Sau khi có sự tìm hiểu và nghiên cứu về quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta càng thấy được sự tài tình của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp chèo lái con thuyền đất nước. Nhờ sự vận dụng khéo léo quan điểm lịch sử cụ thể trong Triết học Mác – Lên nin trong việc phân tích điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết đi đến quyết định sang suốt là đổi mới nền kinh tế nước ta về mọi măt trong đó xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trên cơ sở phân tích tình hình thực tế của đất nước trong mỗi giai đoạn mà Đảng và Nhà nước ta đã luôn linh hoạt đưa ra những kế sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, từ đó đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng khoảng, trì trệ và lạc hậu về kinh tế và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trên khu vực và thế giới. Một thực tế không thể phủ nhận là sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều sự khởi sắc về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đời sống người dân được nâng cao hơn rất nhiều.
Mặc dù còn một số tồn tại và hạn chế trong quá trình xây dựng nền kinh tế thi trường định hướng XHCN, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật và đưa ra những biện pháp để khắc phục kịp thời. Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Hơn thế CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận động, hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy, bám sát thực tiễn, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn lý luận đặt ra cho Đảng ngày hôm nay.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 8199 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng quan điểm lịch sử, cụ thể để phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Sau khi dành được hoà bình, thống nhất đất nước, Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về mọi lĩnh vực. Nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước ta lúc đó là vừa phải khắc phục những hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh tàn khốc, khôi phục nền kinh tế để tiến kịp các nước trên thế giới và khu vực vừa phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tuy nhiên, phải nói rằng trong một thời gian khá dài (sau khi thống nhất đất nước năm 1975 đến trước năm 1986) nền kinh tế nước ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp tự túc vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thêm vào đó, do có một số sai lầm về nhận thức trong quá trình xây dựng CNXH đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ kéo dài, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta xác định cần phải đổi mới nền kinh tế đất nước. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 – 2986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI là cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong từng thời kỳ mà Đảng ta đã liên tục đưa ra những chiến lược và kế hoạch cụ thể khác nhau trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Có thể thấy rõ rằng Quan điểm lịch sử cụ thể đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng triệt để trong công cuộc đổi mới kinh tế (trong đó xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế).
Một thực tế không thể phủ nhận được là nước ta sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội: kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện,… Điều này đã cho chúng ta thấy được sự tài tình của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để hiểu được rõ hơn sự vận dụng những lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn của Việt Nam trong thời gian qua, trong bài tiểu luận Triết học của mình, em xin chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm lịch sử, cụ thể để phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu, tìm hiểu.
Để hoàn thành bài viết này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Nguyễn Thị Bích Thủy. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn nên sẽ còn nhiều sai sót. Em kính mong nhận được sự hướng dẫn của các thầy cô để bài viết của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I, Quan điểm lịch sử, cụ thể.
1.Cơ sở của quan điểm lịch sử, cụ thể.
Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử, cụ thể chính là hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật : Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và Nguyên lý về sự phát triển.
1.1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng khác, đều chịu sự tác động, sự quy định lẫn nhau, làm tiền đề cho sự phát triển của nhau, không sự vật nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, các yếu tố, các giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật đều có tác động quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Mối liên hệ phổ biến có những đặc điểm sau:
- Tính khách quan: Liên hệ là vốn có của các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại và phát triển của các sự vật hiện tượng, con người không thể tạo ra được mối liên hệ của các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ đó.
- Tính đa dạng: Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng, phong phú, do đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể hiện qua nhiều hình thức: mối liên hệ chung –riêng, bên trong – bên ngoài, trực tiếp – gián tiếp, tất nhiên - ngẫu nhiên, cơ bản – không cơ bản.
1.2.Nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi. Phát triển là khuynh hướng chung tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Cách thức và hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: sự phát triển của các sự vật, hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Tính phức tạp của sự phát triển:
+ Phát triển không chỉ là sự tăng đơn thuần về mặt lượng mà bao hàm cả sự nhảy vọt về chất.
+ Phát triển bao hàm sự phủ định cái cũ và nảy sinh cái mới, sự lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2.Nội dung của quan điểm lịch sử, cụ thể:
Quan điểm này cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể, xác định, những điều kiện này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. Ví dụ, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Từ nội dung trên ta có thể thấy rằng, quan điểm lịch sử cụ thể có ý nghĩa rất to lớn trong quá trình nghiên cứu và cải tạo tự nhiên, xã hội. Khi vận dụng quan điểm này cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
- Khi nghiên cứu một lý luận khoa học nào đó cần phải phân tích hoàn cảnh ra đời và phát triển của lý luận đó.
- Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn cũng cần phải tính đến những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nơi đó. Đồng thời cần phải có những bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
II. Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
1.Nền kinh tế thị trường, ưu điểm, nhược điểm.
1.1.Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, tức là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế thị trường phát triển qua hai giai đoạn: kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hỗn hợp (còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại). Sự khác biệt cơ bản giữa hai giai đoạn này là, kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của Nhà nước.
1.2. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường kích thích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, từ đó dẫn đến:
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, làm tăng năng xuất lao động.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.
- Đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất, kinh doanh giỏi.
- Hàng hoá, dịch vụ dồi dào, phong phú, chất lượng ngày càng được nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
1.3.Nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
- Phân phối thu nhập không công bằng dẫn đến hoá giàu nghèo trong xã hội và mâu thuẫn xã hội.
- Cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp tất yếu dẫn đến khủng hoảng chu kì, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp.
- Mục tiêu theo đuổi lợi nhuận tối đa luôn luôn gắn liền với những thủ đoạn không lành mạnh: lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường; đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường đạo đức và truyền thống xã hội.
- Độc quyền của những doanh nghiệp lớn và các nước lớn trong việc khống chế và lưu thông giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá,… làm lũng đoạn nền kinh tế.
2.Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.1.Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được hiểu như thế nào?
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu; nước mạnh; xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế thị trường đinh hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
2.2.Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Như đã biết, Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình CNXH kiểu Xô - viết mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm, và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH không đúng với thực tế Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là cái “phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Sự lựa chọn mô hình phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung (đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng XHCN). Đây không phải là nền kinh tế thị trường dập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội hoá – xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng triệt để quan điểm lịch sử cụ thể trong việc lựa chọn phát triển kinh tế đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Lựa chọn mô hình này không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay.
III.Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm lịch sử cụ thể trong triết học Mác – Lênin, khi nghiên cứu quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, thì việc tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước là hết sức cần thiết.
1.Những điều kiện, hoàn cảnh khi nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.1.Điều kiện, hoàn cảnh trong nước.
- Về kinh tế:
Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam năm trước đổi mới là tăng trưởng thấp khoảng 3,7% /năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ từ nước ngoài là chủ yếu. Những năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và không thể kiểm soát được.
Thêm vào đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại chịu ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài đã làm cho nền kinh tế Việt Nam đã nghèo nàn lại càng lạc hậu về mọi mặt: công nghiệp, nông nghiệp dịch vụ, giao thông vận tải,...
- Về chính trị:
Vì nước ta đi thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nên đã gặp phải rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong việc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới – giai đoạn rất quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho Đảng ta. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều thế lực phản động đã và đang tìm cách chống phá quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
- Về văn hoá – xã hội:
Với hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nước ta đã tạo dựng được một nền văn hóa riêng với những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp: chủ nghĩa yêu nước, lòng thương người, tinh thần đoàn kết dân tộc, đức tính cần kiệm, khiêm tốn, giản dị,…trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Cùng chế độ chính trị đúng đắn, với bề dày văn hoá đó, chúng ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiên tiến. Tuy nhiên, ngoài những phẩm chất tốt đẹp đó thì trong trong hoạt động kinh tế, nhân dân ta vẫn còn thiếu tính năng động, tính quyết đoán - những phẩm chất quan trọng của một nhà quản lý kinh tế.
1.2. Điều kiện, hoàn cảnh khu vực và trên thế giới.
Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương, là một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực đã xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường được mấy thập kỷ và trở thành các nước công nghiệp mới (NIC).
Trên thế giới, mặc dù còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo của thời đại ngày nay. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc, đặc biệt là trong các lĩnh vực: tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ, từ đó dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Chính vì thế mà ngày nay không một nền kinh tế của một nước nào đó có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng lớn như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như: EU, AFTA, ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), WTO (tổ chứ thương mại thế giới),…
Trước những điều kiện chủ quan và khách quan như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất nước phát triển theo hướng kinh tế thị trường định hướng XHCN để vừa phát triển kinh tế đất nước theo kịp các nước trên khu vực và trên thế giới, vừa đảm bảo mục tiêu đi lên CNXH.
2.Thực trạng quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.1.Giai đoạn trước năm 1986.
Từ sau Hội nghị Trung ương 6 khoá IV đến trước Đại hội VI, dưới áp lực của tình thế khách quan, nền kinh tế nước ta đã có cải tiến theo hướng thị trường, chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ. Những bước cải tiến mới như khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100 – CT/TW của ban bí thư khoá IV, bù giá vào lương ở Long An, thực hiện Nghị định 25, 26- CP của Chính phủ, Nghị quyết Trung ương 8 khoá V về giá, lương, tiền (1985),…Tất cả những việc làm đó là những căn cứ thực tế, những bước chuyển ban đầu để Đảng ta đi tới quyết định thay đổi cơ chế kinh tế tại Đại hội VI (1986).
2.2.Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 – 1986) đã nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận những sai lầm, thiếu sót chủ quan trong lãnh đạo và điều hành do nóng vội muốn nhanh chóng tiến lên CNXH. Đại hội cũng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá XHCN trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hang hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội.
Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, là kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân ta trong nhiều năm.
Đến Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3 -1989), khoá VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần” có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.
2.3.Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000.
Trong giai đoạn này, chủ trương phát triển nền kinh tế đất nước được Đảng ta nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội VII (tháng 6 – 1991) và Đại hội VIII (tháng 6 – 1991).
Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta mới đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”.
Trong giai đoạn này, Đảng ta cũng mới chỉ nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thì trường chứ chưa dùng đến khái niệm “kinh tế thị trường”. Nhưng điều này cũng là thành tựu khá lớn trong tư duy nhận thức của Đảng ta về phát triển nền kinh tế đất nước và xây dựng CNXH.
2.4.Giai đoạn từ năm 2001 đến nay:
Như đã nói ở trên, phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4 – 2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đại hội khẳng định: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam”. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn, và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Kế thừa tư duy tại Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta thể hiện trên 4 tiêu chí lớn là:
- Về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,…
- Thứ hai, về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh tế và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo,…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Thứ tư, trong lĩnh vực quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh đó, Đảng ta cũng đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2006 – 2010 và đến năm 2020 với một số chỉ tiêu về kinh tế như:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng GDP là 7,5 – 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 1.050 – 1.100 USD; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm; tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 – 22% vào năm 2010,…
Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế trong nước cũng như quốc tế trong từng giai đoạn và Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những kế hoạch, chiến lược cũng như mục tiêu cụ thể phù hợp trong từng thời kỳ. Điều đó đã chứng tỏ rằng Quan điểm lịch sử, cụ thể trong Triết học Mác – Lênin được Đảng ta vận dụng rất nhuần nhuyễn trong thực tế quá trình đổi mới nền kinh tế mà cụ thể là quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Chính nhờ sự tài tình đó của Đảng cộng sản Việt Nam mà nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều phương diện sau hơn 20 năm đổi mới, đưa đất nước đi lên theo kịp các nước khác trong khu vực và trên thế giới, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.
3.Những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Vượt qua những khó khăn, thách thức, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trên nhiều phương diện kinh tế - xã hội.
3.1.Về kinh tế.
- Nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm, tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện.
Giai đoạn 1991 – 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế là khá cao, nhưng từ năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế Châu Á (1997 – 1999), tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9% so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên nhưng chưa cao và vững chắc. Vượt qua giai đoạn suy giảm, trong 5 năm 2000 – 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã tăng dần, năm sau cao hơn năm trước, bình quân đạt 7,51%, đạt kế hoạch đề ra (7,5%), riêng năm 2005 đạt 8,43%.
- Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các mối quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Quan hệ cung cầu cơ bản là phù hợp, bảo đảm các hang hoá thiết yếu, không để xảy ra những biến động lớn trên thị trường. Giá tiêu dung tăng bình quân 5,1% (riêng năm 2004 tăng 9,5%; năm 2005 tăng 8,4% nhưng không gây xáo trộn lớn trên thị trường). Thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ, mức tăng thu 19,1%/năm, tỷ lệ GDP vào ngân sách hang năm 24,4%.
- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, còn tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục giảm. Cơ cấu vùng kinh tế đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có những bước tiến mới rất quan trọng
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm 2000 – 2005 đạt 111 tỷ USD , tăng ình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm). Một số sản phẩm của nước ta như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản,… đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Vốn đầu tư nước ngoài cả ODA và FDI liên tục tăng qua các năm. Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều bước tiến mới. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới và khu vực tiếp tục được mở rộng.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN bước đầu được xây dựng. Thị trường hàng hoá phát triển tương đối nhanh, một số loại thị trường mới hình thành.
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng tương đối đồng bộ.
Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp và bộ máy quản lý Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo thể chế kinh tế mới.
Một số loại thị trường mới như: khoa học và công nghệ, tài chính, bất động sản,… được hình thành và phát triển phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
3.2.Về văn hoá – xã hội.
Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp người dân được cải thiện
Thành tựu này được thể hiện cụ thể như: giáo dục và đào tạo được chú trọng phát triển và đầu tư nhiều hơn (năm 2005 chi cho giáo dục đào tạo đạt 18% tổng chi ngân sách); khoa học công nghệ ngày càng phát triển và có nhiều thành tựu được áp dụng vào thực tế để phát triển kinh tế - xã hội; công tác bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khoẻ người dân; tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo được chú trọng và đạt nhiều kết quả tốt.
3.3.Về chính trị và quốc phòng, an ninh.
Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; hoạt động đối ngoại phát triển mạnh.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc được phát huy.
Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được chú trọng và đạt được nhiều kết quả tích cực.
4.Những tồn tại và hạn chế của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được, trên thực tế trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vẫn còn tồn tại một số yếu kém trên một số mặt của nền kinh tế - xã hội cần khắc phục đó là:
4.1.Về kinh tế.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây khá cao, nhưng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, địa phương còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải và kém hiệu quả, tình trạng lãng phí trong chi tiêu ngân sách và tiêu dùng trong xã hội còn nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng của nước ta so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ còn thấp; quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, khoảng cách với các nước trong khu vực chưa được rút ngắn.
Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Do cân đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc, nên dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học công nghệ, năng suất lao động còn thấp dẫn đến giá thành sản phẩm trong nước còn cao so với khu vực và thế giới.
Mặc dù cơ cấu chung của nền kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng tốc độ còn chậm. Cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu đầu tư,…còn chưa tương xứng với tiềm năng nên chưa phát huy được hết thế mạnh vốn có.
4.2.Về văn hoá – xã hội.
Trong những năm qua, chính sách về văn hoá – xã hội chậm được đổi mới, chưa phù hợp với cơ chế kinh tế và theo kịp với yêu cầu của xã hội. Các chính sách xã hội hóa giáo dục, y tế,…chưa được cụ thể hóa, còn nhiều lúng túng trong tổ chức thực hiện…
Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hoá; quản lý Nhà nước về một số lĩnh vực như y tế, thể thao,…còn nhiều yếu kém.
Tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông gia tăng, gây lo lắng cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Tệ quan lieu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, gây nhiều bức xúc trong dư luận và xã hội.
4.3.Về chính trị và quốc phòng, an ninh.
Ở một số địa bàn, còn những yếu tố gây mất ổn định xã hội ,như sự kiện bạo loạn chính trị xảy ra ở một số tỉnh Tây Nguyên năm 2004. Sự phối hợp giữa an ninh, quốc phòng, đối ngoại trong việc giải quyết một số vấn đề còn thiếu chặt chẽ.
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, nhất là cấp cơ sở còn yếu kém. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu.
Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức chậm được khắc phục (ví dị như vụ PMU 18).
Công tác tổ chức cán bộ còn nhiều mặt yếu kém; chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
5.Giải pháp khắc phục những tồn tại và hạn chế của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới và tiến lên CNXH, Việt Nam cần phải tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế một cách có hiệu quả, trong đó xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiệu quả là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần phải nhanh chóng khắc phục những yếu kém và hạn chế còn tồn tại trong thới gian qua. Sau đây là một số giải pháp cụ thể:
5.1.Về kinh tế.
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo phát triển nhanh chóng phải đi đôi với phát triển bền vững, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao về chất lượng; từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển với bạn bè khu vực và thế giới,…Chính vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần làm tốt các chức năng sau:
- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển. Cần thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm hẳn sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng kệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
5.2.Về văn hoá – xã hội.
Trên cơ sở giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, Nhà nước ta sẽ có đủ cơ sở và điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội.
- Nhà nước cần tăng chi ngân sách cho giáo dục và y tế, và có những chính sách khuyến khích, đầu tư nhiều hơn nữa cho hai lĩnh vực này.
- Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện, dân chủ, tiến bộ, và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm để giải quyết thất nghiệp, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Phải coi trọng hơn nữa vấn đề bảo vệ môi trường và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
- Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ và ứng dụng những thanh tựu đó vào thực tiễn.
5.3.Về chính trị và quốc phòng, an ninh.
Song song với việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội, Đảng và Nhà nước ta cần hết sức chú trọng công tác đảm bảo ổn đinh chính trị vì ổn định chính trị là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
- Muốn vậy, Nhà nước ta cần tăng cường ngân sách cho công tác quốc phòng, an ninh., quan tâm đến đời sống tinh thần cũng như vật chất của các chiến sĩ làm nhiệm vụ vì sự bình yên của Tổ quốc.
- Cùng với việc chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế với bạn bè thế giới thì đảm bảo ổn định chính trị cũng là một biện pháp để thu hút sự đầu tư và hợp tác của nước ngoài, do đó cũng cần hết sức chú trọng đến việc ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ quân sự vào trong công tác an ninh, quốc phòng.
Trên đây chỉ là một số giải pháp nhất định, cần phải tuỳ thuộc và điều kiện thực tế của nước ta trong từng thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta cần phải có những điều chỉnh cho phù hợp.
KẾT LUẬN
Sau khi có sự tìm hiểu và nghiên cứu về quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta càng thấy được sự tài tình của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp chèo lái con thuyền đất nước. Nhờ sự vận dụng khéo léo quan điểm lịch sử cụ thể trong Triết học Mác – Lên nin trong việc phân tích điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết đi đến quyết định sang suốt là đổi mới nền kinh tế nước ta về mọi măt trong đó xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trên cơ sở phân tích tình hình thực tế của đất nước trong mỗi giai đoạn mà Đảng và Nhà nước ta đã luôn linh hoạt đưa ra những kế sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, từ đó đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng khoảng, trì trệ và lạc hậu về kinh tế và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trên khu vực và thế giới. Một thực tế không thể phủ nhận là sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều sự khởi sắc về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… đời sống người dân được nâng cao hơn rất nhiều.
Mặc dù còn một số tồn tại và hạn chế trong quá trình xây dựng nền kinh tế thi trường định hướng XHCN, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật và đưa ra những biện pháp để khắc phục kịp thời. Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Hơn thế CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận động, hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy, bám sát thực tiễn, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn lý luận đặt ra cho Đảng ngày hôm nay.
Thực hiện bài viết này, tôi càng thấy được sự quan trọng và cần thiết của việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể trong việc nghiên cứu sự vật, hiện tượng nào đó, cụ thể là quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin NXB chính trị quốc gia năm 2005.
3. Giáo trình Triết học Mác –Lênin NXB chính trị quốc gia năm 2005.
4. Tạp chí cộng sản các năm 2000 – 2006.
5. Tạp chí Triết học.
6. Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996.
7. Một số tài liệu khác.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10671.doc