Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội: từ kinh tế đến chính trị, văn hoá, xã hội. Phương thức sản xuất là thống nhất chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự tác động qua lại biện chứng giữa 2 mặt đó là động lực vận động, phát triển của phương thức sản xuất.
Chính sự tác động qua lại đó tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất cho thấy để phát triển sản xuất, xây dựng nền kinh tế phải phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi phải xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Đối với mỗi nước khác nhau để phát triển kinh tế, cần có sự nghiên cứu, vận dụng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của mình. Ở nước ta, Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta đã và đang từng bước xác lập và xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đường lối đổi mới của Đảng đã mang lại những thành tựu bước đầu và tiếp tục đưa nước ta vững bước tiến lên trên con "xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
11 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
Chủ nghĩa duy vật lịch sự - một bộ phận của Triết học Mác - Lênin - với nội dung chủ yếu là nhận thức xã hội trong một chỉnh thể và phát hiện những qui luật vận động và phát triển phổ biến của lịch sử. Một trong những qui luật đó là qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất chi phối sự vận động, phát triển của mọi xã hội.
Nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng đầy đủ qui luật chung, cơ bản nói trên vào đặc thù kinh tế - xã hội nước ta và vấn đề được Đảng ta hết sức coi trọng. Thực tiễn bước đầu của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta đã khẳng định những thành tựu to lớn cũng như đã bộc lộ những tồn tại trong việc nhận thức và vận dụng qui luật đó.
Phần một
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
I- Phương thức sản xuất - sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Nền sản xuất xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên hai loại quan hệ cơ bản: quan hệ giữa người với tự nhiên, và quan hệ giữa người với người. Các Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ tác động vào giới tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau nữa, người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và sự tác động của họ vào giới tự nhiên" (1).
Trong hai mặt đó, một mặt là lực lượng sản xuất và mặt kia là quan hệ sản xuất.
1. Lực lượng sản xuất.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong mối quan hệ giữa người với tự nhiên, trong sản xuất thì lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Còn dưới góc độ là kết quả phát triển của thực tiễn xã hội thì lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Có thể nói một cách chung nhất về lực lượng sản xuất, là quan hệ kinh tế - kỹ thuật biểu hiện cách thức, năng lực, trình độ con người đạt được trong quá trình tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những sản phẩm.
Về kết cấu, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất (đối tượng lao động và công cụ lao động). Trong đó, người lao động là yếu tố đóng vai trò quyết định. Theo V.I. Lê Nin "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động. "(2) Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, quyết định việc sáng tạo ra và sử dụng tư liệu sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất được tiến hành như thế nào, trước hết tuỳ thuộc vào thể chất, tinh thần và trình độ của người lao động. Cùng với quá trình phát triển của sản xuất vật chất, trình độ của người lao động không ngừng tăng lên, cơ cấu lao động cũng được thay đổi tương ứng. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, khoa học đang ngày càng trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp; lao động đang biến đổi theo xu hướng ngày càng trí tuệ hơn, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu trong lực lượng lao động, hàm lượng chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng.
Tư liệu sản xuất gồm có công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong đó công cụ lao động đóng vai trò quyết định. Trong quá trình lao động sản xuất, công cụ lao động không ngừng được đổi mới và phát triển. Nó là yếu tố đông nhất của lực lượng sản xuất. Sự biến đổi của công cụ lao động sẽ kéo dài theo làm biến đổi toàn bộ lực lượng sản xuất và xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Có thể nói lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố, nhưng không phải là phép cộng đơn thuần của các yếu tố mà là một hệ thống, trong đó chúng quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất tồn tại trong một kiểu tổ chức, phân công lao động nhất định. Khi nói đến lực lượng sản xuất, không thể không nói đến tổ chức, phân công lao động xã hội. Bản thân trình độ phân công lao động xã hội thể hiện rất rõ trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Sự hình thành và phát triển lực lượng sản xuất mang tính khách quan và liên tục. C.Mác nói "Người ta không được tự do lựa chọn lực lượng sản xuất của mình. Vì mọi lực lượng sản xuất là một lực lượng đã đạt được, tức là sản phẩm của hoạt động đã qua. Do đó, lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người"(3).
2. Quan hệ sản xuất.
Gắn liền với lực lượng sản xuất, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là toàn bộ mối qua nhệ lẫn nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Về kết cấu của quan hệ sản xuất, có thể có những cách tiếp cận khác nhau.
Nếu tiếp cận theo nghĩa các khâu của một quá trình tái sản xuất thì nó bao gồm: quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối, quan hệ trao đổi và tiêu dùng.
Theo nghĩa là các mặt, thì quan hệ sản xuất có 3 mặt. Đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quyết định hai mặt quan hệ còn lại. Có thể nói, coi chiếm hữu tư liệu sản xuất thì người đó có quyền tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra.
Trong lịch sử nhân loại, đã có 2 loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Ngoài ra còn hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen các loại hình cơ bản trên.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất tác động đến xác định vai trò, vị trí của con người trong sản xuất, đến điều khiển quá trình sản xuất; do đó trực tiếp tác động đến sản xuất, thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển. Quan hệ tổ chức quản lý do quan hệ sở hữu quyết định và nói chung phải thích ứng với quan hệ sở hữu.
Tuy nhiên, có trường hợp quan hệ tổ chức và quản lý lại không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu. Đối với thực tiễn nước ta hiện nay, đây là vấn đề đang đặt ra cần phải quan tâm giải quyết, vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra trực tiếp tác động đến lợi ích con người, nên tác động đến thái độ của con người trong quá trình sản xuất. Bởi vì lợi ích là mục đích, là động lực của quá trình sản xuất, của con người. Quan hệ phân phối sản phẩm do quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó cũng có tác động tích cực trở lại hai mặt đó. Từ đó cho thấy, để xây dựng một quan hệ sản xuất mới đòi hỏi phải giải quyết một cách đồng bộ các yếu tố cấu thành của nó.
Sự vận động phát triển của xã hội gắn liền với sự thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất. Mặc dầu mỗi chế độ xã hội thường đan xen nhiều hình thức quan hệ sản xuất, nhưng trong đó có hình thức giữ vai trò thống trị, chi phối, đặc trưng cho quan hệ sản xuất của xã hội đó, còn các quan hệ sản xuất khác chỉ là tàn dư hoặc mầm mống.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, tuy nhiên nó không phải hình thành theo ý muốn chủ quan: quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không theo ý muốn chủ quan của con người.
3. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Không phải là hai bộ phận độc lập, mà là 2 loại quan hệ, thống nhất chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất, trong một thực thể thống nhất, cấu thành phương thức sản xuất. Về mặt nhận thức luận, đó là 2 góc độ tiếp cận để xem xét một thực thể. Tức là, nếu phân tích phương thức sản xuất theo quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì đó là phân tích lực lượng sản xuất; nếu phân tích theo quan hệ giữa con người với con người thì đó là phân tích quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chật trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất quyết định tất cả cá mặt của đời sống xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định phát triển xã hội loài người từ thấp đến cao. C.Mác nói: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung""4"
II. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Phương thức sản xuất vận động phát triển, tổng thể kế tiếp nhau từ thấp đến cao và quyết định sự vận động và phát triển xã hội lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai quan hệ nằm trong một thực thế thống nhất là phương thức sản xuất. Chúng qui định chế ước, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Chính sự tác động qua lại đó tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là qui luật vận động phát triển của phương thức sản xuất, đồng thời cũng là qui luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, quyết định quan hệ sản xuất; còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và có sự tác động tích cực trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Trong mỗi quan hệ trên thì lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định. Do yêu cầu tòn tại và phát triển của xã hội, sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Trong quá trình sản xuất, các yếu tố của lực lượng sản xuất không ngừng đổi mới và tác động qua lại, làm cho lực lượng sản xuất biến đổi, phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là sự thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người và biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng người lao động, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân, lao động thủ công lên tính chất xã hội dựa trên nền tảng công cụ cơ khí, hiện đại. Ngày nay, tính chất xã hội đạt ở trình độ cao nên có tính quốc tế.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất ra đời thì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, nó là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình đọ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở nên kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Do yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất và bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ... Và do đó, tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất cho phép kết hợp một cách tối ưu người lao động với tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất, do đó nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, tức, hoặc là trở nên lỗi thời, lạc hậu, hoặc là có những yếu tố vượt trước so với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đều kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũ tất yếu sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, bằng sự tác động biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, làm cho phương thức sản xuất vận động và phát triển. Đó cũng chính là qui luật về sự vận động và phát triển của xã hội. Quy luật cho ta thấy để phát triển sản xuất, phải phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi phải xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất như thế nào không phải theo ý muốn chủ quan mà phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Phần hai
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta
I- Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN ở nước ta.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là qui luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lốn cách mạng của Đảng. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của chúng ta là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (5).
"Con người đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp tục, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" (6).
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, của đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. ở nước ta, đó là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. "Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chật kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối" (7).
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định và thể hiện bằng đường lối chính sách và các giải pháp thực hiện. Chúng ta thừa nhận trong những điều kiện nhất định, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau là khách quan và cần thiết để tập trung mọi nguồn lực cho phát triển lực lượng sản xuất, phát huy và đổi mới những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ thế giới và trong nước.
Định hướng XHCN là mục tiêu đi tới, không phải ngày một ngày hai có ngay được. Cũng như xu thế chung ngày nay, phát triển kinh tế thị trường không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước. Đặc biệt là trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hoá ngày càng tăng lên, vai trò của Nhà nước ngày càng được đặt ra. ở Việt Nam, "Nhà nước ta là Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân" (8).
II- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Nước ta tiến lên CNXH từ điểm xuất phát thấp - một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, văn minh nông nghiệp, lao động thủ công là chủ yếu. Trong lịch sử thế giới đã diễn ra, để đi lên một nền kinh tế phát triển, có nhiều cách đi khác nhau: có những cách đi theo tuần tự, nhưng cũng có cách đi riêng, tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi nước, mỗi nền kinh tế.
Từ đặc điểm của mình, và để sớm xây dựng được một nền kinh tế hiện đại, với quan điểm đổi mới và cách tiếp cận hiện đại Đảng ta xác định phải tiến hành cách mạng khoa học công nghệ theo phương châm: vừa từng bước, vừa đi tắt đón đầu, nhảy vọt, tiếp cận với văn minh nhân loại. Vừa phát triển trong nước, vừa tham gia phân công lao động khu vực và quốc tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là con đường đúng đắn để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trọng tâm suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra: "Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá"(9).
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường là biện pháp lớn và toàn diện, vừa có tính trước mắt, vừa lâu dài. Mục tiêu và hệ quả của CNH, HĐH là tạo một cơ cấu kinh tế của đất nước theo xu thế vận động tiến bộ biểu hiện ở mấy nội dung cơ bản là:
1. Sự vận động, chuyển biến từ một "nền kinh tế tự cấp, tự túc" sang nền "kinh tế hàng hoá" ngày càng có chất lượng cao hơn.
2. Sự vận động chuyển biến của cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng "công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ". Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân giảm xuống trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thì tỷ trọng chăn nuôi và thuỷ sản tăng lên, tỷ trọng trồng trọt giảm xuống. Thương mại dịch vụ ngày càng tăng nhanh, toàn diện cả về số lượng, chất lượng và hình thức hoạt động, dịch vụ.
3. Xu thế biến đổi từ cơ cấu kinh tế khép kín "trong phạm vi quốc gia, thậm chí trong một địa phương, lãnh thổ sang "cơ cấu kinh tế mở" trên cả bình diện quan hệ kinh tế quốc dân, khu vực và trong nước.
Thực tiễn phát triển kinh tế thế giới, nhất là vấn đề công nghiệp hoá trong thời gian vừa qua của các nước "công nghiệp mới "NICs, Trung Quốc,... chiếm mình xu thế vận động biến đổi, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế bằng con đường công nghiệp hoá. Nước ta có những đặc điểm, điều kiện riêng nên có sự vận dụng qui luật kinh tế khách quan trong đó có qui luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở có sự nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước.
Từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đây cũng là một yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới". Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Kết luận
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội: từ kinh tế đến chính trị, văn hoá, xã hội. Phương thức sản xuất là thống nhất chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự tác động qua lại biện chứng giữa 2 mặt đó là động lực vận động, phát triển của phương thức sản xuất.
Chính sự tác động qua lại đó tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất cho thấy để phát triển sản xuất, xây dựng nền kinh tế phải phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi phải xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Đối với mỗi nước khác nhau để phát triển kinh tế, cần có sự nghiên cứu, vận dụng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của mình. ở nước ta, Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nước ta đã và đang từng bước xác lập và xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đường lối đổi mới của Đảng đã mang lại những thành tựu bước đầu và tiếp tục đưa nước ta vững bước tiến lên trên con "xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Tài liệu tham khảo
1. C.Mác, Ănghen, tuyển tập, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội - 1991 - tr. 745)
2. V.I.Lênin, toàn tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva 1997, tập 38, tr.430.
3. C.Mác, PhĂngghen - Một số thư về chủ nghĩa duy vật lịch sử - NXB Sự thật, Hà Nội - 1992. tr.541
4. C.Mác, PhĂngghen, tuyển tập, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội 1981. tr.637
5,6. "Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001.tr.84-85
7. Như mục 5 và 6. tr86-87
8. Như mục 7. tr.87-88
9. Như mục 8
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35374.doc