MỞ ĐẦU
Tính độc đáo của mỗi loại hình nghệ thuật là do tính chất của các phương tiện vật chất dùng để xây dựng hình tượng trong loại hình.Văn học nghệ thuật là một nghệ thuật ngôn từ; yếu tố vật chất mang hình tượng của nó là lời nói của con người mà cơ sở là ngôn ngữ của một dân tộc nhất định.Ngôn ngữ là một hiện tượng phức tạp, chức năng quan trọng nhất là giao tiếp giữa người với người. Nhờ ngôn ngữ mà người ta biểu hiện tình cảm và truyền cảm với người xung quanh, thông tin đến vơi nhau.Tất cả các bình diện này của ngôn ngữ đều được vận dụng vào sáng tạo nghệ thuật.Chúng mở ra cho văn học những nhận thức_thẩm mỹ cực kì rộng lớn và hoàn toàn độc đáo.
1. Các khả năng nghệ thuật của lời nói:
Các nhà nghiên cứu lí luận co nhiệm vụ là nghiên cứu khả năng của ngôn ngữ đối với sáng tác của nhà văn. Nhà ngữ văn học A.A.Potebnia người Nga cuối thế kỉ XIX trong cuốn Tư tưởng và ngôn ngữ và ghi chép về lí luận ngôn từ khẳng định: “ Nguyên tố nghệ thuật nằm ngay trong bản thân ngôn ngữ, nằm trong sự vận động và phát triển không ngừng của nó ”. Potebnia đã đối lập nghệ thuật ngôn từ ( thơ ca ) với lời nói ( văn xuôi ).Ông xem phẩm chất chủ yếu của thơ ca là tính đa nghĩa của từ là đặc biệt là tính bóng gió. Ông nhấn mạnh từ và nhóm từ được dùng với nghĩa bóng không chỉ là sự trtang sức đơn giản của lời nói nghệ thuật mà thực chất là của thơ.
Học thuyết của Potebnia đã rọi sáng vào thuộc tính quan trọng của nghệ thuật ngôn từ. Tính đa nghĩa của từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật là một trong những cội nguồn chủ yếu của tính hình tượng. Đồng thời tính hình tượng của ngôn từ nhà văn cũng phải được tạo ra bằng nghĩa bóng .Ngôn từ trong tác phẩm nghệ thuật đã tái hiện các sự kiện hành động, cảm thụ cá biệt .Chẳng hạn trong tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao, lúc đầu Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là Tiên sư thằng Tào Tháo, sau lai đổi thành Đôi mắt. Tác phẩm được kết thúc bằng tiếng chửi yêu, đầy thán phục của nhân vật Hoàng khi nghe vợ đọc Tam Quốc ở cái đoạn Tào Tháo đánh Quan Công: “ Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư thằng Tào Tháo! ”. Lúc đầu có lẽ tác giả đặt thiên truyện là Tiên sư thằng Tào Tháo là do ông nhận ra cái độc đáo của câu kết xuất thần này. Nhưng sau đó khi đã ngẫm nghĩ lại, như chính Nam Cao đã viết trong nhật kí, ông “đặt cho nó cái tên giản dị và đúng đắn hơn, Đôi mắt.”
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3988 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Văn học là một loại hình nghệ thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN HỌC LÀ MỘT LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT
Tính độc đáo của mỗi loại hình nghệ thuật là do tính chất của các phương tiện vật chất dùng để xây dựng hình tượng trong loại hình.Văn học nghệ thuật là một nghệ thuật ngôn từ; yếu tố vật chất mang hình tượng của nó là lời nói của con người mà cơ sở là ngôn ngữ của một dân tộc nhất định.Ngôn ngữ là một hiện tượng phức tạp, chức năng quan trọng nhất là giao tiếp giữa người với người. Nhờ ngôn ngữ mà người ta biểu hiện tình cảm và truyền cảm với người xung quanh, thông tin đến vơi nhau.Tất cả các bình diện này của ngôn ngữ đều được vận dụng vào sáng tạo nghệ thuật.Chúng mở ra cho văn học những nhận thức_thẩm mỹ cực kì rộng lớn và hoàn toàn độc đáo.1. Các khả năng nghệ thuật của lời nói:Các nhà nghiên cứu lí luận co nhiệm vụ là nghiên cứu khả năng của ngôn ngữ đối với sáng tác của nhà văn. Nhà ngữ văn học A.A.Potebnia người Nga cuối thế kỉ XIX trong cuốn Tư tưởng và ngôn ngữ và ghi chép về lí luận ngôn từ khẳng định: “ Nguyên tố nghệ thuật nằm ngay trong bản thân ngôn ngữ, nằm trong sự vận động và phát triển không ngừng của nó ”. Potebnia đã đối lập nghệ thuật ngôn từ ( thơ ca ) với lời nói ( văn xuôi ).Ông xem phẩm chất chủ yếu của thơ ca là tính đa nghĩa của từ là đặc biệt là tính bóng gió. Ông nhấn mạnh từ và nhóm từ được dùng với nghĩa bóng không chỉ là sự trtang sức đơn giản của lời nói nghệ thuật mà thực chất là của thơ.Học thuyết của Potebnia đã rọi sáng vào thuộc tính quan trọng của nghệ thuật ngôn từ. Tính đa nghĩa của từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật là một trong những cội nguồn chủ yếu của tính hình tượng. Đồng thời tính hình tượng của ngôn từ nhà văn cũng phải được tạo ra bằng nghĩa bóng .Ngôn từ trong tác phẩm nghệ thuật đã tái hiện các sự kiện hành động, cảm thụ cá biệt .Chẳng hạn trong tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao, lúc đầu Nam Cao đặt tên cho thiên truyện ngắn của mình là Tiên sư thằng Tào Tháo, sau lai đổi thành Đôi mắt. Tác phẩm được kết thúc bằng tiếng chửi yêu, đầy thán phục của nhân vật Hoàng khi nghe vợ đọc Tam Quốc ở cái đoạn Tào Tháo đánh Quan Công: “ Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư thằng Tào Tháo! ”. Lúc đầu có lẽ tác giả đặt thiên truyện là Tiên sư thằng Tào Tháo là do ông nhận ra cái độc đáo của câu kết xuất thần này. Nhưng sau đó khi đã ngẫm nghĩ lại, như chính Nam Cao đã viết trong nhật kí, ông “đặt cho nó cái tên giản dị và đúng đắn hơn, Đôi mắt.”Như vậy cái tên Đôi mắt ra đời sau sự nghiền ngẫm và chau chuốt khi sử dụng ngôn ngữ với tính chất giản dị, sâu sắc thể hiện củ đề của tác phẩm. Đôi mắt là vấn đề cách nhìn,, vấn đề quan điểm. Cách nhìn đó là cách “ nhìn đời, nhìn người ”. Cách nhìn ấy được thể hiện một cách cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh nghệ thuật trong tác phẩm. Đó là cách nhìn nhân dân lao động, chủ yếu là người nông dân trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp của lớp trí thức văn nghệ sĩ.Như vậy hình tượng ngôn từ được tạo ra không phải chỉ bằng cách vận dụng một số phương tiện ngôn ngữ đặc biệt nào đó mà còn bằng cách lựa chọn khéo léo các chi tiết tạo hình mà người ta có thể chỉ ra bằng các phương tiện lời nói đơn giản nhất. Bất cứ hình thức lời nói nào trong sự sắp xếp của người nói hay người viết nhằm tái hiện lại các sự cá biệt đều có thể trở thành hình tượng.Lời nói có thể trở thành tượng trong các trường hợp khi nó dựng lên được bộ mặt của bản thân của người nói. Chẳng hạn truyện Đôi mắt đã tạo nên một nhân vật khó quên được: văn sĩ Hoàng. Mỗi lần đọc lại tác phẩm, gặp lại nhân vật này, tôi cứ phải bật cười một mình và thầm thốt lên: Chà, cái thằng cha này, y như một người có thật mà mình đã gặp ở đâu rồi vậy. Những nhân vật có phẩm chất nghệ thuật như vậy, thường giống nhau ở đặc điểm này, có những chi tiết có vẻ ngẫu nhiên, thậm chí vô nghĩa nữa, vậy mà không thể hình dung ra nhân vật ấy đúng như bản chất của nó, nếu gạt bỏ đi những chi tiết ấy. Nghĩa là rất ngẫu nhiên mà lại tất yếu. Có vẻ vô nghĩa đấy nhưng không thể không có không được. Trong Đôi mắt , Độ lần nào đến nhà Hoàng cũng bắt gặp một con chó Béc-giê. Ở Hà Nội cũng thế, ở nơi tản cư cũng vậy. Điều ấy có gì là tất yếu đâu! Ấy thế mà chúng ta không thể hình dung ra cái gã văn sĩ kiêm chợ đen này đúng như kiểu người và cung cách sống của anh ta nếu không có hình ảnh cái con chó giống Đức to lớn ấy. Cũng như anh ta nhất thiết phải có thân hình to béo, nặng nề, bước đi thong thả, khệnh khạng, bởi hai cánh tay ngắn ngủn kềnh kệnh ra hai bên; nhất thiết phải mặc bộ quần áo ngủ xanh nhạt, phủ bên ngoài một lớp áo len trắng, quá chật; nhất thiết phải có một cái vành móng ngựa ria cắt xén ngay ngắn trên mép; nhất thiết phải ngả người ra phía sau và kêu lên những tiếng lâm ly trong cổ họng khi nhận ra người bạn cũ; nhất thiết phải thích Tam Quốc Chí và khoái nhất nhân vật Tào Tháo …..Điều thú vị ở đây là những chi tiết không chỉ làm cho nhân vật trở thành cụ thể, sinh động hay nói như các nhà lí luận văn học, không chỉ đóng vai trò cá thể hóa, cá tính hóa nhân vật. Chúng còn thể hiện sâu sắc bản chất xã hội của tính cách nghĩa là đem đến cho nó giá trị điển hình.Chứng tỏ khả năng hình tượng của lời nói cũng quyết định đặc điểm của văn học với tư cách là một loại hình nghệ thuật đặc thù.Đặc điểm quan trọng nhất của lời nói nghệ thuật là tính tổ chức tối đa của nó. Từng sắc thái, từng khác biệt nhỏ nhặt trong tác phẩm văn học nghệ thuật đều mang tính biểu cảm và đều có nghĩa. Trong nghệ thuật ngôn từ sự lựa chọn cẩn thận các hình thức lời nói giàu ý nghĩa, giàu biểu hiện nhất bao giờ cũng quan trọng. Tất cả cái ngẫu nhiên tùy tiện, tất cả những gì là trung tính như thường gặp đầy rẫy trong lời nói thông thường ở trong các tác phẩm văn học nghệ thuật sẽ dẫn đến cái tối thiểu và trong lí tưởng thì dẫn đến con số không. Tuy nhiên những cái khác biệt về hình thức lời nói nghệ thuật so với các dạng lời nói khác là không tất yếu. Nhiều trường hợp văn bản ngôn từ nghệ thuật bề ngoài chẳng khác gì với lời nói thông thường như lời khẩu ngữ ( đối thoại trong tiểu thuyết hiện thực) hay lời văn viết ( văn xuôi trong hình thức hồi tưởng, ghi chép, nhật kí ) .Nhưng ngay trong các trường hợp đó, tức lời nói nghệ thuật về hình thức cũng chẳng khác gì so với lời nói thông thường, thì nó vẫn có sự hoàn thiện thẩm mỹ.2.Tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ:Văn học nghệ thuật là loại hình nghệ thuật tạo hình để phân biệt với các loại hình biểu cảm khác.Các họa sĩ , điêu khắc, diễn viên, đạo diễn đều xây dựng nên các hình tượng xác thực hữu hình trực tiếp (hình tượng trực quan).Các hình tượng trong loại hình nghệ thuật này đều trực tiếp tác động tới cảm giác nhìn của chúng ta.Ngược lại trong văn học nghệ thuật các từ ngữ chỉ gắn bó bằng liên tưởng với các biểu tượng về các đối tượng được miêu tả. Khi đọc hay nghe tác phẩm văn học chúng ta không nhìn thấy cái nhà văn mô tả, nhưng nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng mà ta tái tạo lại các đối tượng và sự thực văn bản đề cập đến.Các loại hình tượng văn học không có tính trực quan sinh động mà chúng có tính phi vật thể tác động vào trí tưởng tượng của người tiếp nhận.Do vây, nghệ thuật thua kém về sức mạnh và sáng rõ của ấn tượng chủ quan nhưng bù lại bằng những khả năng đặc thù độc đáo là tái tạo những gì có thể cảm nhận bằng thính giác, xúc giác, khứu giác ngoài cái được cảm thụ bằng thị giác.Điều chủ yếu là tác giả của tác phẩm văn học trực tiếp hướng tới sự cảm thụ “ngoài giác quan” của người đọc: hướng tới sự tưởng tượng trí tuệ của người đọc.Chẳng hạn khảo sát nhân vật thành công của tác phẩm Đôi mắt là văn sĩ Hoàng. Đọc luận đề Đôi mắt nên đọc từ hình tượng, qua hình tượng ấy, đồng thời thấy nụ cười Nam Cao ẩn hiện trong đó, người đọc sẽ thấy bao nhiêu là thú vị. Chẳng tình cờ chút nào khi Nam Cao chọn điểm xuất phát cho câu chuyện về Hoàng bằng hình ảnh con chó Tây hung hăng mở đầu tác phẩm. Một con chó cao lớn như con bê, rất hung tợn, đến mức mỗi lần độ đến chơi, mặc dù được anh Hoàng ra đứng tấn yểm trợ, Độ cũng chỉ đủ can đảm bước vội qua đằng sau cái đuôi nó để bước vào phòng khách. Độ phải thú thực: “ Tôi rất sợ con chó giống Đức hung hăng ấy. Sợ đến nỗi một lần đến chơi, không thấy anh Hoàng ra đứng để giữ nó mà báo tin nó ddã chết rồi, thì mặc dầu cố làm ra vẻ tiếc nuối với anh, nhưng quả thực tôi thấy nhẹ cả người”. Tại sao chuyện về Hoàng lại bắt đầu từ con chó? Phải chăng đó là chi tiết có khả năng đập mạnh vào ấn tượng của người đọc, tạo sức cuốn hút ngay từ đầu. Song quan trọng hơn Nam Cao muốn gián tiếp tạo ấn tượng hài hước và bao trùm về Hoàng (ông chủ con chó): phú quý_thời dân chết đói đầy đường mà Hoàng vẫn kiếm đủ mỗi ngày vài lạng thịt bò nuôi chó thì đâu phải là người thường_và dữ dằn nữa. Liền sau hình ảnh chó dữ (đã chết) là hình ảnh biếm họa của Hoàng. Đây là loại chân dung dị dạng rất khôi hài sở trường của Nam Cao, khiến ông dựng Hoàng nổi hình, nổi khối cựa quậy rất kì thú: “ Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả vì người to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tun ngủn như ngắn quá ”. Đúng là chân dung khiến người đọc phải nhờn ngấy lên. Nam Cao còn bổ sung vào đấy “một vành móng ngựa ria đặc thị dân”. Chỉ mới khi xuất hiện, Hoàng đã hiện lên rất sống: đầy ứ sự no nê múp míp, sự nhàn hạ phong lưu, khiến anh ta trở lên rất chướng trong hoàn cảnh cả dân tộc đang gian lao kháng chiến.Qua hồi tưởng của Độ, Nam Cao dùng phép đồng hiện làm hiện ra một Hoàng của quá khứ, tạo thêm bề dày cho hình tượng, Hòang vốn là kẻ đố kị, cơ hội, lật lỏng, giả rối…Đặc biệt Hoàng có cái tật “đá bạn” một cách đột ngột, có lúc ra báo chửi bạn bè. Nam Cao không đao to búa lớn với Hoàng như Hoàng đã từng đao to búa lớn báng bổ nông dân. Nhiều chỗ ngòi bút của nhà văn rất kín, thoáng đọc chẳng thấy gì, nhưng càng ngẫm càng thấy thâm ý. Ví như đoạn tả Hoàng đón Độ. Thoạt nhìn có vẻ thân tình, nhìn ki thì hóa ra đóng kịch. Hoàng cầu kì, phức tạp, tạo dáng trong một hệ thống động tác trau chuốt đến cả cái chìa tay, hé miệng, rồi lâm ly kêu lên những tiếng ở cổ họng….Nam Cao đã “kịch hóa” hành động của nhân vật, bắt anh ta phải bộc lộ tận cùng sự giả dối trong bản chất. Mà nào đã hết, cái nghề của Hoàng có một điều gì thật bất ổn: Hoàng là nhà văn kiêm tay buôn chợ đen . Quả là một kết hợp cọc cạch, lạc điệu. Nhà văn hướng thiện, tay buôn hướng lợi. Ở Hoàng nhà văn không lấn ướt được con buôn, mà ngược lại con buôn hóa, nên Hoàng luôn so bì tính toán sợ thiệt. Nhiều người cho rằng bản thân cách sống thanh lịch của Hoàng không có gì là phê phán cả. Hoàng cũng không phải là phản động, là kẻ thù của kháng chiến. Vậy đánh giá cách sống của Hoàng như thế nào? Phải đặt Hoàng vào hoàn cảnh cả dân tộc đang kháng chiến. Trong lúc mọi người quên cá nhân mình để sống và chiến đấu cho độc lập, tự do của tổ quốc thì Hoàng lại chăm sóc cá nhân quá kĩ lưỡng: đi tản cư vẫn dùng thuốc lá thơm và còn đủ thời gian tỉa tót vành ria mép…Đây là lối sống kiểu cách, xa lạ, vô trách nhiệm, bộc lộ bản chất ích kỉ của mọi người.Cách sống ấy có liên quan đến cách nhìn, nhìn lệch thì sống lệch. Cái nhìn của Hoàng không phải là sai cả, nhưng cơ bản Hoàng nhìn rất méo mó về nhân dân (đặc biệt là nông dân), về kháng chiến. Người xưa nói: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Nhưng Hoàng lại sông rất vô trách nhiệm, ngôi nhà luôn đóng kín cổng của anh như là biểu tượng cho thái độ đứng ngoài cuộc, cho cái lạnh lẽo dửng dưng của kẻ đã khước từ kháng chiến. Ấy thế mà Hoàng thích đứng ngoài để chửi đổng_chửi đổng nhân dân, chửi đổng kháng chiến. Hoàng sắc sảo đến hiếm có khi giễu cợt nhân dân: nào là chị dâu bị em bị em đuổi ra vườn mà đẻ, nào là người nhà quê hay nhòm ngó, khách lạ vào làng thì đếm từng nốt ruồi trên mặt, từng lỗ rách ở ống quần bên trái, nào là người nhà quê thích xét giấy, thích nói chuyện chính trị…tóm lại toàn là nững người “vừa nhố vừa nhặng xị”. Hoàng còn có tài bình luận bộc lộ thái độ đánh giá theo kiểu chê bai một cách nồng nhiệt đến trắng trợn “ nỗi khinh bỉ của anh phì ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối”. Đồng minh với thái độ độc ác này là vợ Hoàng, cô ta nghe chồng kể khoái trá cười đến mức rú lên, cười đến phát ho, đến chảy cả nước mắt….Hoàng càng tỏ ra sắc sảo càng tỏ ra phiến diện. Độ nhận xét chính xác cách “nhìn đời, nhìn người” của Hoàng là cách nhìn từ “một phía”, hoàn toàn mù mờ về bản chất tốt đẹp bên trong của người nông dân kháng chiến, nên anh đã khinh bỉ họ một cách tàn nhẫn, dẫn đến thái độ bi quan trước tiền đồ của cuộc kháng chiến là một tất yếu. Chính Hoàng tự nhận “tôi bi lắm”. Bi vì không công nhận vai trò lịch sử của nhân dân, Hoàng chỉ biết sùng bái cá nhân lãnh tụ. Mà Hoàng sùng bái cụ Hồ một cách ngô nghê, nực cười nhất là lúc Hoàng tỏ ra thương ông cụ: “ Phải cứu một nước như nước mình thì khổ cho cụ lắm…dù dân mình có tồi đi nữa, Ông cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường”. Đây là cái nhìn của một con người bị cầm tù trong chủ nghĩa cá nhân làm hỏng tư cách công dân lẫn tư cách nhà văn của Hoàng. Nam Cao để Hoàng thả sức “chửi đổng” đối với cuộc kháng chiến, rồi bất ngờ lại để Hoàng sa vào bàn tổ tôm của bọn trí thức cặn bã ở Hà Nội thải về. Nam Cao còn để Hoàng than phiền không có lấy một cái bàn để viết văn và ao ước y sẽ viết về cái thời này như Vũ Trọng Phụng từng viết Số Đỏ. Lại một cơ hội để Nam Cao phơi bày cái nhìn hời hợt mà tàn nhẫn của Hoàng. Chao ơi chỉ có loại người như Hoàng mới dám táo tợn đánh đồng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc với cái ô hợp, phi lý thời Vũ Trọng Phụng, đặt cuộc kháng chiến trong một cái nhìn giễu cợt. Đây chính là toàn bộ bản chất của Hoàng đã bị lột trần trước tiếng cười biếm họa sắc sảo, thâm thúy của Nam Cao.Các hình tượng nghệ thuật ngôn từ do đó không khắc họa bản thân các sự vật trong các thuộc tính có thể cảm nhận bằng giác quan của chúng, mà khắc họa các phản ứng của ý thức con người đối với hiện thực, những cảm thụ chủ quan hoàn chỉnh. Hình tượng ngôn từ đối lập với lối liiệt kê bề bộn các bộ phận được cảm thụ bằng thị giác của sự vật và chồng chất các chi tiết phù trợ. Đồng thời nhà văn cũng không muốn chỉ ra các sự vật một cách lược đồ đại cương theo lối tổng cộng mà thiếu các chi tiết, đường nét bộ phận. Một sự khái niệm hóa trừu tượng không thể tạo ra hiệu quả nghệ thuật thực sự. Văn bản ngôn từ chỉ đáp ứng được các đòi hỏi nghệ thuật nếu nhà văn tìm được các chi tiết và tình tiết có khả năng dựng lên sự vật trong bộ mặt chỉnh thể của nó. Chỉ có như vậy thì người đọc mới có thể vẽ tiếp bằng trí tưởng tượng cái điều được chỉ ra bằng lời. Trong khi cảm thụ tác phẩm văn học thì sự liên tưởng các quan niệm tức sự đối chiếu có thể giữa các sự vật và hiện tượng đóng vai trò quan trọng. Hình tượng nghệ thuật ngôn từ tạo lên sự liên tưởng của người đọc mang dấu ấn chủ quan cá biệt và đó là những đặc điểm bản chất của văn học với tư cách là một nghệ thuật. Sự giao tế của người đọc với các hình tượng phi vật thể của tác phẩm được thực hiện trong bất cứ hoàn cảnh sinh hoạt nào và được nhập vào đời sống hàng ngày của con người dễ dàng hơn rất nhiều so với sự cảm thụ các tác phẩm hội họa, điêu khắc, sân khấu hay điện ảnh. Người đọc tự mình lựa chọn lấy nhịp độ cảm thụ tác phẩm. Hình tượng ngôn từ là một loại bàn đạp độc đáo để cho người đọc đồng sáng tạo, là lực đẩy cho hoạt động tưởng tượng và cho công việc sáng tạo trong tâm hồn của nhà văn.Các hình tượng phi vật thể của nghệ thuật vẫn giữ được mối liên hệ với phạm vi hữu hình. Tác phẩm văn học là sự tổng hợp độc đáo của các hình tượng khắc họa lại cái vô hình và cái hữu hình. Và nghệ sĩ ngôn từ thường lo lắng sao cho tạo dựng được ở người đọc và người nghe những biểu tượng hữu hình.Như vậy các hình tượng ngôn từ thiếu tính trực quan nhưng lại có nhiều nhân tố tích cực. Vận dụng các hình tượng phi vật thể, các nhà văn đã chiếm lĩnh tầm rộng lớn các phương diện của đời sống vốn không thể hiện được ra ở bề ngoài hữu hình của thế giới vật thể.3.Thời gian và không gian trong văn họcCác loại hình nghệ thuật chiếm lĩnh hiện thực trong các chiêu không_thời gian của nó một cách khác nhau. Hội họa, điêu khắc miêu tả các sự vật một cách tĩnh tại, nêu ra hàng đầu các đường nét và tỉ lệ không gian của chúng. Lessing nhấn mạnh trong hội họa và điêu khắc các sự vật tồn tại kề nhau trong không gian. Nhưng trong văn học nghệ thuật thì không miêu tả sự vật trong trạng thái bất động vì như vậy không có khả năng hấp dẫn người đọc như miêu tả hành động “Những gì mà con mắt nắm bắt được tức khắc thì nhà thơ phải trình bày cho chúng ta chậm rãi, theo từng bộ phận sau thì chúng ta quên mất bộ phận trước. Ở đây đối chiếu các vật thể trong không gian đã vấp phải tính liên tục của lời nói trong thời gian”. Laokoon đã chỉ ra rằng các nhà thơ lớn đều tránh những sự miêu tả độc lập tự tại và tìm cách thay thế chúng bằng sự tái hiện hành động. Văn học nghệ thuật thì trái lại tái hiện các quá trình của đời sống diễn ra trong thời gian tức hoạt động sống của con người gắn liền với chuỗi cảm thụ, suy nghĩ, ý định, hành vi, sự kiện. Trong tác phẩm văn học còn có một không gian NT đặc thù.Tác phẩm văn họccó thể cung cấp những lời bình phẩm tỉ mỉ, chi tiết về một khoảng không gian cuộc gặp gỡ giữa Hoàng và Độ. Độ từng ngủ chung với công nhân ở xưởng in, nên khi nằm chung với Hoàng, Độ lo ngay ngáy mấy con rận trong bộ quần áo tây của mình “du lịch” sang cái chăn bông thoang thoảng mùi nước hoa của Hoàng. Một chi tiết nhỏ trong khoảng không gian nhỏ hẹp mà đủ dựng lên thế đối lập giữa hai cách sống: chiếc chăn bông thơm nức sự sang trọng là chân dung một lối sống xa hoa lạc lõng, còn bộ quần áo tây có cái giống kí sinh trùng hay phản chủ ấy lại tiêu biểu cho lối sống gắn bó với nhân dân kháng chiến đang lam lũ trong cuộc đấu tranh sinh tử. Không gian còn được mở rộng hơn để khắc họa phép đối lập tương phản của Nam Cao là lúc nhà văn đặt Độ và Hoàng đứng trước một tình thế: anh nông dân đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”. Đây là phép thử quan trọng nhằm phân biệt triệt để hai con người rất khác nhau này. Điều gì rất khác nhau? Hoàng nồng nhiệt phì ra bao nhiêu khinh bỉ cùng những triết lí tăm tối, trong lúc Độ chỉ hạ một nhận xét ngắn: “ Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ ba giai đoạn ” nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Nhận xét này vạch rõ sự khác biệt giữa hai tư duy: Hoàng thiên về cái nhìn bề ngoài nên hời hợt, bi quan, tàn nhẫn; Độ hướng cái nhìn vào bản chất, mục đích nên thông cảm, tin yêu nhân dân. Cái nhìn của Độ thể hiện một cái nhìn phát triển, từ phiến diện đến toàn diện. Độ bộc lộ chân thành: trước cũng nghi ngờ sức mạnh của quần chúng nay đã thấy những anh “răng đen mắt toét”, gọi “lựu đạn là nựu đạn” mà lúc “ra trận thì xung phong can đảm lắm”.Miêu tả quá trình chuyển hóa của Độ, ngòi bút Nam Cao tăng thêm sức mạnh chân thực, giàu thuyết phục. Độ cũng thuộc lớp văn cũ đi theo kháng chiến, kịp rũ bỏ tư tưởng lạc hậu để có được đôi mắt mới, tình cảm mới. Nhìn đời, nhìn người đúng. Độ đã biết hòa nhập đến kháng chiến, với nhân dân. Sự đối lập giữa Độ và Hoàng là sự đối lập giữa cái mới và cái cũ. Miêu tả sự đôi lập đó, tác giả Nam Cao nhằm tăng sức phê phán cái cũ, khẳng định cái mới.Những ý kiến của Lessing phần nhiều phù hợp với kinh nghiệm của nghệ thuật ngôn từ. Các nghệ sĩ lớn thời đại sau tiếp thu khi miêu tả hoàn cảnh xung quanh con người thông thường đã khắc phục tính tĩnh tại của nó một cách nghệ thuật, tác phẩm văn học cũng bớt đi sự nhàm chán. Tuy nhiên trong việc chếm lĩnh không gian nghệ thuật văn học lại có những ưu thế riêng so với điêu khắc và hội họa.Đó là việc vận dụng từ ngữ để chỉ ra các sự vật, nhà văn có khả năng chuyển dịch từ bức tranh này sang bức tranh khác một cách nhanh chóng lạ thường dễ dàng đưa người đọc vào những miền khác nhau. Sự kết hợp những bức tranh mà thực tế không thể bao quát bằng một cảm thụ thị giác mà chỉ có thể bao quát bằng sự liên tưởng thông qua hệ thống các giác quan. Như vậy các biểu tượng không gian trong các tác phẩm văn học thường mang ý nghĩa khái quát. Các nghệ sĩ ngôn từ không những gần gũi với ngôn ngữ của biểu tượng thời gian mà còn gần gũi với các biểu tượng không gian, là yếu tố chiếm vị trí thứ nhất trong vanư học.4.Các khả năng nhận thức và tính nêu vấn đề của nghệ thuật văn chương.Những khả năng nghệ thuật của lời nói: chỉ ra đặc điểm của ác nhân vật trong tác phẩm trữ tình, kịch, tự sự.tính cách nhân vật của các truyện ngắn, truyện vừa, sử thi, tiểu thuyết cũng được bộc lộ qua đối thoại và đối thoại được thốt lên thành tiếng hay nói thầm. Văn bản của tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tổng thể gồm những lời phát ngôn của những người nhất định : nhân vật, người kể chuyện, nhân vật trữ tình. Lời nói trong văn học nghệ thuật ko chỉ là một phương tiện vật liệu để xây dựng hình tượng mà còn là đối tượng quan trọng nhất để miêu tả. Do vậy nhà văn có thể khắc phục được tính không trọn vẹn và tính lược đồ của bức tranh ngôn từ tức là những tính chất gắn liền với tính phi vật thể của nó. Khắc họa những lời phát ngôn của con người, nhà văn chẳng những tác động tới trí tưởng tượng của người đọc mà còn tác động tới cảm xúc thính giác của họ : cấu trúc của lời nói nghệ thuật thế nào cũng thể hiên ngữ điệu của lời nói. Dĩ nhiên là văn học tạo dựng lên những giọng điệu của con người mặc dù người đọc chỉ cảm nhận chúng bằng một thính giác bên trong chứ không vang lên một cách vật chất. Phương diện này của nghệ thuật ngôn từ cực kì quan trọng. Văn học vừa là nghệ thuật chỉ ra các sự vật bằng lời nói vừa là nghệ thuật tái hiện bản thân hoạt động lời nói. Từ đó nảy sinh các khả năng độc đáo của văn học trong chiếm lĩnh ý thức của con người, cũng như chiếm lĩnh tồn tại xã hội và tồn tại tự nhiên bằng nghệ thuật.Lời nói gắn liền với tư duy bằng mắt xích không thể tách rời. Chức năng biểu ý của ngôn ngữ là chức năng quan trọng nhất. Bên ngoài lời nói thì tư duy con người không thể thực hiện đầy đủ.Vì vậy văn học nghệ thuật là loại hình nghệ thuật duy nhất tái tạo tư duy của con người.Đó chính là sự ưu trội của hình tượng nghệ thuật văn học so với các loại hình nghệ thuật khác.Trong các tác phẩm văn học cũng thường gặp những suy tưởng của các nhân vật hay của người trần thuật về các đề tài triết học,xã hội, đạo đức, tôn giáo, lịch sử.Các quá trình tư duy trong sự thể hiện nghệ thuật thhực chất là điểm tập trung của cuộc sống nội tâm con người, là hình thức tác động căng thẳng của họ. Các lời phát ngôn của các nhân vật hành động và nhân vật trữ tình chẳng những khắc họa tư tưởng con người như chúng vốn có mà con khắc họa cả những ấn tượng, cảm xúc có khi mơ hồ, không rõ rệt hay phi lí.về mặt này nghệ thuật ngôn từ cũng có những khả năng đặc thù phân biệt với các loại hình nghệ thuật khác.Văn học chỉ ra một cách gián tiếp những cảm thụ của con người qua cử chỉ, động tác, vận động và chỉ ra một cách trực tiếp các quá trình tâm hồn bằng những lời giãi bày của tác giả hoặc phát ngôn của bản thân các nhân vật.Tái hiện những lời phát ngôn của con người với tất cả mọi sắc thái cảm xúc, các nhà văn có thể xâm nhập vào miền sâu kín nhất của tâm hồn con người.Điều này là cơ sở cho việc đối chiếu nghệ thuật ngôn từ với các nghệ thuật biểu cảm.Nghệ thuật ngôn từ chỉ ra tình cảm con người và các xung đột ý chí đều bộc lộ với sự quy định của đời sống và ý định trực tiếp hướng ra các hiện tượng cụ thể của hiện thực. Trong nghệ thuật ngôn từ nhà thơ truyền đạt mối liên hệ giữa ý thức với thực tại và không thể khá được. Ở đây bất cứ một tình cảm nào đều là sự phản ứng của ý thức đối với các hiện tượng nhất định của hiện thực. Dù các xao động tâm hồn mà ngôn từ nghệ thuật khắc họa có mơ hồ khó nhận thấy đến đâu thì người đọc bao giờ cũng nhận cái đã gợi lên chúng hoặc ít nhất chúng gắn liền với những ấn tượng nào.Như vậy văn học đã miêu tả trực tiếp các quá trình của đời sống tâm hồn trong mối liên hệ của chúng với hiện thực xung quanh. Đồng thời nghệ thuật ngôn từ cũng tự do và táo bạo chiếm lĩnh các tình cảm và ý định thấm nhuần tư tưởng của con người: những cảm xúc và khát vọng mang tính chất thế giới quan như các nhà tâm lý học nói.Văn học cũng phản ánh thực tại sâu rộng và nhiều bình diện của những con người riêng lẻ, trước hết là phản ánh các xung đột thể hiện qua các sự kiện, hành vi, việc làm. Sự xử lí tự do với một thời gian không gian được miêu tả trong một dung lượng thực tế không bị hạn chế của văn bản nghệ thuật cho phép nhà văn tái tạo được những quá trình lớn lao có quy mô.Như vậy văn học với tư cách là một loại hình nghệ thuật có một tính vạn năng đặc biệt. Nhờ có lời nói nó có thể tái hiện bất cứ phương diện nào của hiện thực: các khả năng tạo hình của nghệ thuật ngôn từ quả thật là vô giới hạn. Văn học thể hiện chức va nhận thức của toàn bộ nghệ thuật một cách đầy đủ nhất. Hêgel gọi nghệ thuật ngôn từ là phổ quát, có khả năng giải quyết và phát biểu về bất cứ nội dung nào trong bất cứ hình thức .Theo ông văn học có thể xâm nhập vào tất cả những gì mà tinh thần chiếm lĩnh và hứng thú. Cùng tư tưởng đó Chernưshevsky phát biểu : Tất cả mọi nghệ thuật khác đều không có khả năng nói với chúng ta được một phần trăm mà những điều thơ ca nói lên.Khả năng nêu vấn đề công khai cũng là một phẩm chất vô song của văn học nghệ thuật. Các quan điểm của nhà văn được in dấu trước hết trong các hình tượng của tác phẩm đều được biểu hiện một cách trực tiếp: văn bản nghệ thuật thường kết hợp sự miêu tả chi tiết về các nhân vật, về hành động, quan hệ qua lại và thể nghiệm của chúng với những lời thuyết minh mang tính khái quát về cuộc sống, những lời phán đoán nêu vấn đề, nhờ vậy mà các quan điểm của tác giả được thể hiện hết sức cởi mở và sáng rõ.Trong tác phẩm Đôi mắt ,trước hết là bản tuyên ngôn về lập trường cách mạng, lập trường kháng chiến của lớp người văn nghệ sĩ tiểu tư sản quyết tâm từ bỏ quyền lợi ich kỉ của mình, từ bỏ những thói quen sinh hoạt cũ , từ bỏ cái nghệ thuật cho là cao siêu của mình ngày trước, sẵn sàng nói như nhà văn Độ làm một anh tuyên truyền nhãi nhép nhưng có ích cho nhân dân, cho kháng chiên.Đôi mắt xét ở phương diện khác, còn đặt vấn đề quan niệm về cái đẹp, về đối tượng của nghệ thuật mới nữa.Phải tìm cái đẹp ở đâu? Theo quan điểm nào? Nam Cao có thể chưa ý thức được đầy đủ lắm, nhưng tác phẩm tự nó đã gợi ra và bước đầu giải đáp những câu hỏi đó. Tôi nghĩ rằng không phải chỉ đến Đôi mắt Nam Cao mới đặt vấn đề “Đôi mắt”. Đúng là đến tác phẩm này nhờ giác ngộ cách mạng, ông mới đặt vấn đề ấy hoàn toàn tự giác. Nhưng qua một số truyện ông viết tự trước cách mạng T8, đã thấy ông luôn luôn băn khoăn day dứt về vấn đề ấy : phải biết nhìn người dân lao động bằng đôi mắt như thế nào mới thấy được bản chất tốt đẹp của họ, thường ẩn dấu sau một vẻ bề ngoài hết sức tầm thường, thậm chí vụng về thô lỗ nữa. Theo Nam Cao hồi ấy, đôi mắt đó phải là đôi mắt của tình thương. Trong Lão Hạc ông đã viết như thế. Ông còn lấy câu nói này để làm đề từ cho truyện ngắn khác của mình: Người chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ và nước mắt là một miếng kính biến hình vũ trụ. Đúng như thế, ở Nam Cao nước mắt của tình thương là tấm kính biến hình vũ trụ. Chính nhờ có đôi mắt yêu thương ấy mà nhà văn chẳng những nhìn thấy tấm lòng vị tha, xả hỷ của Lão Hạc …mà còn phát hiện cả chất thơ trong trẻo trong tâm hồn tưởng chừng đã hoàn toàn đen độc của Chí Phèo nữa. Nhờ thực sự có đôi mắt vơi đúng nghĩa của đôi mắt mà Nam Cao thấy được quần chúng không chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh mà còn là những con người cải tạo hoàn cảnh. Đó là những con người của thời đại mới sẽ đi vào văn học như những nhân vật trung tâm. Đôi mắt chưa xây dựng được những nhân vật ấy nhưng đã chỉ ra phương hướng đi tìm nhân vật, đã khẳng định sự xuất hiện tất yếu của những con người bình thường mà vĩ đại, ngày nay đã trở thành phổ biến trong nền văn học chúng ta.Mang dấu ấn trực tiếp của tư tưởng tác giả, nhiều tác phẩm văn học trở thành sự phân tích sâu sắc và có tính trí tuệ sắc bén mà tác phẩm của các loại hình nghệ thuật khác không thể nào đạt được. Hình thức văn học là thuận lợi nhất để biểu hiện các quan điểm của người sáng tác ra tác phẩm nghệ thuật. Các quan điểm về đạo đức, chính trị, xã hội, lịch sử, triết học, thẩm mĩ của nhà văn đều có thể biểu hiện trực tiếp cả trong thơ trữ tình lẫn trong các lời phát biểu của nhânn vật hay trong lời nói của người kể chuyện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VH6.doc