Ngoài những chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì Đảng và nhà nước ta cũng đưa ra những mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đó là: xây dựng nuớc ta trở thành nước công nghiệp có nền kinh tế mạnh, tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời xây dựng con người Việt Nam hiện đại mà trước hết là đội ngũ những người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có kỹ năng lao động thuần thục, cần nhanh chóng tạo ra một lực lượng trí thức đông về số lượng mạnh về chất lượng để xây dựng một xã hội hiện đại, để rồi vượt qua thử thách, nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Xây dựng một xã hội hiện đại với một nền văn minh cao thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nâng cao dân trí, trình độ khoa học công nghệ cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân làm cho họ có lối sống, mức sống và khả năng hoạt động văn hoá, văn minh của thời đại.
21 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Xã hội không thể thoả mãn nhu cầu của mình bằng những cái có sẵn trong tự nhiên, để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống của mình con người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất nếu không sản xuất xã hội sẽ diệt vong. Vì thế sản xuất ra của cải vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà hiện nay cũng như ngàn năm trước đây con người phải tiến hành từng ngày từng giờ cốt để duy trì cuộc sống của mình.
Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác cho sự tiến bộ của xã hội. Trong mội giai đoạn lịch sử, sản xuất vật chất được biểu hiện ở một phương thức sản xuất nhất định. Cái chìa khoá để nghiên cứu những quy luật lịch sử xã hội không phải tìm ở trong óc người, trong tư tưởng và ý niệm của xã hội mà là ở trong phương thức sản xuất do xã hội thực hành trong mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử, trong chế độ kinh tế xã hội. Quá trình sản xuất đòi hỏi con người nhất thiết phải có quan hệ với nhau và quan hệ với tự nhiên. Đó là hai mặt không thể tách rời của bất kỳ một phương thức sản xuất nào: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo thành quy luật chi phối toàn bộ quá trình vận động và phát triển của xã hội loài người: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động trở lại với lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, nghiên cứu và ứng dụng quy luật này là hết sức quan trọng và cần thiết. Đặc biệt đối với Việt Nam đang trên con đường đổi mới xây dựng đất nước thì hơn bao giờ hết việc nghiên cứu và ứng dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cấp bách và cần thiết.
Do vậy vấn đề về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những vấn đề nan giải mà chúng ta cần phải quan tâm và giải quyết.
Trong quá trình thu thập tài liệu và viết bài, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Thảo Nguyên. Tuy nhiên trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế, nên không tránh khỏi những sai sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo của thầy và ý kiến đóng góp của các bạn đồng học. Em xin chân thành cảm ơn !
I - Đặt vấn đề
Lịch sử thế giới đã phải trải qua những bước quanh co song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử. Vốn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp kém nhưng nước ta đã bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi thống nhất nước nhà năm 1975, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh, trải qua nhiều năm tìm tòi, khảo nghiệm, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã xác định, duy trì và phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có ỹ nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất.
Trong lý luận về hình thái kinh tế, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cơ bản nhất vì nó là quy luật của nền sản xuất vật chất mà sản xuất vật chất là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó việc nắm vững quy luật này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Thực tế cho thấy cuộc khủng hoảng trầm trọng ở các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân rất cơ bản là không nắm vững và vận dụng đúng các quy luật xã hội đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nước ta đã có lúc chỉ thừa nhận hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể mà đã bỏ qua các thành phần kinh tế tư nhân tư bản, làm như vậy là đã đi trái với quy luật chung của đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần đã có từ trước năm 1986 nhưng mãi đến năm 1986 thì đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI mới là cái mốc cho việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Mục tiêu hàng đầu cho việc phát triển các thành phần kinh tế được tóm tắt trong ba điểm: giải phóng sức sản suất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng và nhà nước tiếp tục đề ra những phương hướng cơ bản. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra những thành tựu, bài học kinh nghiệm quý báu và đặc biệt đã chỉ ra đường lối kinh tế của Đảng: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. [ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội. 2001, trang 89].
Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, là phương tiện để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc vận dụng quy luật này tốt hay không.
Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước ta đang và sẽ áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào công cuộc cải cách đất nước, vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần như thế nào? Bài viết này chỉ là một phần cho câu hỏi trên.
II - Giải quyết vấn đề
Chương I: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra và người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất bao gồm: đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất. Bằng những tiến bộ trong sản xuất, trong khoa học kỹ thuật và quá trình công nghệ tiên tiến, con người hoàn toàn có thể tạo ra những sản phẩm mới có ý nghĩa quyết định chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại. Tư liệu lao động là những vật thể nối con người với đối tượng lao động và dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Trong tư liệu lao động thì công cụ lao động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất và là chỉ tiêu quan trọng nhất trong quan hệ giữa xã hội với giới tự nhiên. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với những sáng chế phát minh khoa học trong mỗi thời đại, công cụ lao động không ngừng được cải tiến, tư liệu sản xuất mở rộng, đổi tượng lao động được đa dạng hoá, ngành nghề mới xuất hiện dẫn đến phân công lao động xã hội ngày càng cao. Trình độ phát triển của công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế kỹ thuật trong lịch sử.
Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội phải là người có thể lực, có tri thức văn hoá, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao đối với công việc...... Vì vậy mà Lênin viết: “ Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [ V.I. Lênin, “Toàn tập”, t.38, NXB Tiến bộ, 1977, trang 40 ]. Với sức lao động và kinh nghiệm của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất. Quá trình đó cũng là quá trình cải tiến công cụ, bổ sung và hoàn thiện tư liệu lao động nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Với ý nghĩa đó, con người trở thành nhân tố trung tâm hàng đầu của lực lượng sản xuất.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã tạo ra bước nhảy vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Khoa học kỹ thuật phát triển đến mức nó trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi to lớn trong sản xuất, quản lý điều khiển các quá trình công nghệ, tạo ra những ngành sản xuất mới hiện đại, những lĩnh vực kỹ thuật mũi nhọn những phương pháp sản xuất mới, những nguồn năng lượng mới với hàng loạt vật liệu nhân tạo có tác dụng to lớn nhiều mặt mà các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật ở những thế kỷ trước không thể có được. Với ý nghĩa đó, khoa học - kỹ thuật đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trìng sản xuất xã hội. Chưa bao giờ, tri thức khoa học đang trở thành được vật hoá, kết tinh thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh chóng và có hiệu quả như ngày nay, khoa học không còn là lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất mà chuyển thành một mắt khâu của hệ thống sản xuất cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, công cụ lao động được cải tiến, con người không ngừng nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của sản xuất, đánh giá trình độ lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định.
Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, song nó là yếu tố khách quan, là nền tảng vất chất của toàn bộ nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Lịch sử xã hội đã trải qua hai kiểu sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế giữa người với người. Nếu tư liệu sản xuất nằm trong tay một số ít người, còn những người khác không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất thì quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị thống trị, quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Đây là nguồn gốc sinh ra đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Còn nếu tư liệu sản xuất là tài sản chung của xã hội thì quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung là quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, nhằm đạt mục đích của sản xuất là không ngừng nâng cao đời sống vật chất văn hoá tinh thần cho tất cả những người lao động.
Mỗi kiểu quan hệ sản xuất có một chế độ quản lý riêng, chế độ sở hữu như thế nào thì chế độ quản lý sản xuất cũng như thế ấy. ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ, mọi người cùng làm, cùng hưởng, địa vị xã hội xã hội của mỗi người đều như nhau, không có kẻ thống trị và người bị thống trị. Từ chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến đến chế độ tư bản chủ nghĩa thì chế độ quản lý sản xuất mang những loại hình khác nhau thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Phân phối sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất. Trong quan hệ phân phối, quy mô thu nhập của các giai cấp, các tập đoàn xã hội khác nhau đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ quản lý.
Ba yếu tố trên của quan hệ sản xuất tác động qua lại lẫn nhau rất mật thiết tạo thành một cơ cấu, một thể thống nhất hữu cơ, tạo thành quan hệ sản xuất - quan hệ kinh tế của xã hội. Quan hệ xã hội mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú đa dạng trong hình thức biểu hiện.
3. Nội dung quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
Như trên đã phân tích, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành nên một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất của quá trình sản xuất xã hội và của toàn bộ lịch sử xã hội: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
a. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất tồn tại ở trình độ nào thì quan hệ sản xuất cũng tương ứng với trình độ của lực lượng sản xuất ấy. Lực lượng sản xuất biến đổi dần đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện một đòi hỏi khách quan là xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng kiểu quan hệ sản xuất mới thích ứng với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, làm cho phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, đưa loài người phát triển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất lạc hậu, không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự kìm hãm đó chỉ là tương đối với sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng sản xuất khi quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất mới.
Trong mọi hình thái kinh tế - xã hội, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế cơ bản. Dưới chủ nghĩa tư bản các quy luật đó là quy luật kinh tế chính trị, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, quy luật giá trị thặng dư.
c. Nội dung quy luật
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo ra nội dung của quy luật có thể phát biểu như sau: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành mỗi phương thức sản xuất. Chúng có quan hệ biện chứng với nhau trong đó nhân tố quyết định là lực lượng sản xuất. Nó quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất là nội dung đã biến đổi thì quan hệ sản xuất là hình thức xã hội cũng phải biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời quan hệ sản xuất cũng có khả năng ảnh hưởng trở lại đối với việc duy trì và phát triển những lực lượng sản xuất hiện có. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Còn nếu lạc hậu hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tuy chỉ là tạm thời so với tất yếu khách quan của lịch sử nhưng quan hệ sản xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng nói trên có tính chất lặp đi lặp lại ở mỗi giai đoạn lịch sử của quá trình sản xuất vật chất tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Nó là quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sủ xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là do tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất hoạt động không chỉ trong chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa mà còn hoạt động trong chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn là tất yếu khách quan. Do vậy để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển phải luôn điều chỉnh sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Cho đến nay tất cả những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa không phải từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao mà từ những nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình hoặc chưa trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Mặt khác trong thời đại ngày nay lực lượng sản xuất đã mang tính chất quốc tế hoá. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lịch sử đã chứng minh rằng, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội. Vì thế có thể nói rằng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung, phổ biến của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp lên cao.
Chương II: Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta đang và sẽ nhận thức, vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào công cuộc cải cách đất nước như thế nào ?
1. Nhìn lại những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trước đại hội VI .
Trước Mác, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa được con người nhận thức và vận dụng. Cùng với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quy luật này đã được các Đảng cộng sản nhận thức và vận dụng trong điều kiện cụ thể ở mỗi nước trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong quá trình vận dụng đã có nhiều quan điểm phiến diện về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xây dựng ở những nước này. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa khác đã chứng minh rằng việc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua một cách nóng vội, bất chấp những điều kiện khách quan chưa chín muồi mà hậu quả của nó là sự lựa chọn mô hình kinh tế cũ là một sai lầm, là một cách làm chủ quan duy ý chí. Việc đi theo mô hình cũ chẳng những không tạo dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội mà còn tạo ra những trì trệ trong phát triển kinh tế xã hội. Sự khủng hoảng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thời gian qua hoàn toàn xác nhận điều khẳng định đó. Sự khủng hoảng này buộc các nước phải đổi mới và cải tổ.
Như chúng ta đã biết nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp: nền kinh tế sản xuất nhỏ, tự túc tự cấp, chưa đủ tái sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần chưa phát triển, thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nằm trong số các quốc gia nghèo và chậm phát triển nhất thế giới. Hơn nữa nền kinh tế nước ta còn bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không cho phép đưa ra quan hệ sản xuất cao, nhưng do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng này trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quôc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ quá thấp kém. Chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn, ngộ nhận là đã có “ Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” và cho rằng cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời lớn mạnh của lực lượng sản xuất và coi đó là quan hệ sản xuất tiên tiến mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thực tế đã chứng minh rằng quan điểm đó là sai lầm: quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất. Sự vi phạm quy luật này đã làm cho quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất dẫn đến sản xuất kém phát triển, nền kinh tế khủng khoảng, lạm phát tăng vọt, lực lượng sản xuất lạc hậu so với trình độ chung của thế giới.
Như vậy quan hệ sản xuất mà chúng ta xây dựng mới chỉ giải quyết được về mặt chế độ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Muốn củng cố được chế độ sở hữu công cộng và nhất là muốn thực hiện được sự phân phối theo lao động phù hợp với quy luật kinh tế cơ bản của Chủ nghĩa xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, nghĩa là làm cho quan hệ sản xuất mới mau chóng có được một lực lượng sản xuất mới tương ứng. Về vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng đã nhận thức được: “ Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” và đặt ra nhiệm vụ phải tìm cách: “ giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh lực lượng sản xuất”. [ Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật Hà Nội, 1987, trang 47 ].
Thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ nên coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một tất yếu phải tạo ngay. Song bất chấp thực tế chúng ta vẫn tạo ra quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, nhưng thực tế thì không thể rút ngắn được. Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội.
2. Sự nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của Đảng ta từ đại hội VI vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức được quy luật cơ bản về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là về kinh tế, chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, có vị trí chi phối nền kinh tế, chế độ tập trung quan liêu bao cấp phải được xoá bỏ chuyển sang hạch toán kinh doanh, đồng thời thay đổi chính sách phân phối từ bình quân chuyển sang nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ yếu. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những quan điểm của Đại hội VI của Đảng đã đi vào thực tiễn, tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế, cho phép khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề.
Từ những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng quy luật này, Đại hội VII đã có những bước phát triển mới, nhất là đến hội nghị giữa nhiệm kỳ. Trong đại hội này Đảng ta đã chủ trương xây dựng và phát triển “ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. [ Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, trang 21 ]. Đây là cách giải quyết hoàn toàn đúng đắn và tích cực trong giai đoạn quá độ từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội. Về cơ cấu kinh tế, Đại hội VII xác nhận các thành phần kinh tế theo quan điểm Đại hội VI và phát triển thay thế kinh tế quốc doanh bằng kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể bằng kinh tế hợp tác, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Việc xác định các thành phần kinh tế trên dựa trên quan hệ sở hữu và tính chất của lao động. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu sản xuất của nó, hợp thành kinh tế hành hoá nhiều thành phần còn gọi là nền kinh tế hàng hoá quá độ chứ không phải là kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới của Đảng ta từ Đại hội VI đã đạt được những thành tựu đáng kể tuy không tránh khỏi những khuyết điểm vấp váp. Nền kinh tế đang có những chuyển biến cả về cơ cấu và cơ chế quản lý, đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Những thành tựu về kinh tế đã đạt được Đại hội VII khẳng định: “ Chúng ta đã đạt được những tiến bộ bước đầu về kinh tế, trước hết là về nông nghiệp, đặc biệt là về lương thực, kiềm chế một bước đã lạm phát, giảm bớt một phần khó khăn về đời sống của nhân dân. Đã đạt được những tiến bộ về xuất khẩu và cải thiện đáng kể cán cân xuất nhập khẩu đúng vào lúc mà quan hệ kinh tế đối ngoại có những biến động đột ngột, viện trợ quốc tế giảm nhiều, nguồn vay nhập siêu không còn và khả năng nhập khẩu từ các thị trường tuyên giảm mạnh”. [ Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, trang 135 ].
Những thành tựu đó khẳng định công cuộc đổi mới của Đảng ta từ Đại hội VI là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, đặc biệt là sự vận dụng một cách sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên do tính khách quan của mối quan hệ này đòi hỏi Đảng ta phải kịp thời điều chỉnh phù hợp để vận dụng quy luật có hiệu quả.
a. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
Từ khi con người mới xuất hiện trên hành tinh đã trải qua 5 phương thức sản xuất: nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Dù ở trong bất cứ chế độ xã hội nào đi nữa thì việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn là yêu cầu tất yếu. Đối với nước ta cũng vậy, chúng ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa nên việc xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển lại càng quan trọng.
Trước đây do nhận thức sai lầm về mô hình xã hội chủ nghĩa, do cách làm duy ý chí nóng vội, chủ quan, muốn đốt cháy giai đoạn và do coi sở hữu toàn dân là mục đích chính nên chúng ta đã mau chóng thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Từ đó dẫn đến việc chỉ chú trọng phát triển nền kinh tế với hai thành phần chủ yếu: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể còn các thành phần kinh tế khác thì bị kìm hãm và xoá bỏ. Tình trạng này đã làm nảy sinh những mâu thuẫn với lực lượng sản xuất còn thấp kém, lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Từ thực tiễn đời sống, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã rút ra bài học là không thể nóng vội trong việc giải quyết vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế tập thể. Đại hội cho rằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải là một nhiệm vụ thường xuyên và liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đại hội VI đã đặt nền móng cho sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế bao gồm nhiều đặc điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội cũ đồng thời lại xuất hiện những đặc điểm và đặc tính của kết cấu kinh tế xã hội mới, chúng tồn tại đan xen với nhau: “ Xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ không có nghĩa là phải nhanh chóng phủ định triệt để cái cũ mà phải biết vừa xây dựng cái mới, vừa sử dụng và cải tạo cái cũ để thúc đẩy chế độ kinh tế mới ra đời. Vì thế trong thời kỳ quá độ, chúng ta thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần là để huy động mọi năng lực sản xuất với những trình độ kỹ thuật, vốn liếng và quy mô khác nhau để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế , nâng cao đời sống của nhân dân”. [ Lại bàn về con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Lê Xuân Lựu. Tạp chí cộng sản. Số 24 tháng 8 - 2002. Trang 47 ].
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cho thấy: chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ thủ công lạc hậu đi lên Chủ nghĩa xã hội, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Việc xây dựng quan hệ sản xuất phải tiến hành từng bước từ thấp đến cao, làm cho quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
Chính sách kinh tế nhiều thành phần được coi là một chính sách có tính chiến lược, được thực hiện nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản suất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính sách này ra đời xuất phát từ thực tiễn của nước ta, đồng thời nó cũng là sản phẩm của sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam.
ở nước ta hiện nay, lực lượng sản xuất còn đa dạng và không đồng đều về tính chất và trình độ phát triển, đó là do nguồn gốc lịch sử để lại. Các cuộc cách mạng không triệt để, chiến tranh kéo dài liên miên làm cho lực lượng sản xuất lạc hậu, năng xuất lao động thấp kém. Chế độ phong kiến và chế độ thực dân nửa phong kiến đã để lại hậu quả nặng nề: nền sản xuất tự cung tự cấp, công cụ lao động thô sơ, người lao động chủ yếu là nông dân chỉ có vài kinh nghiệm, chưa phát huy được thế mạnh của mình. Mặt khác do khoa học-kỹ thuật ngày càng phát triển đòi hỏi nước ta phải có sự giao lưu, đón nhận những thành tựu của thế giới, tiếp thu những phát minh và kinh nghiệm quý báu để nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn và trình độ nhận thức. Chính vì lý do trên mà lực lượng sản xuất ở nước ta đa dạng nhưng không đồng đều. Chính vì thế chúng ta không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất thành một phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước Đại hội VI mà tất yếu phải duy trì nền kinh tế với nhiều thành phần.
Trước Đại hội VI ta đã phạm phải sai lầm là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, điều đó là hoàn toàn sai trái với quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Từ sau Đại hội VI chúng ta đã chú trọng đến những hình thức kinh tế trung gian, đi từ quy mô sản xuất nhỏ lên quy mô sản xuất lớn, từng bước tạo ra lực lượng sản xuất mới và chuyển dần sang phương thức sản xuất mới.
Trong quá trình đi lên Chủ nghĩa xã hội, bên cạnh việc chú trọng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải duy trì và xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp. Điều đó không đồng nghĩa với việc từ một nền kinh tế thấp do nóng vội mà nhảy lên nền kinh tế phát triển cao. Chúng ta không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào đó khi mà lực lượng sản xuất tương ứng với nó vẫn còn đang tồn tại, đang còn cần thiết cho xã hội. Nếu vội vàng xoá bỏ hình thức kinh tế này khi chúng đang còn là một tất yếu kinh tế thì đó là một điều “dại dột” và “tự sát” như Lênin đã nói: “dại dột” bởi điều đó chống lại quy luật khách quan, “tự sát” vì nó sẽ dần dần đưa nền kinh tế đến chỗ tiêu cực, lực lượng sản xuất xã hội sẽ bị phá hoại nghiêm trọng.
Qua quá trình phân tích trên cho thấy sự tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu kinh tế khách quan và có nhiều lợi ích to lớn trong thời kỳ qua độ. Thực tiễn của 15 năm đổi mới kể từ sau Đại hôi VI đã cho thấy, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất; giải quyết việc làm cho nhân dân; khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước; tạo sự đa dạng về quy mô và trình độ của sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật của nước ta; tạo môi trường thuận lợi cho sự liên kết và liên doanh với nước ngoài ......
Trong 10 năm tới để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nuớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế , là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế. Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, đổi mới cơ chế đối với doanh nghiệp nhà nước: xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, tự chịu trách nhiệm về sản xuất và kinh doanh; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước hiện có và phát triển doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư. Còn kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt có tác dụng liên kết những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó thì kinh tế cá thể, tiểu chủ cũng có vị trí quan trọng lâu dài, Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi.
Nói tóm lại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh tương ứng với những lực lượng sản xuất khác nhau. Mỗi thành phần kinh tế lại có loại hình sản xuất với quy mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế phân phối thích hợp. Điều quan trọng là mỗi thành phần đóng một vai trò kinh tế xác định và chỉ khi nào phát huy được vai trò đó thì toàn bộ cơ cấu mới có tác dụng thúc đẩy đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
b. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Từ Đại hội III của Đảng đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đại hội VIII nhất trí nhận định đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam trong đó lực lượng lao động là một yêú tố quan trọng. Đặc biệt không bỏ qua nhân tố cơ bản nhất, đó là sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước tiên phải tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước. Vậy tai sao doanh nghiệp nhà nước lại trở thành một trong những tiêu thức hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước?
Từ năm 1990, nước ta phải đối mặt với những khó khăn gay gắt. Đầu những năm 90 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệp: khủng hoảng kinh tế, việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả thách thức và khó khăn, cong chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng: GDP tăng, tình hình chính trị-xã hội ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện. Kết quả đó có được là do cố gắng phấn đấu của toàn dân, trong đó doanh nghiệp nhà nước góp phần rất to lớn. Doanh nghiệp nhà nước có một đội ngũ cán bộ và cán bộ quản lý với năng lực và phẩm chất đạo đức. Đội ngũ cán bộ này chịu tác động của 3 động lực chủ yếu, xuất phát từ yêu cầu tất yếu của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để bảo đảm xây dựng Chủ nghĩa xã hội thành công thì động lực lý tưởng là động lực số 1, cùng với động lực lòng say mê nghề nghiệp, lợi ích vật chất tạo cho đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước vượt lên trên các doanh nghiệp khác.
Với một lực lượng đông đảo, cán bộ kinh doanh, công nhân viên trong doanh nghiệp nhà nước cần phải được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đổi mới tư duy kinh doanh, kịp thời thích ứng nắm bắt nhu cầu thị trường, làm cho nguồn nhân lực xã hội dồi dào góp phần vào sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh việc chú trọng vào doanh nghiệp nhà nước thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng được Đảng đặc biệt quan tâm. Đánh giá lại quá trình chỉ đạo sản xuất nông ngiệp ở nước ta trước đây, Đảng ta đã rút ra một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho nông nghiệp phát triển chậm là: không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất nhất định phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Kể từ Đại hội VI trở đi, Đảng ta nhấn mạnh về việc vận dụng quy luật này: phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn.
Đối với nông nghiệp, điều đổi mới của Đảng được thể hiện trong chủ trương về khoán sản phẩm đến người và hộ lao động. Dần dần nông nghiệp nông thôn ở nước ta đã có những hướng đi đúng, các hộ nông dân sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Rõ ràng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn đã làm cho lực lượng sản xuất nông nghiệp phát triển, quan hệ sản xuất được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với lực lượng sản xuất nông nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng các thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản lý với nhiều hình thức sản xuất nông nghiệp mới, phù hợp với quan điểm đổi mới không ngừng của Đảng, nhờ đó tạo ra sự biến đổi căn bản trong các hợp tác xã nông nghiệp trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất.
Dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, người nông dân quan tâm nhiều đến sản xuất, gắn bó với ruộng đất, trăn trở với việc nâng cao năng suất nhằm tăng cao hiệu quả của việc sản xuất hàng hoá nông nghiệp.
Song song với việc chú trọng vào doanh nhiệp nhà nước và phát triển nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà nước cũng chú trọng vào việc phát triển công nghiệp và các ngành dịch vụ.....Tuy nhiên do nước ta là một nước nông nghiệp nên Đảng và nhà nước cần phải chú trọng vào nông nghiệp trước sau đó mới đi vào phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ để phát triển đất nước.
III - Kết luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một quy luật cơ bản, quan trọng nhất không những của kinh tế mà còn của cả lịch sử xã hội. Nó chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và đến lượt mình quan hệ sản xuất cũng có những tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Sự vận dụng quy luật giữa quan hệ sản xuất và lực lương sản xuất chủ yếu thể hiện ở sự quản lý của nhà nước về kinh tế. ở nước ta chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là sự trưởng thành về tư duy cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của xã hội loài người vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đó là sự điều chỉnh một cách hợp lý trên cả ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu, quan hệ về tổ chức và quản lý, quan hệ về phân phối trong đó quan hệ về sở hữu đóng vai trò quyết định đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự vận dụng đúng đắn quy luật này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó là cơ sở lý luận của việc xác định mô hình kinh tế, cơ cấu và chính sách kinh tế góp phần to lớn trong việc đưa nền kinh tế phát triển năng động, từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đưa nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ý thức được sự tồn tại khách quan đặc trưng của nền kinh tế quá độ ở nước ta, chúng ta phải đưa ra những giải pháp, những chính sách nhằm thực hiện tốt chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể khái quát thành những giải pháp sau:
Giải phóng mọi lực lượng sản xuất, mọi tiềm năng đã bị kìm hãm trước đây của các thành phần kinh tế nhằm khai thác và đưa vào sử dụng có hiệu quả. Đồng thời không ngừng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc nhanh chóng áp dụng khoa học công nghệ, đưa các tiến bộ kỹ thuật của những nước phát triển và tăng cường công tác giáo dục đào tạo, hướng dẫn cho người lao động có thể tiếp thu được những công nghệ mới.
Đưa ra những chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế trước đây bị coi là phi xã hội chủ nghĩa: kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước... đầu tư vào sản xuất.
Thành phần kinh tế nhà nước phải được củng cố và tăng cường phát triển nhằm giữ vai trò chủ đạo, định hướng xã hội chủ nghĩa cho các thành phần kinh tế khác.
Bên cạnh những chủ trương thay đổi lực lượng sản xuất cần bình thường hoá các quan hệ sản xuất, có cách nhìn đúng dắn giữa ông chủ và người làm thuê. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm làm ra. Quan hệ sản phẩm tốt người lao động được hưởng mọi quyền lợi họ sẽ tích cực làm việc từ đó năng suất và sản phẩm không ngừng tăng.
Ngoài những chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì Đảng và nhà nước ta cũng đưa ra những mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đó là: xây dựng nuớc ta trở thành nước công nghiệp có nền kinh tế mạnh, tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời xây dựng con người Việt Nam hiện đại mà trước hết là đội ngũ những người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có kỹ năng lao động thuần thục, cần nhanh chóng tạo ra một lực lượng trí thức đông về số lượng mạnh về chất lượng để xây dựng một xã hội hiện đại, để rồi vượt qua thử thách, nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Xây dựng một xã hội hiện đại với một nền văn minh cao thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nâng cao dân trí, trình độ khoa học công nghệ cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân làm cho họ có lối sống, mức sống và khả năng hoạt động văn hoá, văn minh của thời đại.
Danh mục tài liệu tham khảo
1) Tạp chí cộng sản. Số 1, 2 (1- 2002); số 24 (8-2002).
2) Tạp chí kinh tế và phát triển. Số 61, 63 (7-2002).
3) Tạp chí triết học. Số 1 (128), tháng 1-2002.
4) Triết học Mác-Lênin. Tập II.
5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc l thứ IX.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35401.doc