Tiểu luận Vương quốc cổ Phù Nam

Nghiên cứu lịch sử Phù Nam là một vấn đề không phải mới trong công tác nghiên cứu sử học. Tuy nhiên việc biết, hiểu và đánh giá đúng đắn về lịch sử Phù Nam nói riêng và lịch sử Phù Nam trong mối tương quan với khu vực Đông Nam Á thời cổ đại là vấn đề mà gần đây mới được đề cập đến một cách rộng rãi và thỏa đáng. Việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Phù Nam có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt:

docx29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 6340 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vương quốc cổ Phù Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 lý, có sông chảy về phía đông ra biển”. Lương thư chép cụ thể hơn: “Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam trong vịnh lớn, phía Tây của biển cách Nhật Nam có đến 7000 lý, cách Lâm Ấp ở phía Tây Nam đến hơn 3000 hải lý. Thành cách biển 500 lý (khoảng 200 km), có sông rộng 10 lý, từ Tây bắc chảy sang Đông nhập vào biển. Nước rộng hơn 3000 lý, đất trong vùng ẩm thấp nhưng bằng phẳng rộng rãi”. Lương Ninh. 2005, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 29. Căn cứ vào những chi tiết có tính chất tương đối trên, dựa vào địa ký bán đảo Đông Dương, các nhà nghiên cứu đã cơ bản thống nhất cương vực của vương quốc Phù Nam như sau: Nằm ở phía Nam bán đảo Đông Dương, phía Nam quận Nhật Nam (phần đất phía Nam của nước Nam Việt cũ) và Lâm Ấp (từ dưới Quảng Nam đổ vào). “Vịnh phía Tây biển lớn” ý nói tới vịnh Thái Lan ngày nay. “Các con sông lớn chảy từ hướng Tây đổ ra biển, con sông chảy từ mạn Tây Bắc về hướng Đông rồi đổ ra biển” tương ứng với phần hạ lưu của sông Mêkông. “Đất từ trên cao đổ xuống và rất bằng phẳng” là thế đất châu thổ. Đó cũng là hình ảnh của châu thổ sông Mêkông, bao gồm khu vực dòng chảy của các sông Hậu, sông Tiền, sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Từ thế kỷ III, Phù Nam trở thành một cường quốc ở Đông Nam Á, chinh phục các nước lân bang do đó cương vực của vương quốc còn mở rộng. Về phía đông đã kiểm soát cả vùng đất Nam Trung Bộ (giáp với Chăm pa), phía Tây đến phần lớn thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan) và cao nguyên Khorat, phía Nam đến các nước ngoài hải đảo thuộc phần đất phía Bắc bán đảo Malaisya ngày nay. Như vậy, trong thời gian thịnh trị của mình vương quốc Phù Nam đã kiểm soát một vùng tương đối rộng lớn, bao gồm cả Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. 1.2.3. Cư dân Thư tịch cổ Trung Quốc ghi chép về cư dân của vương quốc Phù Nam như sau: Tấn thư ghi: “Người đều đen đúa, xấu xí, búi tóc, thân trần đi đất, tính chất phác, thẳng thắn, không trộm cướp, theo nghề cày cấy, trồng trọt, một năm trồng thu hoạch ba năm.” Nam Tề thư cũng ghi chép như sau: “Người Phù Nam thông minh, lanh lợi và giảo quyệt, đánh phác các thành ấp lân cận, bắt dân không phục làm nô tỳ nhưng sau đó lại viết: người tính tình hiền lành, không giỏi chiến trận, thường bị nước Lâm ấp đánh phá, không thông giao được với Giao Châu”. Chu Ứng lại ghi: “Người nước đó ở trần, chỉ có phụ nữ mặc áo chiu đầu”. Cả Khang Thái và Chu Ứng (hai sứ giả của Trung Quốc) đều nói rằng: “Trông nước thật đẹp, chỉ có người hơi bẩn thỉu, thật quái lạ” Lương Ninh, 2005, Vương quốc Phù Nam. Lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, trang 27. Qua những ghi chép của thư tịch cổ ta có thể thấy sự phong phú, đa dạng trong cư dân của vương quốc Phù Nam. Đối chiếu với những thành tựu về khảo cổ học và dân tộc học, các nhà nghiên cứu cơ bản đều nhận định rằng: Cư dân Phù Nam gồm hai bộ tộc Môn Cổ và Nam Đảo. Bộ lạc Môn Cổ (Vnam, Bnam, Pnong) là bộ lạc người miền núi. Đây là cư dân nền tảng, cổ nhất, sống rải rác hầu khắp Đông Nam Á lục địa, về sau gọi là người Nam Á còn có tên gọi khác là Môn – Khơme. Bộ lạc này là người vùng núi, sống trên các thềm cao miền Nam, trải qua quá trình sinh sống họ tiến dần xuống biển và gặp người Biển – Nam Đảo Là cư dân đến sau ở miền ven biển và trên cả một phần gò núi. . Quốc gia mới lập theo thói quen gọi tên là Phù Nam. Có lẽ, họ chính là chủ nhân của nền văn hóa Đồng Nai ở thời đại kim khí. Bộ lạc thứ hai là bộ lạc Nam Đảo, sống chủ yếu ở ven biển. Trên miền Tây sông Hậu, hai bộ lạc này đã kết hợp một cách thành công hai yếu tố biển và núi, cùng nhau xây dựng một quốc gia mới, bổ sung cho nhau bằng những sở trường vốn có của tộc người mình: người Môn Cổ có khả năng chinh chiến và tổ chức xã hội, còn người Nam Đảo có khả năng khai thác biển và buôn bán với nước ngoài. Chính điều này đã tạo nên sự phát triển đỉnh cao của vương quốc Phù Nam thời cổ đại ở khu vực Đông Nam Á. 1.2.4. Kinh đô Kinh đô của quốc gia cổ Phù Nam cũng là vấn đề được nghiên cứu, tìm tòi rất công phu căn cứ vào những phát hiện khảo cổ học và thư tịch cổ Trung Quốc. Những kết quả của các công trình nghiên cứu gần đây nhất đã chứng tỏ, kinh đô của vương quốc Phù Nam nằm ở Angkor Borei. Người đầu tiên, đưa ra quan điểm cho rằng Angkor Borei là kinh đô của Phù Nam là Pelliot trong công trình Nước Phù Nam (1903). Tuy nhiên, ông chưa đưa được chứng cứ nào thực sự thuyết phục mà chỉ nêu ra như một giả thiết. Người thứ hai xác nhận đó là P. Dupont (1955) và đến L.Malleret thì được chứng minh bằng một hiện vật khảo cổ. Một nhà Sử học có tên là G.Coedes đã đưa ra những minh chứng cho rằng kinh đô của Phù Nam là Ba Phnom. Tuy nhiên, những minh chứng ông đưa ra lại rất phù hợp và vô tình đã chứng minh cho giả thiết Angkor Borei chính là kinh đô của vương quốc cổ Phù Nam. Kinh đô Angkor Borei được xác định như sau: - Có một con sông lớn chảy từ hướng Tây – Bắc về phía Đông và đổ ra biển. Đây là điều hiển nhiên và dễ hiểu đó là sông Mêkông chia làm hai nhánh đổ ra biển Đông, là sông Tiền (ở cửa Đại) và sông Hậu (ở cửa Định An) và một số cửa khác. - Kinh đô cách biển 500 lí (200km). Angkor Borei cách Châu Đốc 30km và theo sông Hậu ra cửa Định An vừa đúng 250km. - Phong tục ở đây là xây thành phố có tường thành bao quanh, xây cung điện và nhà ở. Điều này được thể hiện tương đối rõ ràng qua những chứng cứ khảo cổ khai quật được ở khu vực Angkor Borei. Angkor Borei thực chất là phiên âm từ tên cổ trước kia là Nagara Pura nghĩa là Đô thành Quốc gia. Từ này được Khmer hóa, tưởng là một từ Khmer nhưng thực chất là chuyển âm của một từ Phạn, gọi từ thời Phù Nam. Angkor Borei ngày nay thuộc địa phận huyện Kirivông, tỉnh Takeo, nay đổi tên thành tỉnh Kirivông – Campuchia. CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ SUY VONG CỦA VƯƠNG QUỐC CỔ PHÙ NAM Vương quốc Phù Nam ra đời từ thế kỉ I sau CN, tồn tại và phát triển trong gần 7 thế kỉ, đến thế kỉ VII thì suy vong. Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của vương quốc Phù Nam được chia làm ba giai đoạn sau: Giai đoạn 1 – giai đoạn sơ kì: từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ thứ III Giai đoạn 2 – giai đoạn phát triển: từ đầu thế kỉ III đến đầu thế kỉ VI Giai đoạn 3 – giai đoạn suy vong: nửa đầu thế kỉ VI đến đầu thế kỉ VII 2.1. Vương quốc cổ Phù Nam giai đoạn sơ kì (đầu thế kỉ I – đầu thế kỉ III) Đây là thời kỳ đầu tiên lập quốc nên luôn phải đối phó với tình trạng phân chia cát cứ. Khi Liễu Diệp kết hôn với Hỗn Điền đã sinh được 7 người con trai, phân cho đi cai trị làm vua 7 ấp. Hỗn Bàn Huống lên làm vua cũng lập kế li gián 7 ấp, “nhân đó cử binh đi đánh chiếm, rồi cho con cháu phân chia cai trị các ấp, hiệu là tiểu vương”. Đây được coi là thời kỳ khắc phục tình trạng phân chia cắt cứ và thành lập một quốc gia thống nhất. Vào thời kì này, kinh đô của vương quốc Phù Nam cũng được xác lập. 2.2. Vương quốc cổ Phù Nam thời kỳ phát triển (đầu thế kỉ III đến đầu thế kỉ VI) Đây là giai đoạn phát triển của vương quốc Phù Nam khi Phù Nam đặt đến mức cường thịnh, trở thành một đế quốc ở khu vực Đông Nam Á. Thời kỳ phát triển cường thịnh của Phù Nam thể hiện qua hai khía cạnh sau: thứ nhất, Phù Nam đã dùng quân đội để chinh phục các nước ở phía Tây; thứ hai, Phù Nam đã mở rộng quan hệ với các nước khác nhau trong khu vực châu Á đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. 2.2.1. Phù Nam dùng quân đội để chinh phục các nước ở phía Tây Thời kỳ này, Phù Nam được đánh giá là một đế quốc của khu vực. Bắt đầu từ đời vua Phạm Sư Man (225 - 230), cương vực của Phù Nam đã mở rộng sau những cuộc chiến tranh thôn tính. Ông đã cho đóng thuyền to, vượt biển lớn chinh phục hơn 10 nước ở phía Tây gần Ấn Độ. Trong số 10 nước này có nhắc tới các nước như Xích Thổ, Đốn Tốn. Đốn Tốn nằm trên hạ lưu sông Chao Praya và phần phía Bắc bán đảo Malay. Đây là khu vực chắn ngang đường biển từ Ấn Độ tới biển Đông, nơi họp chợ thế giới. Do chiếm được các nước này nên Phù Nam đã nhanh chóng nắm được quyền chi phối, cai quản việc giao lưu, buôn bán Đông - Tây, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mậu dịch hàng hải của Phù Nam. Chính vì vậy, Phù Nam sớm trở thành một khu vực buôn bán lớn ở Đông Nam Á thời cổ đại. 2.2.2. Phù Nam đã đặt quan hệ bang giao, hòa hảo với các quốc gia lớn ở khu vực Đông Nam Á Nếu như Phạm Sư Man là ông vua có công lớn trong việc mở rộng lãnh thổ, thì Phạm Chiên (230 - 250) lại có công rất lớn trong việc thiết lập các quan hệ bang giao hòa hảo với các quốc gia lớn. Phạm Chiên đã cho sứ giả đến Ấn Độ, thiết lập quan hệ với Vương triều Cusana ở lưu vực sông Hằng. Giao lưu văn hóa là lĩnh vực chủ đạo trong quan hệ của Phù Nam và Ấn Độ trong thời gian thịnh trị của vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, Phù Nam cũng đóng vai trò quan trọng trong giao lưu thương mại của Ấn Độ và đóng vai trò là trung gian trong quan hệ thương mại giữa Ấn Độ với Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, trong thời gian tồn tại của mình, vương quốc Phù Nam có hai vua là người Ấn Độ đến cai trị, chứng tỏ quan hệ tốt đẹp và sự tương đồng tương đối lớn giữa văn hóa của hai vương quốc này. Đối với Trung Quốc, quan hệ được thể hiện ở 3 điểm: một là, quan hệ thần phục và triều cống; hai là, quan hệ thương mại, giao lưu, buôn bán; ba là, quan hệ giao lưu văn hóa. Năm 243, dưới thời Tam Quốc, Phạm Chiên đã phái sứ bộ qua triều đình Đông Ngô để đặt quan hệ ngoại giao. Khoảng năm 245 – 250, dưới thời Tôn Quyền, triều đình nhà Đông Ngô lại phái Khang Thái và Chu Ứng đến Phù Nam. Quan hệ giao lưu văn hóa qua lại, đặc biệt là tôn giáo giữa Ấn Độ, Trung Quốc và Phù Nam được duy trì ngay cả khi Phù Nam đã khủng hoảng. Sử chép: khoảng năm 535 – 545, triều đình nhà Lương cử một phái bộ đến Phù Nam xin nhà vua cho sưu tầm kinh phật và thỉnh cầu các cao tăng sang giảng dạy Phật pháp ở Trung Quốc. Nhân dịp này, vua Phù Nam cũng phái hòa thượng Ấn Độ là Paramarth đang hành đạo ở Phù Nam mang theo 240 bộ kinh sách đến triều đình Trung Hoa. Bên cạnh đó, Phù Nam còn giữ được quan hệ tương đối hòa bình và thân thiện với vương quốc cổ Champa đang trong giai đoạn sưo kỳ hình thành. 2.3. Vương quốc Phù Nam thời kỳ suy vong (từ nửa đầu thế kỷ VI đến đầu thế kỷ VII) 2.3.1. Sự suy yếu của vương quốc Phù Nam Năm 514, vua Jayavacman I mất, người kế vị thay ông lấy hiệu là Rudravaman lên ngôi sau khi đã giết chết anh trai mình là thái tử Gunavarman. Năm 550, một người thuộc phe Thái tử Gunavarman đã chiếm kinh đô và lên ngôi vua. Nhân cơ hội này, Bhavavarman (cháu của Rudravânm đã cưới con gái vua Chân Lạp và trở thành vua mới của nước này) đã tiến đánh và chiếm kinh đô. Vua Phù Nam phải chạy xuống phía nam lập triều đình tại Naravaragara (Na Phất Na). Tuy vậy, triều đình Phù Nam vẫn còn chống giữ được cho đến năm 627 mới bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong thời gian này Phù Nam có cầu cứu Trung Hoa đánh Chân Lạp nhưng không được chấp thuận. Như vậy, Chân Lạp vốn là một tiểu vùng của Phù Nam đã thôn tính cả Phù Nam và thiết lập một đế quốc tương đối hùng mạnh trên chính địa bàn của vương quốc Phù Nam. 2.3.2. Nguyên nhân suy yếu của vương quốc Phù Nam Năm 649, sử nhà Đường không thấy ghi chép về lịch sử Phù Nam nữa mà thay đó là ghi nhận sự xuất hiện của một vương quốc mới đó là vương quốc Thủy Chân lạp. Có thể lý giải một số nguyên nhân dẫn đến sự suy vong và hoàn toàn mất trong lịch sử của vương quốc Phù Nam như sau: 2.3.2.1. Nguyên nhân chủ quan Về kinh tế, việc thay đổi con đường buôn bán Đông – Tây dẫn đến sự suy giảm về kinh tế mậu dịch hang hải, kéo theo đó là cảng thị Óc Eo cũng mất đi vai trò là trạm trung chuyển, nơi neo đậu của tàu thuyền. Trước thế kỷ VI, do hạn chế về kỹ thuật hàng hải do đó con đường buôn bán trên biển được các thương nhân chú ý đó là men theo tuyến đường ven biển từ Nam Âu qua Trung Cận Đông đến Nam Ấn vào Vịnh Bengan, rồi đến Eo Kra (bán đảo Mã Lai) tiến vào phía Tây vịnh Thái Lan rồi đến các cảng của Phù Nam, Đông Nam Á và đến Trung Quốc. Như vậy, Phù Nam với những lợi thế của mình về vị trí địa lý đặc biệt là trong thời kỳ phát triển thịnh đạt đã đóng vai trò là ngã ba giao lưu buôn bán Đông – Tây. Tuy nhiên, khi kỹ thuật hang hải phát triển kéo theo sự thay đổi của hệ thống giao thông đường thủy quốc tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến Phù Nam. Chính sự thay đổi của tuyến đường này đã làm mất vai trò trung tâm thương mại của cảng thị Óc Eo; đồng thời các tiểu quốc phụ thuộc khác của Phù Nam cũng đặt quan hệ trực tiếp với Trung Quốc thay cho thông qua Phù Nam trước kia. Tóm lại, có thế khẳng định, sự suy giảm của kinh tế thương mại đường biển đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng về tiềm lực kinh tế của vương quốc Phù Nam. Về chính trị, Phù Nam ngay từ lúc đầu thành lập và cả khi trở thành một đế quốc hùng mạnh vẫn chỉ là tập hợp của những tiểu quốc phụ thuộc. Những tiểu quốc này có quan hệ hết sức lỏng lẻo với nhau. Do đó, nguy cơ cắt cứ là rất lớn. Đồng thời, khi chính quyền trung ương suy yếu, việc nổi dậy thâu tóm quyền lợi của một thế lực mới mạnh lên là việc tất yếu xảy ra. Bên cạnh đó là những mâu thuẫn nội bộ trong nội bộ triều đình cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức mạnh của vương triều Phù Nam. Có thể ví dụ trường hợp, rất nhiều ông vua của Phù Nam lên ngôi bằng việc giết người kế vị của vua trước để giành ngôi. Ví dụ: Phạm Chiên giết Phạm Kinh Sinh – người kế vị của Phạm Sư Man; Phạm Tràng – con út của Phạm Sư Man đã giết Phạm Chiên để giành ngôi; Phạm Tầm là tướng của Phạm Chiên lại sát hại Phạm Tràng để lên ngôi; hay như việc Rudravaman giết em trại mình đã tạo điều kiện để vua mới của Chân Lạp lợi dụng tình hình triều đình Phù Nam lục đục để tấn công, chiếm kinh đô Phù Nam. 2.3.2.2. Nguyên nhân khách quan Tác động khách quan quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự suy vong của Phù Nam có lẽ là do cuộc tấn công của Chân Lạp. Chân Lạp vốn là một bộ lạc người Môn Cổ, sinh sống chủ yếu ở hạ lưu sông Xê Mun, thần phục Phù Nam từ thế kỷ thứ III. Trong thế kỷ VI, Chân Lạp đã vươn lên chinh phục các bộ lạc xung quanh trên lưu vực sông Xê Mun. Sự suy yếu của Phù Nam đã tạo điều kiện cho Chân Lạp từ thế kỷ VI đã mở rộng ảnh hưởng về phía Đông Nam và từng bước thay thế hoạt động kinh tế thương mại của Phù Nam trong khu vực Đông Nam Á. Cuộc tấn công Phù Nam từ năm 550 của Chân Lạp đã tàn phá Phù Nam. Bên cạnh đó, do suy yếu về hoạt động kinh tế thương nghiệp, Phù Nam đã chuyển sang chú trọng hoạt động kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp, xây dựng các công trình, hệ thống thủy nông. Trong cuộc tấn công của mình, Chân Lạp đã tiếp tục tàn phá những cơ sở kinh tế cuối cùng của Phù Nam là hệ thống thủy nông. Chính vì vậy, Phù Nam đã trở thành một bộ phận của Chân Lạp, thuộc Thủy Chân Lạp song Phù Nam không được quan tâm phát triển về kinh tế như các khu vực khác của Chân Lạp. Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến cho rằng chính mối liên hệ giữa vương triều Gúpta và vương quốc Phù Nam có thể là nguyên nhân khác quan của sự suy yếu của vương quốc này. Tuy nhiên, đây chỉ là một giả thiết mà chưa có chứng cứ để minh chứng. Bên cạnh sự tấn công của Chân Lạp, sự thay đổi về địa chất cũng là nguyên nhân dẫn tới sự suy vong của thương cảng Óc Eo và vương quốc Phù Nam. Trên cơ sở các tài liệu khoa học, các nhà khoa học đã chứng minh rằng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là kết quả của quá trình biển tiến, biển lùi. Ở thế kỷ VII, giai đoạn địa chất Halocen muộn đã diễn ra một đợt biển tiến quy mô nhỏ ở đồng bằng sông Cửu Long với mực nước trung bình 0,8m. Chính đợt nước này có thể kết hợp với cuộc tấn công của Chân Lạp đã liên tiếp vùi dập những thành tựu cả về vật chất lẫn tinh thần của vương quốc Phù Nam. Các nhà địa chất đã tính toán rằng hàng năm sông Mêkông đổ ra biển từ 500 – 1200triệu m3 phù sa và có thể ở khoảng thế kỉ VII, Óc Eo đã bị một trận thiên tai do phù sa đổ sụp xuống. Đây có thể là nguyên nhân dân tới sự chôn vùi lãnh thổ của đế quốc Phù Nam. Về nguyên nhân suy vong của đế quốc Phù Nam, bài Phế đô của vương quốc Phù Nam, đã đăng trên báo Tuổi Trẻ nêu ba giả thuyết: Thứ nhất: do thiên tai (một trận hồng thủy). Nhưng theo nhiều nhà khoa học thế giới thì kỷ tan rã băng hà cuối cùng cách đây ít ra cũng đã 8.000 năm. Những trận động đất hay những cơn sóng thần cục bộ như xảy ra ở Nam Á vừa rồi khó có khả năng xóa được cả một vương quốc như Phù Nam. Thứ hai: do đại dịch bệnh. Nhưng qua các cuộc khai quật, thì thấy những bộ hài cốt cổ, không có dấu hiệu bị nhiễm dịch bệnh và đều được táng đàng hoàng trong mộ. Thứ ba: do những cuộc ngoại xâm tàn sát. Và nghi vấn ngoại ban ấy chính là người Java (Mã Lai). Nhưng thư tịch cổ không thấy ghi như thế và cũng chưa tìm được chứng cứ để xác định... Phế đô của vương quốc Phù Nam, vietbao.vn, ngày 2/9/2005 Như vậy, sự sụp đổ và suy vong của vương quốc Phù Nam đến hiện nay vẫn còn là một bí ẩn, cần được khoa học chứng minh. CHƯƠNG 3: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ VĂN HÓA CỦA VƯƠNG QUỐC CỔ PHÙ NAM 3.1. Tình hình chính trị 3.1.1. Phả hệ của vương triều Phù Nam Dựa vào thư tịch cổ Trung Hoa và các tài liệu khảo cổ học, GS Lương Ninh đã đưa ra phổ hệ 13 đời vua Phù Nam, cai trị trong khoảng 6 thế kỷ: 1. Hỗn Điền 2. Con 3. Hỗn Bàn Huống (con?) sống đến 90 tuổi 4. Hỗn Bàn Bàn – con thứ của Hỗn Bàn Huống, làm vua 3 năm 5. Phạm Man (Phạm Sư Man) tướng của Hỗn Bàn Huống, làm vua từ 225 đến 230, người đã có công chinh phục nhiều xứ lân bang. 6. Phạm Chiên, trị vì từ năm 230 đến 250, là con chị gái của Phạm Man, lại là tướng, đang thay Phạm Sự Man cầm quân đánh trận xa; Sư Man ốm, chết đột ngột; con trai Là Phạm Kinh Sinh lên kế ngôi. Phạm Chiên không bằng lòng, đã giết hại Sinh để lên ngôi. 7. Phạm Tràng, là con út của Phạm Sư Man, lớn lên khoảng 20 tuổi thì giết Phạm Chiên, giành lại ngôi vua nhưng chỉ ở ngôi được ít ngày. 8. Phạm Tầm, là tướng của Phạm Chiên, ngay lập tức sát hại Phạm Tràng, lên ngôi vua. Phạm Tầm ở ngôi khoảng từ năm 250 đến 290. 9. (Thiên) Trúc Chiên Đàn,vua mới, gốc Ấn Độ 10. Kiều Trần Như (Kaundinaya) vốn là người Bàlamôn Ấn Độ sang làm vua Phù Nam. 11. Trì Lê Đà Bạt Ma (Sri…dravarman) 12. Đồ Da Bạt Ma (Jayavarman) 13. Lưu Đà Bạt Ma (Rudravarman), là con thứ phi, giết con chính cung nhỏ tuổi hơn để lên làm vua say khi Jayavarman qua đời vào năm 514. Căn cứ vào phả hệ của các vua Phù Nam người viết xin rút ra một số nhận xét như sau về chính trị của Phù Nam: - Có rất nhiều các ý kiến cho rằng, vương quốc Phù Nam tồn tại với 18 hoặc 19 đời vua, song các đời vua Phù Nam từ sau khi quân Chân Lạp tấn công năm 550 đến 627 không được ghi chép lại nên không xác định được các đời vua còn lại, sau Rudravarman. - Tính bất ổn là điều dễ nhận thấy trong nội bộ vương triều Phù Nam. Ngoài bốn đời vua đầu có sự truyền ngôi từ đời cha sang đời con, thì các triều vua tiếp theo hầu hết đều lên ngôi dựa trên việt giết hại các vua đương nhiệm hoặc cướp ngôi của người được kế nhiệm. Điều này tạo ra sự rối loạn nhất thời trong chính trị của Phù Nam. Khi Phù Nam suy yếu về vai trò thương nghiệp thì sự bất ổn về chính trị vô hình chung đã giảm sức mạnh của quốc gia trước sự tấn công của Chân Lạp. - Trong thời gian tồn tại, liên tiếp đời vua thứ 9 và thứ 10 của Chân Lạp là các ông vua gốc là người Ấn Độ. Đặc biệt, việc Trúc Chiêu Đàn lên ngôi sau một loạt các cuộc tàn sát lẫn nhau của các ông vua trước đó thể hiện nhu cầu cần ổn định chính trị của vương quốc Phù Nam khi trở nên hùng mạnh ở Đông Nam Á (nửa cuối thế kỷ IV). Ngoài ra, việc một người có nguồn gốc Ấn Độ lên làm vua còn chứng tỏ tính cởi mở trong nền chính trị và văn hóa của Phù Nam. Có thể việc lên ngôi của các ông vua người Ấn Độ này là do người Ấn Độ thành thạo trong việc quản lý chính quyền, am hiểu nguồn và đường buôn bán Đông – Tây. Những điều này đã đáp ứng nhu cầu thực tiễn lúc bấy giờ của Phù Nam. Việc này không làm gián đoạn sự phát triển và truyền thống của Phù Nam mà còn làm tăng tính độc đáo và linh hoạt của vương quyền – một nét độc đáo không thấy ở bất kỳ quốc gia Đông Nam Á cổ đại nào. 3.1.2. Bộ máy nhà nước Có rất nhiều các ý kiến khác nhau về bộ máy nhà nước của vương quốc Phù Nam, nhưng nhiều quan điểm cho rằng bộ máy nhà nước của Phù Nam được tổ chức theo mô hình mandala – một đặc trưng của mô hình chính trị ở các quốc gia Đông Nam Á cổ đại. “Mandala” là mô hình chính trị Đông Nam Á theo quan điểm của Oliver W. Wolters (GS. Đại học Cornell, Mỹ). Mandala dùng để chỉ tình trạng chính trị riêng biệt và thường không bền vững, trên phạm vi địa lí xác định một cách mơ hồ, không có biên giới định rõ, trong đó, các trung tâm nhỏ có xu hướng tìm sự an toàn ở khắp mọi hướng. Mỗi mandala gồm một số tiểu thủ lĩnh phụ thuộc, một số có thể từ bỏ quy tắc phụ thuộc khi có thời cơ và cố gắng tạo lập một hệ thống của mình. Chỉ có Mandala tôn chủ mới có quyền nhận cống nạp và cử đại diện của mình để thể hiện vị trí tôn chủ bề trên. GS Lương Ninh cho rằng ở giai ñoạn sơ kỳ, có thể tổ chức bộ máy Phù Nam còn lỏng lẻo, phân tán, chưa ổn định, nhưng sau đó, chính quyền được củng cố lại như một quy luật lịch sử. Như vậy, có thể thấy bộ máy nhà nước của Phù Nam được tổ chức theo mô hình quân chủ trong đó vua là người đứng đầu. Vua Phù Nam tự xưng là Hoàng đế vũ trụ (Parvatabhupâla), không chỉ cai quản lãnh thổ của mình mà cai quản cả lãnh thổ đã xâm chiếm được. Tuy nhiên, đây không phải là một nhà nước có tổ chức thống nhất mà chỉ là tập hợp của các tiểu quốc trong đó mỗi tiểu quốc vẫn giữ nguyên tên gọi, tổ chức và truyền thống của mình. Các tiểu quốc này về danh nghĩa chịu sự cai quản của vua Phù Nam nhưng quyền cai trị trực tiếp vẫn là của tiểu vương, thực hiện nghĩa vụ chư hầu đối với vua Phù Nam thông qua việc cống nạp. Nhà vua mặc áo dài có thắt lưng vàng, đeo chuỗi ngọc, đội mũ cao, thường thì màu trắng gồm nhiều lớp, đeo kiếm vàng. Triều đình họp ngay trên lầu. Nhà vua cũng sử dụng nô lệ để hầu hạ. Như vậy, tổ chức bộ máy nhà nước của Phù Nam giống như chế độ phân tán quyền lực của vua ở Tây Âu, tính chất chuyên chế không cao. 3.1.3. Quân đội và luật pháp Quân đội Phù Nam rất giỏi về chinh chiến, khí giới thông dụng gồm có: kiếm, lao, cung, nỏ và khiên. Pháp luật của Phù Nam thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền và thần quyền. Đạo Bàlamôn được sử dụng làm công cụ hữu hiệu hóa uy quyền của nhà vua. Thư tịch cổ có chép lại như sau: “Trong nước không có nhà tù. Phạm nhân thoạt tiên phải nhịn ăn 3 ngày, sau đó phải cầm trong tay một lưỡi rìu hay một xích sắt nung đỏ và bước đi 7 bước. Hoặc người ta thả vào nồi nước sôi những chiếc vòng vàng hay những quả trứng gà và phạm nhân phải dùng tay nhúng vào để lấy ra. Nếu có tội thì tay sẽ bị bỏng, nếu vô tội thì bàn tay không sao cả. Hoặc người ta nuôi cá sấu trong những hào thành hay những thú dữ khác trong một khoảng được vây kín. Phạm nhân bị ném vào hầm thú dữ hay hào cá sấu. Nếu không bị mãnh thú ăn thịt thì đương sự được xem là vô tội và sau ba ngày thì được phóng thích. Hoặc người ta dìm phạm nhân xuống nước, người vô tội không bị chìm, kẻ có tội thì bị chìm sâu”. Dẫn theo “Nam Tề thư và Lương Thư”, Theo Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải: Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, Nxb Trẻ, Tp HCM, trang 294. Một cách điều tra phạm tội được ghi lại như sau: “Khi trong nhà một người Phù Nam bị mất cắp, người ta lấy một hũ cơm, mang đến khấn thần linh chỉ tên ăn trộm. Hũ cơm được đặt dưới chân tượng thần. Sáng hôm sau, chủ nhà lấy hũ cơm đó về và gọi gia nhân ra, chia cơm ấy cho họ ăn. Nếu là kẻ gian thì miệng chảy máu, không nuốt được cơm, trái lại, người vô tội sẽ ăn được cơm ngay” Dẫn theo “Nam Tề thư và Lương Thư”, Theo Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải: Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, Nxb Trẻ, Tp HCM, trang 294. . Như vậy, có thể nói những tư tưởng công bằng và luật của Phù Nam còn rất thô sơ, chưa có hệ thống pháp lý, chịu ảnh hưởng sâu sắc của luật pháp Ấn Độ và mang nặng tính chất tôn giáo. 3.2. Tình hình kinh tế 3.2.1. Nông nghiệp Vương quốc Phù Nam nằm trên vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, đất đai vốn là đầm lầy nên rất màu mỡ, lại nằm trên lưu vực các con sông lớn (trung và hạ lưu sông Mêkông) nên được phù sa bồi đắp thường xuyên. Đây là những điều kiện thuận lợi để Phù Nam có thể phát triển kinh tế nông nghiệp. Phù Nam kí cho biết: “Cư dân Phù Nam làm ruộng theo lối cổ, gieo giống một năm gặt hái luôn ba năm”. Tác giả Nguyễn Xuân Hiển khi trình bày về Nghề trồng lúa cổ ở Óc Eo trong Văn hóa Óc Eo và văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long có xác nhận: “Bằng chứng khảo cổ học càng khẳng định truyền thống và tính đa dạng của hoạt động trồng lúa. Những di chỉ khảo cổ học ở miền Đông đồng bằng Nam Bộ như Lộc Chánh, An Sơn (Đức Hòa, Long An), Rạch Núi (Cần Giuộc, Long An)… Bình Tả (Đức Hòa, Long An) và miền Tây đồng bằng như Nền Chùa (Kiên Giang), Đồng Tháp… cho những chứng cứ không thể rõ ràng hơn về hoạt động trồng lúa vào những niên đại khá sớm – thuộc thời đại đồng thau” Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sĩ Khải: Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến 938), tập 2, Nxb Trẻ, Tp HCM, trang 296. . Các nhà nông học đã chứng minh có một loại lúa nổi, dạng hạt thon thuộc loại lúa của cư dân văn hóa Nền Chùa (Rạch Giá, Kiên Giang) “lúa nổi được trồng ở thượng châu thổ, nơi ngập nước sâu nhiều tháng trong năm. Các giống lúa nổi có khả nằng chịu đựng được tình trạng ngập sâu, tăng trưởng rất nhanh… ít phải chăm bón nhưng năng suất thấp” Lương Ninh, 2005, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hóa, trang 126 . Tuy nhiên, do diện tích canh tác rộng nên cư dân Phù Nam không thiếu lương thực. Bên cạnh đó, những minh chứng khảo cổ còn cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thủy lợi ở vương quốc Phù Nam. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích khoảng 30 “đường nước cổ” là các kênh đào ngang dọc ở vùng tứ giác Long Xuyên. Đặc biệt là con kênh dài khoảng 80km chạy từ Angkor Borei, theo hướng Đông Nam đến rang giới tỉnh Kiên Giang. Các kênh đào này được coi là thành quả nhân tạo đầu tiên về lịch trình mở mang kênh đào ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Hệ thống kênh đào này tiện lợi cho giao thông đường thủy đồng thời là hệ thống thủy lợi thoát nước trong mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long, đóng vai vô cùng quan trọng đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp Phù Nam. Từ đây có thể khẳng định, nông nghiệp trồng lúa cổ Óc Eo thuộc dạng trồng lúa đầm lầy, đã sử dụng hệ thống kêng rạch để hỗ trợ cho lúa. Bên cạnh đó, các bằng chứng khảo cổ còn cho thấy sự giao lưu kinh tế trong nông nghiệp của Phù Nam với Ấn Độ. Trong sách Con đường lúa gạo Watabe còn cung cấp một bằng chứng quan trọng: “Trong gạch mộc ở Óc Eo có chứa vỏ trấu hạt dài (…). Loại lúa hạt dài có tên gọi là lúa tiên, thuộc hệ Bengal, được du nhập từ Ấn Độ đến vào khoảng những thế kỷ đầu Công Nguyên”. Qua đây có thể thấy sự phong phú trong hoạt động kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước của cư dân Phù Nam cổ. Về cơ bản chúng ta có thế đoán định được: nền nông nghiệp của cư dân Phù Nam cổ có nhiều điểm tương đồng với nghề nông trồng lúa nước ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Bên cạnh kinh tế trồng lúa nước, cư dân Phù Nam còn trồng cây ăn quả và thuần dưỡng gia sức, gia cầm. Năm 1982, tìm thấy tại di tích Nền Chùa một số loại trái cây cổ đường kính 1 - 2 cm ở dưới chân cọc gỗ nhà sàn. Dưới những hố khai quật ở Óc Eo đã tìm thấy nhiều di cốt của vật nuôi như chó, heo, gà... Trong những hình khắc trên vật dụng và trang sức bằng gốm, đồng và vàng có hình voi được đóng bành trên lưng cho thấy cư dân Phù Nam cổ đã biết thuần dưỡng các loại súc vật lớn làm phương tiện đi lại và công cụ vận chuyển. Điều này chứng tỏ trình độ nông nghiệp phát triển cao của cư dân ở đây. Việc này thư tịch cổ Trung Quốc cũng ghi: “Họ (Phù Nam) có 5.000 voi chiến (…) (thời) Trúc Chiên Đàn (vua Phù Nam) xưng vua, sai sứ sang cống voi đã thuần dưỡng” (Tân Đường Thư). Những minh chứng trên đây chứng tỏ hoạt động nông nghiệp phong phú, đạt tới trình độ tương đối cao của cư dân cổ Phù Nam. 3.2.2. Thủ công nghiệp Thủ công nghiệp của Phù Nam đã đạt đến trình độ phát triển cao. Thư tịch cổ Trung Quốc có ghi chép lại: “Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo”. Tề thư cũng chép: “Người Phù Nam đúc nhẫn và vòng bạc bằng vàng, chén đĩa bằng bạc”. Qua nghiên cứu sự phát triển của thủ công nghiệp Phù Nam dễ nhận thấy hai đặc điểm sau: Thứ nhất, sự phong phú và đa dạng của các nghề thủ công Nghề mộc (cột nhà và sàn nhà, lan can, giá đèn bằng gỗ), nghề đá (đá xây dựng, bàn nghiền, cối, chày), nghề tạc tượng (đá và gỗ), nghề làm gạch và vật liệu trang trí, nghề xây dựng (đền đài, mộ táng), nghề đóng thuyền (theo sử liệu và di vật thuyền), nghề gốm (công cụ chế tác như bàn xoa, bàn dập hoa văn, trục bàn xoay, giá nung gốm, những dụng cụ bằng gốm nhiều loại, nhiều cỡ), nghề luyện kim gồm các chuyên nghề chế tác đồ đồng (thoi, lá, dây đồng, tượng thần, tượng người, tượng thú, giá đèn, chuông nhạc, đồ trang sức, đồ trang trí, dồ đựng), nghề chế tác sắt (quặng sắt, khuôn luyện sắt, xích đục), nghề chế tác thiếc (tượng người, tượng thú, bùa đeo, đồ trang sức, đồng tiền), nghề kim hoàn (đá thử quý kim, búa, dùi, rất nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý, thuỷ tinh…) Thứ hai, sự phát triển ở trình độ cao của một số nghề thủ công. Phát triển nhất là nghề làm gốm. Theo kết quả khảo cổ của nhà nghiên cứu khảo cổ người Pháp L.Mallaret thì có thể xây dựng được các tiêu chí gốm của Phù Nam như sau: Xương gốm có hai loại: mịn, có màu xám trắng và thô; có màu xám thẫm hoặc gần đen. Loại mịn mỏng hơn khoảng 5mm; loại thô dày hơn khoảng 10mm. Áo gốm có hai màu chính: vàng nhạt và vàng thẫm, ngả hồng, riêng màu xám dùng cho xương gốm xám thẫm và đen. Hầu như gốm Phù Nam đều có một lớp áo dày dặn, không có gốm mộc. Hoa văn trên gốm Phù Nam đặc biệt phong phú. L. Malleret đưa ra một bảng gồm 101 mẫu hoa văn khác nhau. Hình vật gốm mới thực sự tạo nên đặc trưng riêng của gốm Phù Nam. Cư dân Phù Nam đã làm đủ các vật dụng phục vụ cho yêu cầu sinh hoạt của đời sống hàng ngày như bình, vò, ấm, tô, đĩa, chai, bàn bếp gắn đầu rau với nhiều chi tiết đặc biệt. Nhiều gốm tìm thấy đã bị vỡ nhưng còn những nắp hình đĩa có lỗ trũng, vòi có nhẫn và u đầu rau của bếp, nhỏ, đặc sắc, chắc, già lửa, ít bị vỡ, làm thành đặc trưng độc đáo, riêng biệt của gốm Phù Nam, đạt trình độ cao. Có được điều này là do cư dân Phù Nam đã kế thừa được những thành tựu của làm gốm của cư dân văn hóa Đồng Nai. Mặt khác, do vương quốc Phù Nam chủ yếu ở ven sông lớn và biển do đó đồ gốm ở đây không những phải đáp ứng yêu cầu đời sống hàng ngày của nhân dân mà còn phải phủ hợp với điều kiện tự nhiên mới có thể sử dụng được. Nghề luyện kim bản địa cũng đạt trình độ phát triển khá cao: luyện sắt, đồng, thiếc đều phát triển với những vật phẩm như thoi đồng, thoi thiếc, tượng vật, giá đèn, chuông, nhạc cụ, đồ trang sức, đồ trang trí, con dấu, tiền... Nghề kim hoàn ở Phù Nam cũng phát triển. Sử chép: Dân Phù Nam thích chạm trổ trên vàng lá. Họ đúc chén bằng đĩa bạc, nhẫn vòng tay bằng vàng; mặt nhẫn, hạt chuỗi bằng kim cương, đá quý, thủy tinh… Người Phù Nam thường dùng vàng, bạc, châu ngọc làm đồ cống nạp và nộp thuế. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy khá nhiều mảnh lá vàng ở các ngôi đền: lá vàng mỏng, hình tròn, vuông hay hình chữ nhật, chạm khắc hình các thần chim, trâu, ốc, hao sen, voi, hươu, ngựa, rùa, rắn, cá, bánh xe… Các hình chạm nhiều khi thô, vụng không phải được tạo nên từ những bàn tay khéo léo, nhưng bên cạnh đó cũng có những mảnh được làm rất công phu, theo phương pháp gò, dập, nổi… 3.3. Thương nghiệp Thương nghiệp ở vương quốc Phù Nam đặc biệt phát triển. Thậm chí, trong bộ phận cư dân Phù Nam còn có một bộ phận chuyên làm nghề buôn bán. Nguyên nhân cơ bản là do vị trí địa lý vô cùng thuận lợi của Phù Nam trong hệ thống thương mại thế giới Đông – Tây thời cổ đại. Bên cạnh đó, kỹ thuật đóng tàu Phù Nam đặc biệt phát triển và sự phong phú đa dạng của hàng hóa thủ công nghiệp cũng tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của thương nghiệp Phù Nam. Sự phát triển của thương nghiệp Phù Nam có thể minh chứng qua những vấn đề sau: Thứ nhất, kỹ thuật đóng tàu của cư dân Phù Nam đã phát triển ở trình độ cao. Theo ghi chép của những sứ bộ Trung Hoa đến Phù Nam thì Phù Nam đã có những chiếc thuyền tương đối lớn mà không thấy có ở Trung Quốc hay Ấn Độ cùng thời điểm. “[Chúng] dài mười hai hsin [tám bộ Trung Hoa] và rộng 6 bộ, với mũi và đuôi thuyền giống như các con cá … và các chiếc thuyền lớn chuyên chở cả trăm người, mỗi người đều cầm một mái chèo dài hay ngắn, hay một chiếc sào đẩy thuyền…”. Có thể đây chỉ là các thuyền đi trên sông, nhưng theo ghi chép của Lương thư thì đến thời Phạm Sư Man, Phù Nam trong thế kỷ III “đã có các thuyền vĩ đại được đóng, và băng ngang biển cả mênh mông [Vịnh Xiêm La] ông ta đã tấn công hơn mười vương quốc” Wang Gungwu, Ngô Bắc dịch, Một sứ bộ đến Phù Nam, nguồn Chính sự phát triển của kỹ thuật đóng tàu đã tạo ra những con tàu lớn, phục vụ cho việc vận chuyển và buôn bán trên biển cũng như trên hệ thống sông dày đặc của Phù Nam. Đây vừa là điều kiện, vừa là minh chứng quan trọng cho sự phát triển về cả thương nghiệp và thủ công nghiệp của Phù Nam. Thứ hai, Phù Nam trong thời gian tồn tại đặc biệt là ở giai đoạn phát triển thịnh đạt (thế kỷ III đến thế kỷ V) là trung gian buôn bán giữa Trung Quốc với Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Trong suốt thời nhà Ngô – Trung Quốc, Phù Nam là vương quốc lớn nhất nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ, làm chủ vịnh Thái Lan và tất cả các vùng đất từ Nam Bộ của Việt Nam đến bán đảo Mã Lai. Các thị trường trên bán đảo Mã Lai vì thế đã trở thành những vùng lệ thuộc của Phù Nam có vai trò rất quan trọng trong việc giao lưu, buôn bán giữa Ấn Độ và Trung Quốc qua Đông Nam Á lúc bấy giờ. Phù Nam vào đầu thế kỷ III, đã chinh phục Tenassserim, là một nơi dừng chân quan trọng cho hoạt động mậu dịch giữa Trung Hoa với Ấn Độ. Các thuyền buôn của thương nhân các nước đến Ấn Độ xuyên qua eo biển Malacca, dừng chân lại tại một hải cảng ở mỏm cực nam của bán đảo lệ thuộc vào Phù Nam, để chờ đợi sự thay đổi của gió mùa. Chính vì thế, bất luận là trực tiếp hay gián tiếp, mậu dịch của Trung Quốc với Ấn Độ và ngược lại đều đi ngang qua lãnh thổ của Phù Nam. Chính bởi điều này cho nên các hoàng đế nhà Ngô luôn thừa nhận tầm quan trọng của Phù Nam. Rất có thể, Phù Nam còn đóng vai trò là trung gian vận chuyển hàng hóa giữa các khu vực với nhau trong thời cổ đại. Chính vì vậy, có rất nhiều các ý kiến cho rằng Phù Nam là ngã tư của hoạt động mậu dịch thế giới tại Đông Nam Á thời cổ đại. Thứ ba, dựa vào các di chỉ khảo cổ học tìm được, các nhà khoa học đã chứng minh rằng: Óc Eo là một trung tâm thương mại phát triển bậc nhất của vương quốc Phù Nam. Tại khu di tích Óc Eo, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều các đồng tiền có nguồn gốc Địa Trung Hải. Bên cạnh đó, tiền của Phù Nam cũng được tìm thấy rất nhiều ở Óc Eo, Nam Thái Lan và Hmawza ở Myanmar. Sự xuất hiện tiền ở những khu vực thuộc cương vực của Phù Nam phản ánh quá trình mậu dịch quốc tế ở trình độ cao và vị trí của Phù Nam trong thời cổ đại. Như vậy, có thể thấy cảng thị Óc Eo là đại diện cho Phù Nam tiếp xúc với bên ngoài, là một đầu mối của đường mậu dịch hàng hải quốc tế. Đây được coi là trung tâm buôn bán, thu phát hàng hóa nên khi khai quật các nhà khảo cổ đã phát hiện được rất nhiều các loại tiền của Phù Nam và của các quốc gia có quan hệ buôn bán với Phù Nam. Thứ tư, vật phẩm buôn bán và trao đổi nhiều nhất của Phù Nam là vàng, bạc và lụa hàng. Phù Nam là trung gian buôn bán giữa Trung Quốc và Ấn Độ lại là ngã tư của hệ thống giao dịch quốc tế, trung điểm của con đường tơ lụa trên biển giữa Trung Quốc với phương Tây qua Đông Nam Á. Vì thế, lụa là một hàng hóa quan trọng của Phù Nam, thu hút thương nhân các khu vực khác nhau đến trao đổi và buôn bán. Tóm lại, kinh tế Phù Nam là một nền kinh tế có sự đan xen hài hóa giữa các ngành kinh tế với nhau. Một mặt, họ có thể dùng vàng, bạc, châu báu, hương liệu làm đồ cống và nộp thuế; lại vừa có thể tự sản xuất các mặt hàng thủ công để buôn bán; vừa có thể sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, đảm bảo lương thực hàng ngày. Dó đó, nền kinh tế của cư dân Phù Nam mang đậm tính chất của một nền kinh tế hàng hóa. 3.3. Tình hình xã hội và đời sống vật chất Về xã hội, theo các tài liệu khảo cổ đều cho thấy Phù Nam là một xã hội giàu có. Tuy nhiên, giàu đến mức nào, tất cả đều giàu hay có người giàu, người nghèo thì chưa có cứ liệu rõ ràng. Những ngôi mộ và đồ tùy tang chôn theo cũng không cho phép người ta đoán định được vì người Phù Nam chủ yếu sử dụng phương pháp điểu táng và hỏa táng. Tuy nhiên, trên phạm vi toàn xã hội, dựa trên thư tịch cổ Trung Quốc cho thấy, xã hội Phù Nam có sự phân hóa giàu – nghèo tương đối rõ rệt: một lớp người ăn mặc sang trọng, có nhiều mảnh vàng cúng đền, sống gắn với nền kinh tế cảng thị, với những đường buôn bán ven biển, mà “con trai nhà quyền quý cắt gấm vóc, làm tấm khăn quấn quanh người, con gái thì làm tấm áo chui đầu” và một lớp “người nghèo thì dùng vải thô để che thân”. Bên cạnh đó, các thư tịch cổ cũng cho chúng ta biết được xã hội Phù Nam có các tầng lớp khác nhau như: vua, tăng lữ, quý tộc cung đình, nô lệ và bình dân trong đó có bộ phận chuyên buôn bán. Như vậy, xã hội Phù Nam một phần có sự phân hóa trên cơ sở nghề nghiệp. Về đời sống vật chất, có thể khái quát những nét cơ bản như sau: Về trang phục, Khang Thái cho biết: “Người Phù Nam sống khoả thân, đi chân không và xăm mình”. Nhưng Tề thư lại cho biết: “Con trai nhà phú hộ cắt hàng làm chăn để mặc. Người nghèo mặc bằng vải”. Tuy nhiên, những hình tượng tìm được trong các di tích thuộc văn hoá Óc Eo cho thấy đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Trên các tượng có vẽ loại váy có nhiều đường gấp nếp, được buộc lại bằng một thắt lưng mỏng. Áo của phụ nữ là một tấm vải hình chữ nhật, với lỗ xẻ ở trung tâm để chui đầu qua. Trước đó, Thái Khang đã xác nhận: “Đàn bà Phù Nam mặc một cái chăn trùm từ cổ xuống chân và xỏ lỗ tai để đeo bông tòng teng”. Về cư trú, Tề thư viết: “Người Phù Nam đốn cây để cất nhà ở. Nhà vua ngự trong cũng có lầu nên xây bằng đá. Xung quanh nhà dân chúng có hàng rào gỗ… Dân chúng ở trong những nhà sàn cao trên mặt nước, xung quanh có vòng thành bằng đất, cạnh những hồ chứa đầy cá sấu… Các thị trấn của Phù Nam thường được xây dựng trên mặt hồ, gồm những căn nhà sàn phủ lá tre”. Tại Óc Eo, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy vết tích các dinh thự, nhà cửa. Phương tiện đi lại, voi làm phương tiện di chuyển và đi săn. Họ đi lại chủ yếu bằng thuyền, ngoài ra họ cũng biết sử dụng ngựa trong đi lại: “Người Phù Nam đóng được những chiếc thuyền có bề dài từ 8 đến 9 trượng (mỗi trượng bằng 10 chân) và bề ngang từ 6 đến 7 chân. Mũi thuyền và lái đều có hình đầu và đuôi cá”. 3.4. Khái quát về văn hóa cổ Phù Nam Không chỉ phát triển về kinh tế, mậu dịch hàng hải; không chỉ trở thành một cường quốc quân sự - chính trị mà Phù Nam còn trở thành một vùng phát triển văn hóa, hình thành một nền văn hóa Phù Nam cổ và lan tỏa ảnh hưởng đến các vùng lân cận, để lại dấu ấn đến đời sau, không thể phai mờ bởi những giá trị độc đáo của nó. 3.4.1. Chữ viết Là một quốc gia cổ, một vương quốc, Phù Nam sử dụng chữ viết để chép kinh, sử dụng trong các hoạt động của Nhà nước và các công việc giao dịch. Người Phù Nam sớm mượn chữ cổ Ấn Độ, chữ Brahmi, chữ Sankrit. Tấn thư có ghi lại: “Họ có nhiều sách và những thư viện…Chữ viết của họ giống chữ của người Hồ (ở Trung Á)…Vua cũng đọc được những bài văn viết của Ấn Độ, mỗi bài dài khoảng 3000 chữ” Lương Ninh (Cb), 2005. Lịch sử Việt Nam giản yếu. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 99. . Đây là chữ viết của giới quý tộc và tăng lữ cung đình. Tuy nhiên qua thời gian truyền bá, chữ viết đã trở nên quen thuộc và phổ biển trong giới bình dân. Chữ Phạn xuất hiện ở Phù Nam vào thời kì hình thành nền văn minh đô thị và sự ra đời của nhà nước. Điều này chứng tỏ sự phát triển của một đất nước có nền văn hóa cao. Người Phù Nam dùng chữ Phạn để khắc lời chú trên đồ trang sức như nhẫn, mặt dây chuyền, bia. Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy 4 tấm bia chữ Phạn dạng cổ thuộc thế kỉ V. 3.4.2. Tôn giáo Trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, người Phù Nam giai đoạn đầu theo tín ngưỡng bái vật giáo với truyền thống thờ đá. Tục thờ sinh thực khí bằng đất nung, bằng cuội tự nhiên và những hình tượng thảo mộc, cầm thú trên các hiện vật tìm thấy có thể đã có biểu tượng lâu đời trước khi có biểu tượng Siva. Khi người Ấn Độ vào thì tôn giáo là lĩnh vực mà người Phù Nam tiếp nhận của văn hóa Ấn Độ. Người Phù Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ: đạo Bàlamôn và đạo Phật. Lương thư chép: “Phong tục (Phù Nam) thờ thiên thần, đúc tượng bằng đồng 2 mặt 4 tay, 4 mặt 8 tay…”. Nhà sư Nghĩa Tĩnh khi đến Phù Nam khoảng năm 671 đến 695 cũng viết:“Người xứ ấy thờ nhiều thiên thần nhưng Phật pháp cũng thịnh hành”. Qua các hiện vật tìm ñược như tượng thần Brahma, Visnu, Siva, các ngẫu tượng Linga, Yoni, các linh vật như Nandin, Garuda, Naga… cho thấy đạo Bàlamôn rất phát triển ở đây. Theo Lương thư trong khoảng thời gian cuối thế kỷ V, ở Quảng Đông đã cho biết có tư viện Vaisali, ở đây có một pho tượng lớn bằng đá được chở đến từ Phù Nam để thờ cúng. Những năm 503 - 506, các nhà sư gốc Phù Nam tên là Sanghapala và Mandrasena đã sang Trung Quốc để dịch Kinh. Năm 519, vua Phù Nam lại sử sứ sang cống vua Trung Quốc một pho tượng bằng gỗ dàn hương Ấn Độ. Khoảng năm 535 - 545, một phái bộ Trung Quốc được cử yết kiến vua Phù Nam xin được sưu tập kinh Phật, được đón về Trung Quốc các cao tăng và xin nhận một thánh tích là sợi tóc Phật. Đạo Phật ở Phù Nam khác với các nơi khác đó là: thứ nhất, tượng Phật được đặt chung với tượng Bàlamôn; hai là, cả Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa đều có mặt ở đây. Qua những dẫn chứng trên, có thể thấy cả Phật giáo và Bàlamôn giáo đều phát triển rất thịnh đạt ở Phù Nam, thậm chí nó còn được lan tỏa ra rất nhiều các quốc gia xung quanh. Theo các thư tịch cổ, Phù Nam đã trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng nhất ở Đông Á, đức mức đạo Phật ở đây đã ảnh hưởng đến cả Nam Trung Quốc. Đặc biệt, Phật giáo ở Phù Nam có những nét phát triển, khác lạ so với Phật giáo nguyên thủy của nó. 3.4.3. Kiến trúc Có thể thấy điểm nổi bật trong kiến trúc Phù Nam đó là kiến trúc đô thị. Theo các thư tịch cổ Trung Quốc, các thị trấn của Phù Nam thường được xây dựng gồm những căn nhà sàn phủ lá tre hoặc những nền đắp đất. Ngoài khu vực thị trấn, các nhà sàn và các điểm cư trú đều lấy các kênh mương làm trục để tỏa hai bên. Điều này thích hợp với điều kiện tự nhiên với các kênh rạch chằng chịt và tập quán buôn bán của cư dan Phù Nam. Trong cuộc khai quật di chỉ Óc Eo, L.Malleret cho biết: Di chỉ Óc Eo là một quần thể đô thị rộng lớn gồm các khu nhà sàn bị cắt ngang dọc bởi một mạng lưới kênh đào là hệ thống thuỷ nông trải dài trên 200 km. Các thành phố nối với nhau bằng biển cả, bằng những con kênh đủ rộng để tiếp nhận những chiếc tàu đi biển. Trong cuộc khai quật của Malleret đã phát hiện được ba thành thị ở miền Tây sông Hậu: Ba Thê (Óc Eo) thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; Nền Chùa ở Rạch Giá, Kiên Giang; Nền Vua ở Hồng Fân, cà Mau. Nền Vua còn có tên là Trăm Phố, nhiều người cho rằng đây là Thành phố Mặt trời như trong các thư tịch cổ nhắc đến. Cả ba thành thị này đều có mặt bằng rộng, mỗi chiều khoảng 1000m. Tại đây đã tìm thấy vết tích của các dinh thự, nhà cửa được thiết kế theo hai cách tùy theo điều kiện địa hình: ở những nơi đất cao thì xây bằng gạch và đá; ở những miền đầm lầy thì làm nhà sàn bằng gỗ, lợp lá dừa nước, xung quanh vòng thành bằng đất. Cùng với việc xây dựng thành thị là việc xây dựng đền miếu. Tuy nhiên, cho đến nay không còn một ngôi đền miếu nào còn tồn tại lại. Vết tích của những đền miếu còn tồn tại đến nay là những trụ giới (sima - cột mốc của các đền, chùa). Trên nền có móng gạch chia thành ô lớn, hình vuông và hình chữ nhật. Các công trình này chủ yếu sử dụng nguyên liệu bằng đá. Tóm lại, kiến trúc nhà ở cũng như đền miếu ở Phù Nam được thiết kế thích ứng với điều kiện tự nhiên cả về nguyên liệu, các bố trí, sắp xếp: làm nhà sàn nếu nguyên liệu bằng gỗ hoặc nhà bình thường nếu nguyên liệu vằng gạch và đá. Kiến trúc Phù Nam cũng không có những công trình kiến trúc lớn, vĩ đại và đạt trình độ thẩm mĩ cao như những quốc gia cổ đại khác. 3.4.4. Điêu khắc Kiến trúc Phù Nam tiêu biểu nhất là các công trình điêu khắc tôn giáo. Nét đặc sắc nhất và cũng là nét văn hoá tiêu biểu nhất của văn hoá Phù Nam là các pho tượng Phật. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện được hơn 50 pho tượng Phật, trong đó có 17 pho tượng bằng đá, 26 pho tượng bằng gỗ, 7 pho tượng bằng đồng, với 32 pho tượng “Phật đứng” (Buddhapad) có niên đại là thế kỉ V. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng phát hiện được vài chục pho tượng thần Hinđu giáo bằng đồng cỡ nhỏ, cao hơn 10 cm, nhiều khả năng là tượng của Phù Nam. Tuy nhiên, đẹp hơn cả và đã được xác định phong cách cũng như niên đại đó là các pho tượng Phật đứng. Tượng Phật ở Phù Nam có nét riêng: vẻ thanh tú, dịu dàng và cân ñối trên toàn thân, có sự tinh tế của thân áo, của tay phải lập thế Varamudra, tay trái kéo một chút vạt áo nhô ra, song song với thân người, tránh chi tiết tay hơi quá dài, cái đầu hơi to như tượng Phật ở một số nơi khác. Tuy bàn chân phô ra hơi nhỏ nhưng gót chân lại lớn, hơi thô, dính liền nhau, và liền với bệ đứng, hình toà sen gần vuông. Bên cạnh các tượng Phật đứng, tượng được tìm thấy ở Phù Nam còn chịu ảnh hưởng của Visnu giáo. Tiêu biểu nhất và nổi bật cho các công trình điều khắc mang ảnh hưởng của Visnu giáo phải kể đến trường phái tượng Visnu Phù Nam. Trên đồng bằng sông Cửu Long, 40 pho tượng Visnu đội mũ trụ, mặc áo dài có thể chia làm 5 phong cách – vùng văn hóa, vừa mang tính chất chung, quốc gia, vừa thể hiện được phong cách mang tính chất vùng miền và niên đại. Mỗi phong cách đều có những nét riêng, độc đáo tạo nên sự phong phú, đa dạng nhưng cũng hết sức riêng biệt của trường phái tượng Visnu Phù Nam. Về trường phái tượng Visnu Phù Nam: xem thêm trong Lương Ninh, 2009, Vương quốc Phù Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, từ trang 138 đến 144. Hoặc Luận án Tiến sĩ Lịch sử của NCS Lê Thị Liên: Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X (2003) tại Thư viện quốc gia Hà Nội. Những thành tựu văn hóa của Phù Nam đã chứng tỏ sự phát triển rực rỡ của văn hóa Phù Nam và ảnh hưởng của nó đối với khu vực. Những thành tựu văn hóa trên là kết quả của một chế độ chính trị tương đối vững mạnh, nền kinh tế phát triển cao và một điều không thể nhắc đến là ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ. Tuy nhiên, trong quá trình giao lưu, tiếp nhận người Phù Nam đã sáng tạo và phát triển văn hóa Ấn Độ thành những đặc sắc riêng của dân tộc mình. KẾT LUẬN Qua tìm hiểu về vương quốc Phù Nam, người viết xin mạnh dạn đưa ra một số kết luận sau: Thứ nhất, vương quốc cổ Phù Nam tồn tại trong khoảng thời gian hơn 6 thế kỷ, trài qua 3 giai đoạn, 19 đời vua có thể coi là một vương quốc phát triển lâu bền, so sánh với những vương quốc cổ khác ở khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, vương quốc Phù Nam đã đạt đến trình độ phát triển cao và sớm hơn so với các quốc gia khác trong giai đoạn sơ kỳ của khu vực Đông Nam Á. Thứ hai, vương quốc cổ Phù Nam là một quốc gia riêng biệt, ra đời, phát triển và tồn tại riêng biệt với quốc gia Campuchia, thậm chí Chân Lạp còn là thuộc quốc của Phù Nam. Vì thế, không thể coi Phù Nam là tiền thân của Campuchia và cũng không thể coi vùng đất Nam Bộ ngày nay là đất của Campuchia xưa kia. Trên thực tế lịch sử, sau khi tấn công Phù Nam, Chân Lạp cũng không quan tâm đến sự phát triển của Phù Nam như các khu vực khác. Công khai phá cũng như sự phát triển của vùng đất Nam Bộ ngày nay phải nói đến nhờ công lao của các chúa Nguyễn từ thế kỷ XVII trở đi. Vì thế, Việt Nam có đủ những cứ liệu lịch sử để chứng minh, vùng đất Nam Bộ ngày nay là thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Thứ ba, Phù Nam là quốc gia cổ đại có lịch sử tương đối phát triển về tất cả mọi lĩnh vực nhưng phải kể đến quan trọng nhất đó là thương nghiệp. Nghiên cứu về lịch sử Phù Nam để chứng minh Phù Nam đã từng là trung tâm mậu dịch, buôn bán Đông – Tây; thấy được vai trò của Phù Nam đối với lịch sử khu vực không chỉ về kinh tế mà còn về văn hóa. Bên cạnh đó, Phù Nam trong thời gian tồn tại của mình đã phát triển trở thành một cường quốc giữ vai trò ổn định quan hệ quốc tế thời cổ đại, xứng đáng là một “trung tâm liên thế giới” như một học giả Nhật Bản đã nhận xét. Thứ tư, sự ra đời, tồn tại, phát triển của Phù Nam gắn liền với ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ. Đây là đặc trưng hiện hữu ở hầu hết các quốc gia cổ đại trong khu vực Đông Nam Á. Chính vì thế, một học giả phương Tây là George Coedes đã cho rằng “văn hóa Ấn Độ là một lớp véc-ni phủ lên văn hóa Đông Nam Á”. Thực tế lịch sử đã chứng minh, Phù Nam là một quốc gia “Ấn Độ hóa”. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại của mình, cư dân Phù Nam đã tiếp thu và sáng tạo nên những nét đặc sắc của riêng quốc gia mình để thế kỷ IV – V trở thành “thế kỷ của Phù Nam” trong lịch sử Đông Nam Á cổ đại. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Võ Sỹ Khải, Lịch sử Việt Nam (từ đầu đến năm 938), tập 2, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 2. Huỳnh Công Bá, 2005, Lịch sử Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế. 4. George Coedes, Các vương quốc Ấn Độ đầu tiên trên đất Việt và vùng Đông Nam Á từ thời cổ đến giữa thế kỷ thứ tư, nguồn: gio-o.com/NgoBac.html. 5. Lương Ninh (Cb) Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh, 2005, Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Lương Ninh, 2005, Vương quốc Phù Nam, Lịch sử và văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 7. Lương Ninh, 2005, Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Lương Ninh, 2009, Một con đường Sử học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 9. Lương Ninh, 2009, Vương quốc Phù Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 10. Lynda Norene Shaffer, Ngô Bắc (dịch), Thời đại của PhùNam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 6, nguồn: gio-o.com/NgoBac.html. 11. Wang Gungwu, Ngô Bắc (dịch), Một sứ bộ đến Phù Nam, 220 – 420, nguồn: gio-o.com/NgoBac.html. 12. Phế đô của vương quốc Phù Nam, nguồn: vietbao.vn, ngày 2/9/2005. 13. Phù Nam, nguồn: vi.wikipedia.org 14. Phù Nam, Chân Lạp, Chàm và các đền thờ Thiên Hậu trong hoạt động mậu dịch đường biển và sự xuất hiện của các thành phố duyên hải tại Đông Nam Á (từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 16), Ngô Bắc (dịch), nguồn: gio-o.com/NgoBac.html. Bản đồ: Phù Nam và các quốc gia láng giềng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxvuong quoc phu nam.docx
Tài liệu liên quan