yêu cầu của kế toán trong kinh tế thị trường. Hệ thống phương pháp kế toán trước đây bao gồm : lập chứng từ kế toán , kiểm kê, đánh giá vốn kinh doanh, tính giá thành, tài khoản kế toán, ghi sổ kép , bảng cân đối kế toán và các báo các báo cáo kế toán thì hiện nay gói gọn thành bốn phương pháp là:chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, tính giá , tổng hợp cân đối kế toán. Trong những phương pháp đó, phương pháp tính giá chính là phương pháp đánh giá vốn kinh doanh và phương pháp tính giá thành trong hệ thống phương pháp kế toán trước đây.Phương pháp tính gía là một trong những phương pháp kế toán quan trọng nhất mà néu không có nó đoơn vị không thể tiến hành hạch toán kinh tế được. Phương pháp kế toán, nội dung của nó, ý nghĩa, nguyên tắc , việc vận dụng nó đẻ tính giá tài sản của đơn vị là những điều mà bất kỳ một người kế toán nào cũng đều phải hiêủ rõ. Là một sinh viên khoa kế toán, trong bài viết này em sẽ trình bày những hiểu biết của mình về vấn đè lý luận cũng như việc vân dụng phương pháp này để tính giá của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị. Mục lục Trang I- Lý luận chung về phương pháp tính giá 1. Khái niệm về phương pháp tính giá: Như chúng ta đã biết, cùng với sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá, tiền tệ đã ra đời đóng vai trò là vật ngang giá chung cho trao đổi và là thước đo để biểu hiện giá trị của những loại tài sản khác nhau.Thước đo tiền ttẹ là thước đo tổng hợp phương pháp có tính chất ưu việt hơn hẳn thước đo hiện vật và thước đo lao động. Việc sử dụng thước đo tiền tệ là đặc trưng chủ yếu của hạch toán kế toán, với loại thước đo này kế toán có thể tính toán , tổng hợp dược giá trị toàn bộ tài sản hiện có cũng như sự vận động của chúng trong quá trình hoạt động của đơn vị. Bởi vậy hạch toán kế toán đã xây dựng nên phương pháp tính giá. Phương pháp tính giá la phương pháp kế toán sử dụng thuớc đo tiền tệ để xác định trị giá thực tế của tài sản theo những nguyên tắc nhất định .Định nghĩa này phản ánh việc tính giá của các loại tài sản khác nhau thì có nguyên tắc riêng nhưng đều sử dụng thước đo tiền tệ. Đinh nghĩa khác về phương pháp tính giá của trường ĐHKTQD: Tính giá là phương pháp hệ thống chi phí trực tiếp, gián tiếp cho từng loại hoạt động, từng loại hàng hoá vật liệu, tài sản, sản phẩm và lao vụ. Đây là một định nghĩa cụ thể, chi tiết nhưng lại chưa hoàn haỏ bởi nó không nêu bật được việc phương pháp tính giá chỉ sử dụng thước đo tiền tệ để tính giá tài sản. Các quan niệm về phương pháp tính giá co quan niêm của nhà kinh tế tư bản cũng rất khác biệt. Nhà nươc tư bản không co quy định thống nhất về tính giá. Vì vậy việc tính giá tài sản của doanh nghiệp tư bản co thể theo bất kỳ loại giá nào tuỳ theo mục đích của từng nhà tư bản trong từng thời kỳ khác nhau có thể là giá mua, giá bán… Tóm lại, tuy co nhiều điểm khác nhau về phương pháp tính giá nhưng tựu chung nó vẫn là một phương pháp kế toán trong đó sử dụng thước đo tiên tệ để tính giá của tài sản theo những nguyên tắc nhất định ( những nguyên tắc này có thể khác nhau ở mỗi thời kỳ ). 2. Sự cần thiết phải có phương pháp tính giá - Xuất phát từ vị trí của phương pháp tính giá so với các phương pháp kế toán khác ta thấy nhờ có tính giá mà kế toán mới ghi nhận phản ánh các đối tượng khác nhau của kế toán vào chứng từ, tài khoản và tổng hợp các thông tin khác nhau qua các báo cáo. Mặt khác , việc tính giá phải trên cơ sở tổng hợp các thông tin do các chứng từ, tài khoản, các báo cáo cung cấp. Vì vậy, có thể nói không có phương pháp tính giá thì không thể thực hiện tốt chế độ hach toán trong đơn vị. Bởi nhờ có phương pháp này kế toán mới xác định chính xác chi phí bỏ ra trong sản xuất kinh doanh, những kết quả thu được do sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu về giá thành, kết quả kinh doanh lãi lỗ… - Xuất phát từ yêu cầu của công tác kế toán đòi hỏi phải có phương pháp tính giá như yêu cầu về taì liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo tính nhất quán, chính xác, trung thực, khách quan, kịp thời, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu. Bởi vậy, chỉ có tính giá được cụ thể của từng loại tài sản cả ở trạng thái tĩnh và trong quá trình vận động thì mới có được thông tin đảm bảo các yêu cầu trên để cung cấp thông tin về tình hình hiện có và sự vận động của tài sản cho những đối tương cần thông tin. 3. Hình thức biểu hiện của phương pháp tính giá. Giống như nhiêu phương pháp kế toán khác đều có hình thức biểu hiện riêng như phương pháp chứng từ kế toán có hình thức biểu hiện là các bảng chứng từ kế toán và chương trình luân chuyển chứng từ kế toán; phương pháp tài khoản có hình thức biểu hiện là các tài khoản kế toán và cách ghi chép trên tài khoản; phương pháp tổng hợp cân đối kế toán là hệ thống các bảng tổng hợp cân đối kế toán. Còn phương pháp tính giá có hình thức biểu hiện là các sổ (bảng) tính giá và trình tự tính giá. Sổ ( bang ) tính giá là những tờ sổ (bảng) được sử dụng để tổng hợp chi phí cấu thành giá của từng loại tài sản (đối tượng tính giá) trong đơn vị làm cơ sở để xác định đúng đắn trị giá của tài sản được hình thành ví dụ như sổ mua hàng để ghi tất cả các khoản chi phí liên quan đến việc mua hàng hay bảng kê số 8 dùng để tổng hợp tình hình xuất kho, nhập kho thành phẩm theo giá thực tế và giá hạch toán, bảng kê số 9 dùng để tính giá thực tế thành phẩm, hàng hoá,… Trình tự tính giá là việc quy định tuần tự các bước công việc để tính giá của tài sản hình thành (sẽ được trình bầy cụ thể ở phần sau). 4. ý nghĩa, tính khoa học phương pháp tính giá 4.1. Nhờ có phương pháp tính giá mà kế toán đơn vị thực hiện tính toán, xác định được trị giá thực tế của tài sản hình thành trong quá trình hoạt động của đơn vị. Thông qua tính giá mới cho phép tính toán, xác định được chính xác chi phí đầu vào của các yếu tố sản xuất để tạo doanh thu trong kỳ. Qua đó cho phép tính toán chính xác các chỉ tiêu giá thành, kết quả kinh doanh và những thông tin cần thiết phục vụ cho việc quản lý đối tượng kế toán. Cũng thông qua tính giá cho biết giá trị thực tế của hàng bản ra. Trên cơ sở đó doanh nghiệp ấn định giá bán hàng bán ra sao cho vừa đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất vừa đảm bảo mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể đầu tư tái sản xuất mở rộng. Nhờ có việc tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản hình thành giúp cho các nhà quản lý có thể kiểm tra giám sát được những hoạt động và những chi phí mà đơn vị đã chi ra để tạo nên tài sản. Từ đó đơn vị có thể quản lý có hiệu quả các khoản chi phí đã chi ra để tạo tài sản, ngăn ngừa kịp thời các hành vi tham ô, lãng phí, phát huy chức năng giám đốc bằng tiền một cách thường xuyên, nhanh chóng và có hiệu quả. ý nghĩa quan trọng của phương pháp tính giá chỉ có thể phát huy được tác dụng khi kế toán các đơn vị ghi chép đầy đủ, chính xác, có hệ thống các hoạt động kinh tế tài chính diễn ra trong quá trình tạo nên tài sản của đơn vị, tính toán tổng hợp, chính xác các chi phí cấu thành nên giá của tài sản. - Nhờ có phương pháp tính giá mà kế toán đơn vị tổng hợp được toàn bộ tài sản trong đơn vị, giúp cho việc quản lý, sử dụng tài sản trong đơn vị một cách có hiệu quả. Nó cho phép tổng hợp và phản ánh đúng đắn tình hình vốn (tài sản) và nguồn vốn của đơn vị như cơ cấu vốn, cơ cấu nguồn vốn có hợp lý không, tốc độ chu chuyển vốn nhanh hay chậm, từ đó giúp cho các nhà quản lý trong các đơn vị, các nhà kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà Nước có những tác động phù hợp nhằm đạt tới một cơ cấu vốn kinh doanh hợp lý và tăng nhanh vòng quay của vốn kinh doanh, góp phần làm cho đơn vị hoạt động có hiệu quả hơn. 4.2. Tính khoa học của phương pháp tính giá * Cơ sở phương pháp luận của phương pháp tính giá. Cùng với các phương pháp khác trong hệ thống phương pháp khoa học của hạch toán kế toán, phương pháp tính giá được xác định trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-LêNin. Nguyên lý triết học Mac-LêNin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-LeNin: Cái khách quan la cái tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, đòi hỏi con người trong quá trình hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và tuân theo các quy luật khách quan. Nếu làm ngược lại với các quy luật này hoạt động thực tiễn của con người sẽ không đạt được kết qủa như mong đợi hoặc con người sẽ phải gánh chịu hậu quả. Nguyên lý triết học Mac-LêNin đòi hỏi chúng ta trong việc xem xét sự vật hiện tượng phải quán triệt nguyên tắc khách quan, phải xuất phát từ thực tế, từ điều kiện, hoàn cảnh vật chất hiện có, chống thái độ xuyên tạc, bóp méo sự thật, xem xet sự vật một cách chung chung trìu tượng. Phải tôn trọng và hành động theo quy luật này, không thể tuỳ tiện bất chấp quy luật khách quan, chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Tính khách quan trung thực được thể hiện ở phương pháp tính giá đó là mọi tài sản phải được tính theo giá trị thực tế của tài sản ở thời điểm tính giá hay là phải xác đinh được chính xác toàn bộ chi phí mà đơn vị bỏ ra để tạo nên tài sản tại thời điểm tính giá. Ngoài ra ,để tính giá tài sản hình thành phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước, xuất phát từ tình hình kinh tế chính trị xã hội, từ nguyên tắc quản lý tài sản có những khoản chi phí không tạo nên tài sản nhưng vẫn phải tính vào giá tài sản. Ví dụ chi phí huấn luyện quân sự không tạo nên sản phẩm nhưng vẫn phải tính vào giá sản phẩm.Như ta biết tất cả các đơn vị trong toàn xã hội đều phải huấn luyện quân sự, phải lấy ngân sách quốc phòng bù đắp. Do đó, để giảm bớt ngân sách cho quốc phòng Nhà Nước giao cho các đơn vị phải tính chi phí huấn luyện quân sự vào chi phí sản xuất kinh doanh. Nên có thể nói kế toán còn mang tính chất chính trị xã hội Ngoài ra còn chi phí quản lý doanh nghiệp; lương giám đốc, lương cán bộ quản lý (có cả ở khâu mua hàng, sản xuất) không tính vào giá hàng mua mặc dù hao phí lao động của giám đốc, cán bộ quản lý phải tính vào giá hàng mua vì họ phải tìm hiểu thị trường. Để đơn giản trong thời kỳkế hoạch hoá chi phí quản lý doanh nghiệp tính vào giá của sản phẩm sản xuất ra. Trong nền kinh tế thị trường , chi phí quản lý doanh nghiệp tính tất vào giá của hàng bán. Đúng ra chi phí quản lý doanh nghiệp có ở mọi khâu của quá trình sản xuất, nhưng nếu như thế thì không quản lý được nên chỉ tính vào khâu giá của hàng bán để quản lý tôt. Mặt khác, vì hạch toán kế toán là khoa hoc kinh tế, có đối tượng nghiên cứu là tài sản và sự vận động của tài sản trong đơn vị nên cũng như các môn khoa hoc kinh tế khác hạch toán kế toán phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học của kinh tế chính trị học về quá trình tái sản xuất xã hội, các giai đoạn, các yếu tố của quá trình tái sản xuất, đặc điểm của từng giai đoạn, từng yếu tố và tính chất sở hữu tài sản….Từ đó tổ chức hạch toán các giai đoạn các yếu tố của quá trình tái sản xuất phù hợp với đặc điểm của nó và tính chất sở hữu tài sản. Vì vậy hệ thống các phương pháp khoa học của hạch toán kế toán trong đó có phương pháp tính giá được xây dựng trên cơ sở những thành tựu khoa học của xã hội loài người, các quy luật tồn tại và phát triển của các sự vật hiện tượng, đảm bảo các phương pháp kế toán cũng như phương pháp tính giá phản ánh được các giai đoạn, các yếu tố của quá trình tái sản xuất xã hội trong sự tồn tại giữa những hình thái vật chất khác, trong mối liên hệ mật thiết và sự chuyển hoá lẫn nhau. Vận dụng lý luận của Kinh Tế Chính Trị học về các yếu tố co bản của quá trình sản xuất: Sản xuất luôn luôn là sự tác động qua lại của 3 yếu tố cơ bản : lao động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Khi tính giá chi phí về lao động (chi phí nhân công trực tiếp) chi phí về đối tượng lao động (chi phí về nguyên vật liêu) chi phí về tư liệu lao động (hao mòn tài sản cố định) để tính trị giá thực tế sản phẩm sản xuất. Được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận khoa học nhà triết học Mac-LêNin và kinh tế chính trị học nên phương pháp tính giá có tính khoa học rất cao, giúp cho việc xác định giá của tài sản một cách khách quan chân thực. Trị giá thực tế của tài sản được xác định bằng cách tổng hợp tất cả các chi phí thực tế đơn vị đã chi ra để tạo nên tài sản tại thời điểm tính giá, giúp cho các đơn vị tiến hành tính giá tài sản thống nhất theo một trình tự khoa học 5. Những yêu cầu và nguyên tắc tính giá tài sản Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của phương pháp tính giá, việc tính giá tài sản phải đảm bảo yêu cầu và nguyên tắc nhất định. 5.1. Yêu cầu +Tinh nhất quán và so sánh được +Tính chân thực +Tính kịp thời +Tính đầy đủ +Tính rõ ràng dễ hiểu +Quán triệt nguyên tắc tiết kiệm *Nguyên tắc nhất quán và so sánh được Nguyên giá của tài sản được đơn vị tạo ra trong kỳ này được tính toán xác định phải so sánh được với giá của tài sản cùng loại do các đơn vị khác tạo ra trong cùng một thời kỳ có như vậy mới giúp cho đơn vị học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau cùng tiến bộ trong nền kinh tế thị trường có định hướng của Nhà Nước, các đơn vị phải giúp nhau học hỏi nhau, cho nên yêu cầu phải có sự nhất quán trong tính toán. ở các nước tư bản không có yêu cầu này. Tuy nhiên trong thực tế vẫn chưa có sự nhất quán giữa các đơn vị kinh doanh và đơn vị hành chính sự nghiệp việc tính giá tài sản có sự khác VD:Mua 1 tấn xi măng giá mua 800.000 Chi phí mua 20.000 Trong đơn vị kinh doanh tính giá mua thực tế là 820.000 nhưng trong đơn vị hành chính sự nghiệp lại chỉ tính gía mua là 800.000, chi phí mua 20.000 họ tính vào chi phí trong kỳ. Do đó không đánh giá đúng được đơn vị nào hoạt động có hiệu quả hơn. Mặt khác giá của tài sản đơn vị tạo ra kỳ này phải so sánh được với giá kế hoạch mà đơn vị đã tính toán xác định để giúp đơn vị tính toán xác định được mức độ hoàn thành kế hoạch, nhận thức được phạm vi quy mô, mức độ phát triển hoạt động sản xuất đó như thế nào, đánh giá được kế hoạch có hoàn thành hay không, nguyên nhân do đâu để có những biện pháp kịp thời giúp đơn vị hoạt động hiệu quả. *Nguyên tắc trung thực khách quan: Toàn bộ chi phí thực tế đơn vị đã chi ra để hình thành nên tài sản của đơn vị phải được kế toán ghi chép đầy đủ, tính toán chính xác theo từng loại tài sản tạo nên. Phải xem xet xem chi phí đó thực tế đó có hay không, phạm vi quy mô hoạt động kinh tế tài chính xảy ra ở đâu,vào thời gian nào. Yêu cầu này phù hợp với quan điểm của triết học đó là khi xem xét đánh giá sự vật hiện tượng một cách đúng đắn phải gắn với thời gian không gian cụ thể. Việc tính giá tài sản phải phù hợp vớigiá cả trên thị trường tại thời điểm tính giá. Đồng thời phải phù hợp với chất lượng , số lượng tài sản. Nếu việc tính giá tài sản không chính xác, không trung thực thì thông tin do kế toán cung cấp sẽ mất tính chính xác, không đáng tin cậy ảnh hưởng xấu tới việc ra các quyết đinh kinh doanh của đơn vị. Điều ngược lại sẽ giúp cho những nhà quản trị đơn vị nhận thức được đầy đủ tình hình thực tế tài sản và sự vận động tái sản, họ có quyết định đúng đắn cho hoạt động của mình. *Thông tin do tính giá cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời, theo yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin tính giá. Phải có sự phù hợp của những thông tin do tính giá cung cấp với tình hình thực tế của đơn vị giúp các nhà quản lý ra những quyết định kinh tế thích hợp, sát đúng thực tế và tương lai phát triển của đơn vị. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng tronh thời đại thông tin bùng nổ. Ơ nước ta hiên nay thông tin do kế toán cung cấp chưa mang tính kịp thời, tuy nhiên vẫn sử dụng được vì điều kiện công nghệ thông tin KHKT ở nước ta chưa phát triển. *Tài liệu tính giá cung cấp phải đảm bảo tính đầy đủ: Giúp cho việc ra quyết định thích hợp với từng loại hoạt động cũng như tổng thể hoạt động của đơn vị. Đặc biệt là trong điều kiện ngày nay hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị đa dạng, phong phú lại có mối quan hệ mật thiết tác động bổ trợ cho nhau. Nếu thông tin không cung cấp đầy đủ có thể dẫn đến việc ra quyết định sai gây thiệt hại cho đơn vị. *Thông tin do tính giá cung cấp phải rõ ràng dễ hiểu giúp các cơ quan quản lý, các nhà quản trị và cả người lao động nhận thức đúng đắn hoạt động và kết quả hoạt động của đơn vị mang lại hiệu quả cao hơn. Ơ các nươc tư bản chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất khônh có yêu cầu này. Họ không muốn cung cấp thông tin một cách minh bạch. *Tổ chức tiến hành phương pháp tính giá phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả. 5.2. Nguyên tắc tính giá Để đảm bảo yêu cầu chân thực và tính có thể so sánh được phương pháp tính giá Nhà Nước đã quy định những nguyên tắc có tính chất pháp chế về đánh giá các loại tài sản của đơn vị *Nguyên tắc chung Giá của tài sản phải được tính theo trị giá thực tế- giá gốc, giá nguyên thuỷ, nghiã là tính theo chi phí thực tế tạo nên tài sản ở thời điểm tính giá táỉ sản. Tuy nhiên do đặc trưng vận động của tài sản, yêu cầu hạch toán hàng ngày, yêu cầu quản lý tài sản, Nhà Nước có nhưng quy định cụ thể để tính giá đối với các loại tài sản. Cụ thể là: 5.2.1. Đối với TSCĐ:TSCĐ của các doanh nghiệp là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Theo quy định hiện hành TSCĐ là tài sản có thời gian sử dụng trên 1 năm, có giá trị tối thiểu bắng 5 triệu đồng. Đặc điểm của TSCĐ là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, trong quá trình sử dụng nó bị hao mòn dần về mặt giá trị nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, phần hao mòn đó sẽ chuyển dịch vào chi phí sản xuất kinh doanh. Do đặc điểm như vậy nên việc quản lý TSCĐ phải quản lý cả về mặt hiện vật và giá trị. Về mặt hiện vật kiểm tra chặt chẽ việc bảo quản, sử dụng TSCĐ ở doang nghiệp. Về mặt giá trị phải quản lý chặt chẽ tình hình hao mòn việc thu hồi vốn đầu tư ban đầu để tái sản xuất TSCĐ trong doanh nghiệp. Các loại TSCĐ : Để thuận tiện cho việc quản lý TSCĐ được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nếu phân loại theo hình thức biểu hiện thì TSCĐ được chia thành : + TSCĐ hữu hình bao gồm toàn bộ những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc… có đủ tiêu chuẩn giá trị và thời gian sử dụng theo chế độ quy định . + TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có thực thể hữu hình nhưng đại diện cho 1 quyền hợp pháp nào đó và người chủ sở hữu được hưởng quyền lợi kinh tế như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu và phát triển, bằng phát minh sáng chế…( Hiên nay ở nươc ta tất cả mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có giá trị >=500 triệu VNĐ và thời gian sử dụng >1 năm mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì là TSCĐ vô hình. *Đánh giá TSCĐ : TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá và theo giá trị còn lại. Muốn vậy việc ghi sổ kế toán phải đảm bảo phản ánh được 3 chỉ tiêu về giá trị của TSCĐ là nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại (giá trị còn lại=nguyên giá -giá trị hao mòn) Nguyên giá TSCĐ (còn gọi là trị gía ghi sổ ban đầu) là toàn bộ các chi phí bình thường và hợp lý mà doanh nghiệp phải bỏ ra để mua sắm, xây dựng, chế tạo TSCĐ trước khi đưa vào sử dụng. Nguyên giá TSCĐ được đánh giá theo nguyên tắc giá phí bao gồm chi phí liên quan đến mua hoặc xây dựng, chế tạo, kể cả chi phí vận chuyển lắp đặt chạy thử và các chi phí hợp lý, cần thiết khác. Cụ thể : +Với TSCĐ do mua mới thì nguyên giá = giá mua trả cho người bán (đã khấu trừ các khoản triết khấu, giảm giá) + chi phí vận chuyển bốc dỡ, lắp đặt chạy thử + thuế phải nộp nếu có (thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ, thuế tài sản…). Trong trường hợp mua TSCĐ thanh toán chậm có phát sinh lãi về tín dụng như là thuê mua TSCĐ thì nguyên giá TSCĐ là giá trị hiện tại còn phần chênh lệch (tiền lãi) được hạch toán vào chi phí trả trước trong suốt thời hạn tín dụng (chú ý theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS23 thì lại cho phép tính cả lãi tín dụng vào nguyên giá TSCĐ). + Với TSCĐ do mua cũ thì nguyên giá = giá mua trả cho người bán +chi phí vận chuyển bốc dỡ, lắp đặt chạy thử + thuế phải nộp (nếu có) + giá trị hao mòn. + Với TSCĐ do doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo để sử dụng như công trình kiến trúc, công trình tự chế tạo… thì nguyên giá TSCĐ là giá bàn giao quyết toán công trình khi đưa vào sử dụng (chú ý tiền lãi trên các khoản vay dùng vào đầu tư TSCĐ cũng có thể được tính vào nguyên giá TSCĐ theo chuẩn mực IAS-23) + Đối với TSCĐ nhận củađơn vị khác do góp vốn liên doanh thì nguyên giá là trị giá thoả thuận của các bên liên doanh +chi phí vận chuyển bốc dỡ lắp đặt chạy thử, chi phí thù lao cho môi giới, chi phí chuẩn bị mặt bằng…. +Đối với TSCĐ được cấp thì nguyên giá là giá ghi trong “Biên bản bàn giao TSCĐ” của đơn vị cấp +chi phí lắp đặt chạy thử (nếu có). +Đối với TSCĐ được biếu tặng thì nguyên giá là giá tính toán trên cơ sở giá thị trường của các TSCĐ tương đương. …………… Như vậy, nguyên gía của TSCĐ chỉ được xác định 1 lần khi tăng TSCĐ và không đổi trong suốt thời gian tồn tại của TSCĐ ở doanh nghiệp trừ trường hợp đánh giá lại TSCĐ hay xây dựng trang bị thêm TSCĐ, cải tạo nâng cấp TSCĐ, tháo bớt một số bộ phận làm giảm nguyên giá của TSCĐ. Giá trị còn lại của TSCĐ được xác định theo 2 cách: +Là trị giá thực tế của TSCĐ tại thời điểm xác định giá Giá trị còn lại = nguyên giá - khấu hao luỹ kế. Trường hợp nguyên giá TSCĐ được đánh giá lại thì giá trị còn lại của TSCĐ cũng được xác định lại. Khi đó giá trị còn lại của TSCĐ được tính theo công thức sau : Giá trị còn lại của TSCĐ sau khi đánh gía lại = Giá trị còn lại của TSCĐ đánh giá lại x giá trị đánh giá lại của TSCĐ (nguyên giá của TSCĐ). +Giá trị còn lại = giá trị đánh giá lại – khấu hao luỹ kế (Theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS-16) 5.2.2.Đối với nguyên liêu vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá. Nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ đó là loại tài sản được dùng để dự trữcho sản xuất kinh doanh. Còn hàng hoá là những vật phẩm mà các doanh nghiệp mua về để bán phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Nhìn chung NLVL,CCDC,HH hiện có ở các DN được phản ánh trên sổ kế toán và báo cáo kế toán theo trị giá vốn thực tế, tức là toàn bộ số tiền DN bỏ ra để có được số NLVL,CCDC,HH đó. a, Đối với NLVL,CCDC,HH nhập kho thì giá của chúng được tính theo trị giá thực tế khi nhập kho. Tuỳ theo nguồn nhập mà trị giá thực tế của NLVN,CCDC,HH bao gồm những chi phí cấu thành khác nhau. + Nhập kho do mua ngoài thì trị giá thực tế sẽ bao gồm giá mua trả cho người bán +chi phí vận chuyển bốc dỡ và bảo quản + thúê phải nộp nếu có. Giá mua trả cho người bán còn gọi là trị giá mua thực tế. Ơ các DN áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT thì trị giá mua thực tế là số tiền ghi trên hoá đơn không kể thuế GTGT – các khoản chiết khấu, giảm gía, hàng trả lại(nếu có). Còn ở các DN áp dụng phương pháp tính thúê GTGT trực tiếp thì trị giá mua thực tế là trị giá thanh toán (gồm cả thuế GTGT) – các khoản giảm giá, chiết khấu và hàng trả lại +Nhập kho do thuê ngoài chế biến (đối với những nguyên vật liệu do mua về trong sản xuất phải xuất kho để cho đơn vị khác chế biến) thì trị giá thực tế của nguyên vật liệu nhập kho = trị giá thực tế của NVL xuất kho để chế biến +chi phí trả cho đơn vị nhận chế biến + chi phí vận chuyển, bảo quản, bốc dỡ khi giao và nhận. +Nhập kho từ nguồn tự chế biến thì trị giá thực tế của chúng gồm trị giá thực tế NVL xuất kho để chế biến + chi phí chế biến do đơn vị tự chế biến (chi phí nhân công, chi phí khấu hao TSCĐ…) +Vật liệu do góp vốn liên doanh, tặng cho là trị giá thực tế của các bên tham gia đóng góp thống nhất định giá. b, Tính trị giá thực tế của NLVL, CCDC,HH xuất kho có thể tiến hành theo các phương pháp sau tuỳ theo đặc điểm riêng, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp mà có sự lựa chọn khác nhau: +Tính theo đơn giá mua thực tế tồn đầu kỳ thì trị giá thực tế xuất kho = số lượng hàng hoá, NVL,CCDC x đơn giá mua thực tế của chúng tồn đầu kỳ. +Tình theo đơn giá bình quân của hàng luân chuyển trong kỳ : Trị giá trực tế của hàng xuất kho bằng số lượng hàng xuất kho x đơn giá bình quân của hàng luân chuyển trong kỳ. +Phương pháp nhập trước xuất trước : Số hàng nào nhập kho trước thì xuất trước và lấy trị giá mua thực tế của hàng đó để tính. +Phương pháp nhập sau xuất trước : Số hàng nào nhập kho sau thì xuất kho trước. Hàng thuộc lô hàng nào thì lấy đơn giá thực tế của lô đó để tính. +Phương pháp đích danh : trị giá thực tế xuất kho = số lượng xuất kho x giá nhập kho của lô hàng xuất. 5.2.3 Đối với thành phẩm do đơn vị sản xuất ra được Nhà Nước quy định tính theo giá thành sản xuất thực tế. Giá thành sản xuất thực tế là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Viết dưới dạng ký hiệu : Ztt = Dđk + C – Dck Chi phí sản xuất bao gồm các khoản chi phí sản xuất như sau: +CPNVLTT là khoản chi phí về NVL chính, nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, nhiên liệu trực tiếp sử dụng cho việc sản xuất , chế tạo sản phẩm thực hiện các lao vụ dịch vụ của doanh nghiệp . Nó chiếm một tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. CPNVLTT trong kỳ = trị giá NVL xuất sử dụng trong kỳ + trị giá NVL dư đầu kỳ – trị giá NVL dư cuồi kỳ – trị giá phế liệu thu hồi +CPNCTT là những khoản phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm hoặc trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ gồm : tiền lương chính, các khoản phụ cấp, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo số tiền lương của công nhân sản xuất (không phân biệt là đã thanh toán cho người lao động hay chưa). +CPSXC là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung tại phân xưởng, đội như chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu dùng cho nhu cầu sản xuất tại phân xưởng, chi phí CCDC dùng cho sản xuất chung ở phân xưởng và chi phí khấu hao TSCĐ cả vô hình và hữu hình, thuê tài chính mà sử dụng ở phân xưởng sản xuất. Chú ý: Để ghi chép trị giá thực tế của NVL, CCDC và HH, thành phẩm nhập xuất hàng ngày kế toán có thể sử dụng giá hách toán (là loại giá cố định tạm tính trong 1 thời gian) để tính trị giá vốn thực tế của hàng xuất kho. Giá này chỉ được sử dụng trong doanh nghiệp không có tác dụng giao dịch với bên ngoài. Nhưng cuối kỳ kế toán vẫn phải tính ra giá thực tế để ghi sổ kế toán tổng hợp. Đối với NLVL, CCDC, HH hay thành phẩm xuất kho tính theo giá hạch toán đều được xác định trị giá thực tế như sau : 6. Trình tự tính giá chung đối với các loại tài sản Như ta đã biết tài sản của đơn vị gồm nhiều loại khác nhau, được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau có thể là mua ngoài, thuê gia công chế biến, tự chế biến…Và để có được các tài sản đó doanh nghiệp luôn phải bỏ ra các khoản chi phí thực tế tạo nên tài sản đó. Vì vậy để tính chính xác được trị giá thực tế của mỗi loại tài sản hình thành, đơn vị phải tổng hợp được tất cả các khoản chi phí thực tế của mỗi loại chi phí hình thành, sử dụng phương pháp tính toán thích hợp. Nhưng nhìn chung việc tính giá tài sản được tiến hành theo trình tự gồm 2 bước : Bước 1: Tổng hợp các khoản chi phí thực tế cấu thành giá của tài sản theo đúng nội dung các khoản chi phí đó. Việc tổng hợp các khoản chi phí thực tế cấu thành nên giá của tài sản có thể tiến hành theo 2 phương pháp tuỳ theo tính chất cũng như mối quan hệ giữa chi phí với tài sản được tính giá. + Phương pháp tổng hợp trực tiếp được tiến hành đối vói các khoản chi phí đơn nhất có quan hệ trực tiếp đối với từng loại tài sản (chi phí chỉ liên quan đến 1 loại tài sản) ví dụ như giá mua từng loại hàng, chi phí NVLTT, CPNCTT để sản xuất ra một loại sản phẩm... + Phương pháp tổng hợp gián tiếp được tiến hanh đối với các khoản chi phí có liên quan đến nhiều loại tài sản cần tính giá ví dụ chi phí vận chuyển bốc dỡ , bảo quản nhiều loại hàng trong cùng một thời gian hay chi phí sản xuất chung, CPNVLTT, CPNCTT để sản xuất nhiều loại sản phẩm… Các khoản chi phí này sẽ được phân bổ theo từng loại tài sản theo những tiêu thức thích hợp .Việc lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp có ý nghĩa quan trọng để tổng hợp tính toán chính xác chi phí cho từng loại tài sản ví dụ khi phân bổ chi phí vận chuyển cho nhiều loại hàng thường sử dụng tiêu thức số lượng hàng cần vận chuyển, phân bổ chi phí quảnlý sử dụng tiêu thức giá bán… Công thức phân bổ: Bước 2: Tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản theo phương pháp nhất định. Việc tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản ở bước này phụ thuộc vào tổng hợp chi phí ở bước 1 và quá trình hình thành tài sản . +Trường hợp tài sản được hình thành dứt điểm trong một thời kỳ nhất định như mua NLVL sản xuất sản phẩm đơn chiếc , sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng thì viêc tính toán xác định trị giá thực tế của tài sản được tiến hành bằng cách tổng cộng toàn bộ chi phí đã được tổng hợp từ bước 1. Trong trường hợp này việc tổng hợp chi phí cấu thành giá của tài sản có đầy đủ chính xác thì giá tài sản tính được mới đúngđắn chính xác . Vì vậy khi tổng hợp chi phí cấu thành giá tài sản cần xác định đúng đắn nội dung các khoản chi phí đó , tăng cường tổng hợp trực tiếp các khoản chi phí, hạn chế việc tổng hợp các khoản chi phí một cách gián tiếp . +Trường hợp tài sản được hình thành kéo dài từ kỳ này sang kỳ khác như quá trinh sản xuất sản phẩm khối lượng lớn luôn có tài sản đã hình thành (san phẩm hoàn thành) và tài sản đang hình thành (sản phẩm đang chế dở) thì các khoản chi phí cấu thành giá được chia thành 2 bộ phận: Bộ phận chi phí tính cho tài sản đã được hình thành gọi là giá của tài sản Bộ phận chi phí tính cho tái sản đang trong quá trình hình thành gọi là chi phí dở dang. Vì vậy việc tính giá cho trường hợp này cần phải xác định được bộ phận chi phí dở dang theo công thức như sau: Trị giá thực tế của tài sản = Chi phí dở dang thời gian trước chuyển sang + Chi phí phát sinh trong kỳ - Chi phí dở dang chuyển sang thời gian sau Viết dưới dạng công thức như sau: Z = Dđk + C -Dck ở trường hợp này tính chính xác của giá tài sản tính được không những phụ thuộc vào việc tổng hợp chi phí cấu thành giá ở trước mà còn phụ thuộc vào phương pháp phân chia chi phí thành 2 bộ phận chi phí. Trình tự tính giá này được sử dụng để tính giá của các loại tài sản khác nhau. Trong bài viết này em sẽ trình bày việc vận dụng trình tự tính giá để tính giá hàng mua và tính giá thành sản xuất của thành phẩm sản xuất ra. II- Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá của tài sản trong quá trình hoạt động của đơn vị. * Thực tiễn tình hình vận dụng phương pháp tính giá Vai trò quan trọng của phương pháp tính giá chỉ thực sự được phát huy khi kế toán ở các đơn vị quán triệt đầy đủ các yêu cầu và nguyên tắc của phương pháp nay trong quá trình tính giá tài sản hình thành tại các đơn vị. Trong thực tế việc vận dụng phương pháp tính giá vẫn còn tồn tại những bất cập sau: Một là : Nguyên tắc chung nhất của quá trình tính giá tài sản là phải tính theo đúng trị giá thực tế của tài sản tại thời điểm hình thành tài sản. Nhưng trên thực tế công tác kế toán thì việc tính toán xác định trị giá thực tế của NLVL, CCDC, TP nhập xuất kho hàng ngày có thể không thực hiện được (do một số chi phí cấu thành giá của tài sản hình thành không thể tính toán được tại từng thời điểm nhập xuất kho hoặc do xuất nhập một lượng quá lớn các hàng hóa, CCDC…với chủng loại đa dạng phong phú). Vì vậy trong thực tiễn kế toán có thể sử dụng một loại giá gọi là giá hạch toán. Đến cuối kỳ kế toán sẽ điều chuyển trị giá hach toán sang trị giá thực tế của NLVL, CCDC, HH xuất kho hoặc nhập kho để ghi sổ kế toán tổng hợp. Hai là: Việc tính toán chính xác trị giá của tài sản hình thành phụ thuộc lớn vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kế toán và ý chí chủ quan của kế toán như việc lựa chọn tiêu thức phân bổ nào cho thích hợp để phân bổ khoản chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều đối tượng tính giá lựa chọn phương pháp thích hợp để phân chia chi phí thành 2 bộ phận đó là chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và giá của tài sản hình thành. Ngay trong việc lựa chọn các phương pháp tính giá hàng xuất kho lựa chọn phương pháp khác sẽ cho kết quả khác. Trong thời kỳ lạm phát cao nếu tính trị giá hàng xuất kho theo nguyên tắc nhập trước xuất trước thị trị giá thực tế của hàng xuất kho sẽ thấp hơn rất nhiều so với việc tính trị giá thực tế hàng xuất kho theo nguyên tắc nhập sau xuất trước. Sự lựa chọn phương pháp nào cũng ảnh hưởng đến khoản thu nhập của doanh nghiệp và khoản mục hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán . Vì thế để tính toán chính xác trị giá thực tế của tài sản hình thành đòi hỏi kế toán phải lựa chọn đúng phương pháp thích hợp. Ba là : Đối với các tài sản hình thành trong quá trình mua hàng cùng một tài sản hình thành tại các thời điểm khác sẽ cho kết quả về trị giá thực tế hàng mua là khác. Nếu loại trừ ảnh hưởng về chi phí thu mua thì nhân tố gây nên sự chênh lệch nàylà giá cả thị trường của taì sản. Do giá cả thị trường luôn thay đổi nên cùng một tài sản nhưng mua tại các thời điểm khác thì giá mua phải thanh toán cho người bán là khác. Đây là một sơ hở dễ để tham ô, tham nhũng. Bốn là: Xuất phát từ yêu cầu quản lý của từng thời kỳ khác mà Nhà Nước có các quy đinh cụ thể về tính giá tài sản trong từng thời kỳ. Nhưng đôi khi những quy định này lại không phù hợp vời nguyên tắc và yêu cầu của quá trình tính giá tài sản. Cụ thể trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, để tính giá tài sản hình thành trong quá trình mua hàng Nhà Nươc quy định: Đối với các đơn vị sản xuất thì trị giá thực tế hàng mua = giá mua + chi phí vận chuyển. Nhưng đối với đơn vị hành chính sự nghiệp thì trị giá thực tế hàng mua = giá mua. Quy định này thể hiện sự không nhất quán cùng một loại tài sản, mua cùng một nơi, tại cùng một thời điểm nhưng hai loại hình đơn vị khác thì trị giá hàng mua vào là khác. Hơn nữa ở đơn vị hành chính sự nghiệp nếu trị giá thực tế hàng mua = giá mua thì không phản ánh được bộ phận chi phí cấu thành hàng mua mà đơn vị chi ra đó là chi phí vận chuyển , bốc dỡ , bảo quản hàng mua, tức không phản ánh được chính xác trị giá thực tế hàng mua. Mặt khác cũng không đánh giá được chính xác đơn vị nào hoạt động có hiệu quả hơn. Trong cơ chế hiện nay sự bất cập của việc tính giá tài sản thể hiện ở quy định về đánh thuế GTGT đối với NVL đầu vào của quá trĩnh sản xuất. Theo quy định của luật thuế này các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá chịu thuế GTGT thì NL đầu vào không phải tính thúê. Còn các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá không chịu thuế GTGT thì bị đánh thuế NL đầu vào. Quy định này đảm bảo sự công bằng về mức thuế phải nộp đối với các loại hình doanh nghiệp nhưng lại vi phạm tính nhất quán của phương pháp tính giá. Rõ ràng 2 doanh nghiệp sử dụng cùng một loại NL đầu vào như nhau nhưng trị giá thực tế của NL mua vào lại khác. Sự bất hợp lý trong việc tính giá tài sản còn được thể hiện ở quy định về thu phí giao thông đường bộ qua xăng dầu. Giá của xăng dầu sẽ được tính thêm vào phí giao thông đường bộ. Nhưng đối với các doanh nghiệp vận tải hàng hoá trên biển có sử dụng lượng xăng dầu rất lớn thì bộ phận phí giao thông đường bộ trong xăng dầu doanh nghiệp mua vào vẫn phải tính vào giá thành của dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Do đó chi phí này rõ ràng không cấu thành nên trị giá thực tế của sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp nhưng vẫn phải tính vào trị giá thực tế của dịch vụ sản xuất ra. Về phần quy đinh đối với chi phí quản lý doanh nghiệp , trước đây doanh nghiệp được tính vào giá của hàng bán. Quy định này phù hợp với yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung đầu vào vàđầu ra của doanh nghiệp được Nhà Nước bao cấp cho nên doanh nghiệp chỉ tập trung hoạt động quản lý ở giai đoạn sản xuất. Hiện nay không chỉ khâu sản xuất mà khâu bán hàng tiêu thụ sản phẩm cũng được coi trọng bậc nhất quyết định kết quả hoạt động của doanh nghiệp . Vì vậy việc quản lý sản xuất được tập trung chủ yếu ở giai đoạn này. Việc quản lý doanh nghiệp rõ ràng phụ thuộc vào 3 quá trình : mua hang, sản xuất, và tiêu thụ. Nếu chi phí quản lý doanh nghiệp chỉ tính vào hàng bán là không phù hợp mà chi phí quản lý doanh nghiệp phải được tính cho cả khâu mua hàng sản xuất và bán hàng A- Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá hàng mua 1. Doanh nghiệp mua 1 loại hàng hoá Giả sử doanh nghiệp thương mại X mua 1 loại hàng hoá A với khối lượng là 10 tấn với giá mua thực tế số hàng trên đã mua về Đối tượng tính giá là hàng hoá A. Trình tự tính giá được tiến hành như sau: Bước 1: Tổng hợp chi phí phát sinh trong kỳ theo từng đối tượng tính giá: +Giá mua thực tế hàng hoá A là 200 triệu đồng (là chi phí trực tiếp – chi phí đơn nhất) +Chi phí vận chuyển số hàng A là 10 triệu (chi phí đơn nhất) Bước 2: Tính toán xác định trị giá thực tế của hàng mua về: Vì quá trình mua hàng diễn ra dứ điểm ngay trong 1 kỳ nên không có chi phí dở dang. Vì vậy giá của hàng mua về chính là tổng cộng các chi phí phát sinh đã được tổng hợp ở bước1. Chi phí cấu thành giá hàng mua gồm giá mua và chi phí vận chuyển : Vởy trị giá thực tế của số hàng A đã mua về =200.000.000 +10.000.000 =210.000.000 2. Doanh nghiệp mua nhiều loại hàng Như chùng ta đã biết một xí nghiệp muốn đảm bảo sản xuất được bình thường luôn phải tiến hành nghiệp vụ thu nua nguyên vật liệu Giả sử công ty xây dựng X mua hai thứ vật liệu A và B trong tháng 2/199N với tài liệu như sau: +Mua NLVL A số lượng 100 số tiền 200.000 +Mua NLVL B số lượng 200 số tiền 500.000 +Chi phí vận chuyển cho 2 loại vật liệu trên mua về là 60.000 Tính trị giá trực tế của từng loại vật liệu mua về Đối tượng tính giá là từng loại vật liệu A ,B .Trình tự tính giá như sau: Bước1 : Tổng hợp chi phí phát sinh trong kỳ theo từng đối tượng tính giá (vật liệu A và vật liệu B) Chi phí cấu thành giá hàng mua về bao gồm : giá mua và chi phí vận chuyển bốc dỡ +Giá mua từng vật liệu la chi phí tre\ực tiếp (đơn nhất) Vật liệu A là 200.000 Vật liệu B là 500.000 + Chi phí vận chuyển là chi phí gián tiếp liên quan đến cả 2 thứ vật liệu nên phải phân bổ cho từng thứ vật liệu như sau: (sử dụng tiêu thức phân bổ theo khối lượng hàng mua về ) áp dụng công thức phân bổ ta có = x 100 =20.000 Tương tự như vậy chi phí vận chuyển phân bổ cho vật liệu B là = x 200 =40.000 +Tổng hợp chi phí phát sinh trong kỳ: Vật liệu A = 200.000 + 20.000 = 220.000 Vật liệu B = 500.000 + 40.000 =540.000 Bước 2 : Tính toán xác định trị giá thực tế vật liệu mua vào Vì quá trình mua vật liệu diễn ra dứt điểm trong kỳ , không co chi phí dở dang nên trị giá thức tế được tính cho số vật liệu mua về chính là chi phí đá tổng hợp được ở bước 1 Trị giá thực tế vật liệu A mua về là 220.000 số lượng 100 Trị giá thực tế vật liệu B mua về là 540.000 số lượng 200 B Vận dụng phương pháp tính giá để tính giá thành sản phẩm sản xuất ra 1. Doanh nghiệp sản xuất 1 loại sản phẩm theo đơn dặt hàng ở loại hình sản xuất này đối tượng tính giá là 1 loại thành phẩm sản xuất ra , toàn bộ chi phí sản xuất được tổng hợp 1 cách tre\ực tiếp bao gồm CPNVLTT, CPNCTT,CFSXC, quá trình sản xuất diễn ra dứt điểm nên giá thành sản xuất sản phẩm hoàn thành là tổng chi phí sản xuất đã tổng hợp. Ví dụ : Giả sử 1 doanh nghiệp X chỉ sản xuất 1 loại sản phẩm A theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp Y trong tháng 3/199N với các tài liệu đã ch o như sau: +Xuất kho vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm A :100.000 dùng cho chi phí phân xưởng : 2000 +Tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất : 30.000 trả cho nhân viên phân xưởng :4000 +Trích khấu hao TSCĐ dùng cho sản xuất :10.000 Yêu cầu : Tính gía thành sản phẩm hoàn thàng trong kỳ Đối tượng tính giá là sản phẩm A . Trình tự tính giá như sau: Bước 1 : Tổng hợp chi sản xuất thực tế sản phẩm A bao gồm +CPNVLTT : 100.000 +CPNCTT : 30.000 +CPSXC -vật liệu 2000 -tiền lương 4000 -khấu hao TSCĐ 10.000 Tổng cộng : 16.000 Bước 2 : Tính giá thành sản xuất thực tế sản phẩm A Vì quá trình sản xuất diễn ra dứt điểm (theo đơn đặt hàng ) nên gía thành sản phẩm sản xuất thực tế là tổng các chi phí đã tổng hợp ở bước1 Z sx sản phẩm A= 146.000 2. Doanh nghiệp sản xuât nhiều loại sản phẩm theo dơn dặt hàng . TH: Kỳ báo cáo thống nhất với kỳ tính giá thành (khi đơn đặt hàng đã hoàn thành) Trong trường hợp này đối tượng tính giá là từng loại tài sản, chi phí cấu thành giá sản phâm sx là CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC, CPNLVL,CPNC liên quan đến sản phẩm nào sẽ được tổng hợp trực tiếp vao sản phẩm đó, nếu các khoản chi phí đó liên quan đến nhiều loại sản phẩm sẽ được tính toán phân bổ cho từng loại. Và quá trình sản xuât cũng diễn ta dứt điểm nên Zsx cũng là tổng hợp các khoản chi phí đã được tổng hợp theo từng loại sản phẩm Ví dụ : Doanh nghiệp X sx theo đơn đặt hàng 2 loai HH trong đó sản phẩm A là 200 và sản phẩm B là 150 . Đơn vị đã sử dụng 4,2 tấn thép , giá 1kg thép xuất kho là 19.600, định mức tiêu hao NVL là 5kg thép/ 1 sp A ; 10kg thép/ 1sp B. Và tiền lương phải trả cho công nhân tổ sản xuất sp A là 3 triệu, tổ sản xuất spB là 2 triệu, cho nhân viên quản lý ở cả 2 tổ của phân xưởng là 500.000. Trích khấu hao TSCĐ dùng cho sản xuất là 2 triệu. Tính giá thánh sản xuất của mỗi loại HH ? Đối tượng tính giá là từng loại hàng A ,B . Trình tự như sau: Bước 1: Tổng hợp chi phí sản xuẩt trong kỳ theo từng đối tượng tính giá Định mức tiêu hao NL (thép) để sx 200 spA, 150spB là : 5 x 200 = 1000 10 x 150 = 1500 Cộng : 2500 áp dụng công thức phân bổ ta được Chi phí thực tế tiêu hao thép để sx 200 sp A là: x 1000 =32.928.000 Chi phí thực tế tiêu hao thép để sx 150 sp B là: x 1500 = 49.392.000 Tập hợp chi phí sản xuât chung : Tiền lương :500.000 Khấu hao TSCĐ : 2.000.000 Tổng cộng : 2.500.000 Phân bổ chi phí sx chung cho từng loai sp theo tiêu thức phân bổ tiền lương công nhân sx. áp dụng công thức phân bổ ta được Chi phí sx phân bổ cho sp A =x 3.000.000 = 1.500.000 Chi phí sx phân bổ cho sp B =x 2.000.000 = 1.000.000 Tổng chi phí sx trong kỳ : Khoản mục SP A SP B CPNLVLTT 32.928.000 49.392.000 CPNCTT 3.000.000 2.000.000 CPSXC 1.500.000 1.000.000 Cộng 37.428.000 52.392.000 Bước 2 : Tính giá thành sx thực tế sản phẩm đã sx. Vì quá trình sx là sx theo đơn đặt hàng nên giá thành sc sp hoàn thành là tổng chi phí sx tổng hợp theo từng loại sản phẩm đã tổng hợp được ở bước 1 Zsx sản phẩm A là 37.428.000 Zsx sản phẩm B là 52.392.000 ( Chú ý : Nếu doanh nghiệp không chia tổ sản xuất mà cùng sản xuất hai loại sản phẩm trên thì lương (CPNCTT) có thể tổng hợp gián tiếp. 3. Doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm theo quy trình sx liên tục. ở loại hình sx này đối tượng tính giá là một loại tài sản (một loại sp) toàn bộ CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC đều được tổng hợp trực tiếp, nhưng quy trình sx này là liên tục có chi phí sx dở dang nên khi tính giá thành sx phải áp dụng công thức : Zsxtt = Dđk + C - Dck Ví dụ: Một doanh nghiệp tiến hành sx sp A, quy trình sx gồm 2 bước. Tính đến cuồi kỳ bước 1 đã chế tạo đước 840 bán thành phẩm và 60 sp dở dang (mức độ hoàn thành là 10% và chuyển giao cho bước 2; bước 2 hoàn thành nhập kho 700 thành phẩm A, còn dở dang 40 sp (mức độ hoàn thành 50%) ). Giả sử ở đàu kỳ mỗi bước đều không có sp dở dang. Và tài liều sau; 1,Các khoản chi Bước 1 Bước 2 NVL để sxsp 63.000.000 Lương trả cho công nhân sxsp 33.840.000 28.800.000 Chi phí sx chung ở cả hai bước la 32.040.000 (được phân bổ cho từng bước theo giờ công sx . Bước 1 là 1692 giờ, bước 2 là 1512 giờ ) Hãy tính giá thành những thành phẩm đã hoàn thành Bước 1 : Tổng hợp các khoản chi phí phát sinh Chi phí NVL nằm trong sp dở dang bước 1: x (60+10%) = 420.000 CPNCTT bước 1: x(60+10%) = 240.000 Phân bổ chi phí sx chung cho từng bước Sử dụng tiêu thức phân bổ theo giờ công sx ta được CPSXC phân bổ cho bước 1 =x 1692 = 16.920.000 CPSXC phân bổ cho bước 2=x 1512 = 15.120.000 CPSXC dở dang ở bước 1 là :x (60+10%) = 120.000 Sang bước 2 nhận đwocj từ bước1 840 bán TP hoàn thành 700 TP, còn dở 40 TP (mức độ hoàn thành 50%) , giá trị sản phẩm dở cuối bước 2 gồm 140 báo TP bước 1và 40 x 50% =20 TP bước 2. CPNVLTT dở dang ở bước 2 là : x 140 = 10.430.000 CPNCTT dở dang ở cuối bước 2 là : x 140 + = 5.640.000 CPSXC dởdang cuồi bước 2 là : x 140 + = 2.821.000 Tổng giá trị sp dở dang cuối bước 2 là : 10.430.000 - 5.640.000 + 2.821.000 = 18.891.000 Các chi phí phát sinh ở bước 2 là CPNCTT và CPSXC : CPSXC : 15.120.000 CPNCTT : 28.800.000 Tổng sp dở dang đầu bước 2 (bước 1 chuyển sang ): 420.000b + 240.000 +120.000 = 780.000 Bước 2: Vì sx với chu trình sx kiêu liên tục, có chi phí dở dang nên tính giá thành phải áp dụng công thức : Zsxtt = Dđk + C - Dck = 780.000 + (15.120.000 + 28.800.000) – 18.891.000 = 25.809.000 Vâỵ giá thành sx thực tế tính cho số TP hoàn thành là 25.809.000. 4. Doanh nghiệp sx nhiều loại sp theo quy trình sx liên tục Giả sử doanh nghiệp Z sx 2 loại sp X và Y có tài liệu như sau: +Chi phí sp dở đầu kỳ SP X : 100.000 SP Y : 70.000 +Chi phí phát sinh trong kỳ Xuất kho vật liệu dùng SXSP X : 1.000.000 SXSP Y : 3.000.000 Chi phí ở PX : 60.000 Tiền lương trả công nhân SXSP X : 400.000 SXSP Y : 600.000 Nhân viên PX : 50.000 Trích khấu hao TSCĐ dùng cho sx 200.000 +Chi phí sp dư cuối kỳ SP X : 50.000 SP Y : 50.000 Tính giá thành sp hoàn thành trong kỳ. Bước 1 : Tổng hợp chi phí sx trong kỳ theo từng loại sp +Chi phí trực tiếp là chi phí NLVLTT và CPNCTT +Chi phí gián tiếp : chi phí sản xuất chung Tập hợp chi phí sx chung : Vật liệu 60.000 Tiền lương 50.000 Khấu hao TSCĐ 200.000 Tổng là : 310.000 Sử dụng tiêu thức phân bổ theo tiền lương công nhân sx được: CPSXC sxsp X = x 400.000 = 124.000 CPSXC sxsp Y = x 600.000 = 186.000 Tổng chi phí sx trong kỳ : Khoản mục SP X SP Y CPNVLTT 1.000.000 3.000.000 CPNCTT 400.000 600.000 CPSXC 124.000 186.000 Cộng 4.524.000 3.786.000 Bước 2 : Tính giá thành sản xuất thực tế của từng loại sx . Vì sx vời khối lượng lớn, với quy trình sx kiểu liên tục có chi phí sx dở dang nên giá thành sx được tính theo công thức sau: Zsxtt của SP X = 100.000 + 4.524.000 – 50.000 = 4.574.000 Zsxtt của SP Y = 70.000 + 3.786.000 – 50.000 = 3.806.000 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Triết học - NXB Giáo dục 2. Kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB Giáo dục 3. Kinh tế chính trị Mác - Lênin - NXB Quốc gia 4. Tập 3 bộ tư bản - NXB Sự thật Hà Nội - 1967 5. Kế toán tài chính - Đại học Kế toán tài chính 6. Giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 7. Giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán - Trường Đại học Thương mại. 8. Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp - NXB Tài chính 9. Các tạp chí kế toán năm 2000, 2001 10. Tài liệu bồi dưỡng kế toán trưởng - PGS.TS. Nguyễn Hữu Ba

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35344.doc
Tài liệu liên quan