PHẦN 1: MỞ ĐẦU
WTO là tổ chức lớn của thế giới về thương mại thu hút nhiều nước gia nhập. Nước ta đã đi qua ngưỡng cửa của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và vào trong một ngôi nhà ở chung với 149 thành viên khác – bắt đầu thời kì mới với những cơ hội và thách thức dường như là gia vị trong bữa ăn mà thực khách là Việt Nam bắt buộc phải nếm thử. Việc gia nhập WTO giúp nhiều nước biết đến Việt Nam vốn là một đất nước nhỏ và qua đó thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Đây chính là bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Mặc dù đã trải qua hơn 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời kinh tế tập trung bao cấp.
Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập
Đề tài: WTO bước ngoặc mới nền kinh tế Việt Nam
Do đó, là sinh viên thuộc khối ngành kinh tế trước một sự kiện quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của nước ta – gia nhập WTO, thì việc tìm hiểu những tác động của tổ chức này đối với nền kinh tế Việt Nam là hết sức cần thiết để trang bị thêm kiến thức trong việc góp phần tìm ra những giải pháp tối ưu cho nền kinh tế phù hợp với từng giai đoạn của đất nước.
Mục lục
-Lời cảm ơn.
- Mục lục.
- Nhận xét của giáo viên hướng dẫn và danh sách lớp.
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu.
6. Kết quả nghiên cứu.
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area – FTA).
2.2. Liên minh thuế quan (Customs Union).
2.3. Thị trường chung (Common Market).
2.4. Liên minh kinh tế (Economic Union).
2.5. Liên minh toàn diện (Comprehensive Union).
3. Các đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế.
4.1. Tích cực
4.2. Tiêu cực
5. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam.
6. Quá trình hình thành và phát triển của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Chương II: Thực trạng của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
1. Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam.
2. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi gia nhập WTO.
3. Thực trạng của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: được và mất.
3.1. Tình hình kinh tế.
3.1.1. Về thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế
3.1.2. Về ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính.
3.1.3. Về thể chế kinh tế.
3.1.4. Tác động đến thị trường chứng khoán 2 năm sau WTO: “ Thuyền mới – gặp bão lớn”.
3.1.4.1. “Được”
3.1.4.2. “Mất”
3.1.5. Tác động đến văn hóa xã hội.
3.1.5.1. Về văn hóa.
3.1.5.1.1. “Được”
3.1.5.1.2. “Mất”
3.1.5.2. Về xã hội.
4. Những khó khăn của Việt Nam khi gia nhập WTO.
4.1. Khó khăn về trình độ phát triển.
4.2. Bất lợi của người đi sau.
4.3. Cạnh tranh với các nước đang phát triển và phát triển.
4.4. Mâu thuẫn giữa năng lực thực thi và các cam kết.
Chương III : Định hướng, giải pháp, kiến nghị để Việt Nam phát triển vững mạnh trong tổ chức WTO.
1. Định hướng.
2. Giải pháp.
3. Kiến nghị.
3.1. Đối với nhà nước.
3.2. Đối với doanh nghiệp.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
- Phụ lục.
- Tài liệu tham khảo.
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2106 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận WTO bước ngoặc mới nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên giới với Trung Quốc, hang hóa nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta bị động, một số nghành sản xuất “lao đao”, một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian, các doanh nghiệp đã vươn lên, trụ vững và đã có bước phát triển.
Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dam chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với canh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức được toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, năm 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và kiên trì đàm phán, cải tổ để gia nhập tổ chức này.
6. Qúa trình hình thành và phát triển tổ chức thương mại thế giới WTO.
Tổ chức thương mại thế giới ﴾World Trade Organization - WTO﴿ ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân la hiệp định chung về thuế quan vá thương mại ﴾ The General Agreement on Tariffs and Trade – GATT ﴿. Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gja trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và kí kết.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
¥ CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA WTO:
Thương mại không có sự phân biệt đối xử.
Tạo dựng nền tảng ổn định cho thương mại.
Bảo đảm thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán.
Tạo môi trương cạnh tranh ngày càng bình đẳng.
Điều chỉnh hệ thống thương mại quốc tế.
¥ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA WTO.
Chương II: Thực trạng của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
1. Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam.
® 04-01-1995: Đơn xin gia nhập WTO được Đại hội đồng tiếp nhận.
® 31-01-1995: Ban xem xét công tác gia nhập ﴾WP﴿ của Việt Nam được thành lập với chủ tịch là ông Eiril Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO.
® 24-08-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương Việt Nam và gửi tới ban thư kí WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác.
Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt.
Đầu năm 2002: Việt Nma gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ.
® 09-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO
® 09-06-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho Việt Nam sớm gia nhập WTO.
® 12-06-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Wshington trước thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến kết thúc đàm phán song phương.
® 18-07-2005: Vieetj Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mơ cửa thị trường để Việt Namgia nhập WTO.
® 31-05-2006: Kí thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
® 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến phút chót.
® Ngày 7 tháng 11 năm 2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này.
2. Thực trạng của Việt Nam trước khi gia nhập WTO.
Tổng quan nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 – Đổi mới: “luồng gió mát cho nền kinh tế Việt Nam.
Thời kỳ 1986-1990, Việt Nam tập trung triển khai Ba Chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Đặc biệt, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể được thừa nhận và bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần dần được thị trường hóa.Từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn. Lạm phát được kiềm chế dần dần. 6-1991 Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước" và "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Thời kỳ 1993-1997 là thời kỳ kinh tế Việt Nam kiềm chế thành công lạm phát đồng thời lại tăng trưởng nhanh chóng. Sau đó, kinh tế tăng trưởng chậm lại trong 2 năm 1998-1999. Tuy bắt đầu tăng tốc dần từ năm 2000, nhưng nền kinh tế có lúc rơi vào tình trạng giảm phát và thiểu phát
Xuất khẩu trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 bình quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu so với xuất khẩu đã lập tức giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống gần như cân bằng vào năm 1989 và thậm chí đã có xuất siêu vào năm 1990.
Năm
1986
1988
1989
1990
1991
Nhập siêu
-47,6%
-30%
-0.8%
+2.5%
-3.2%
Tăng trưởng kinh tế của VN từ 1992 đến 1996 đạt đến 9% năm, nhưng từ 1997 thì giảm dần.
Sau khủng hoảng kinh tế, chính phủ Việt Nam nhấn mạnh: sự ổn định kinh tế vĩ mô hơn là sự tăng trưởng áp dụng nguyên tắc “ chậm mà chắc”.
Nhờ chính sách đổi mới Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 Thế Giới. Bên cạnh gạo các mặt hàng xuất khẩu chính là : hồ tiêu, cà phê, chè , cao su, hạt điều , thủy sản....v.v.v và được xếp vào các thứ hạng cao trên thế giới .
Song song với những nỗ lực tăng sản lượng nông nghiệp.Việt nam đã tìm cách tăng cường sản phẩm công nghiệp. Sản phẩm công nghiệp không những nhiều gấp bội
về số loại mà còn gấp nhiều về sản lượng.Công nghiệp chiếm 32.5 % GDP năm 1999.Tính đến đầu năm 2005, cả nước có 23.2 nghìn doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động với tổng số gần 3.2 triệu lao động , tổng số vốn gần 677,2 nghìn tỉ đồng, tài sản cố định 400 nghìn tỉ đồng .
Về thương mại việc mua bán ở trong nước được tự do hóa, nhiều sản phẩm cung đã vượt cầu .Hiện Việt Nam có quan hệ với hơn 220 quốc gia và nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu tăng 20% /năm liên tục trong nhiều năm qua, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tương đương trên 60% GDP cả nước.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng tới 60 lần, từ mức 789 triệu USD năm 1986 lên hơn 48,5 tỷ USD năm 2007. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) liên tiếp lập những kỷ lục mới trong năm 2007 với mức cam kết lần lượt là 21,3 tỷ USD và 5,4 tỷ USD.
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện
Kể từ 1986, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nên thế và lực mới, và mở ra rất nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển cho đất nước . Liên tục trong vòng 20 năm, tăng trưởng kinh tế khá cao, GDP tăng bình quân 7% / năm, riêng năm 2005 và 2006 tăng trưởng trên 8%/năm. Dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 8,5% trong năm 2007. Đất nước đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Chính phủ Việt Nam đang hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Cùng với Trung Quốc, Nam Phi, và Vê-nê-zu-ê-la, đầu tháng 5/2007, tổ chức ASEAN đã chính thức ra tuyên bố công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Theo số liệu của IMF, tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam tăng từ 45 tỷ USD năm 2004 lên hơn 60 tỷ USD năm 2006, kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 40 tỷ USD, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vượt trên 10 tỷ USD.riêng năm 2006 đã thu hút được 10,2 tỷ USD.
Những thành tựu kinh tế chung của đất nước đã góp phần cải thiện đời sống các tầng lớp nhân dân. Công cuộc xoá đói giảm nghèo đạt kết quả nổi trội, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa nghèo trước thời hạn 10 năm, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 19% năm 2006.
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam do UNDP công bố đứng ở mức khá cao so với các nước đang phát triển cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
Việt Nam đang phấn đấu thực hiện mục tiêu để sớm ra khỏi nước kém phát triển năm 2010, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
3. Thực trạng của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Được và mất.
3.1 Tình hình kinh tế
3.1.1 Về thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế:
Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 và 2008 tương ứng đạt 48,6 tỷ và 62, 9 tỷ USD, tăng tương ứng 21,9% và 29,5%; Riêng năm 2008 nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt thép, vàng và yếu tố tăng giá thì xuất khẩu hàng hoá chỉ tăng 13,5%; Như vậy có thể nói, xuất khẩu vẫn chưa thể hiện mức độ bứt phá so với các năm trước.
Tổng đầu tư xã hội năm 2007 đạt tới 44% GDP và năm 2008 ước khoảng 43,1% GDP. FDI bùng phát kể từ năm 2007 FDI đăng ký tới 21,3 tỷ USD mức cao nhất kể từ khi có Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1987 thực hiện đạt trên 8 tỷ USD riêng phần vốn nước ngoài là 6,7 tỷ USD. Các con số về vốn cam kết và thực hiện giải ngân tương ứng năm 2008 là 60.3 tỷ USD, 11,5 tỷ USD. Vốn đầu tư nhà nước năm 2007 vẫn chiếm tỷ trọng tới 47,2% tổng vốn đầu tư xã hội; đặc biệt, đầu tư của khu vực DNNN năm 2007 tăng rất mạnh. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội đã giảm đáng kể, từ 37-38% giai đoạn 2004-2006 xuống còn 31,6% năm 2007. Sang năm 2008, vốn đầu tư nhà nước năm chiếm tỷ trọng 41,3% tổng vốn đầu tư xã hội; trong khi đó khu vực ngoài nhà nước chiếm 41,3% và khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 29,8%.
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 tiếp tục đà tăng trưởng của những năm trước đó và đạt 8,5%. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế chậm cải thiện. Tăng trưởng GDP năm 2008 chỉ đạt 6.23%.
3.1.2. Về ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính:
Lạm phát (tốc độ thay đổi chỉ số giá tiêu dùng CPI so với tháng 12 năm trước) năm 2007 là 12,6% và năm 2008 – 19,98%. Đây là 2 năm có lạm phát cao kỉ lục có sự leo thang kể từ năm 1995. Có nhiều nguyên nhân, song sự lúng túng, bất cập trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là trong năm 2007 và quí I/2008 đã làm xấu thêm tình hình.
Do nhập khẩu tăng quá nhanh, nên thâm hụt thương mại hàng hoá năm 2007 và 2008 tương ứng lên tới 14,1 tỷ USD và 17,5 tỷ USD (dù đã có xu hướng giảm theo tháng). Năm 2007, nhờ các khoản tiền kiều hối và lao động từ nước ngoài chuyển về, FDI, ODA, và đầu tư gián tiếp,… tăng mạnh nên cán cân thanh toán quốc tế tổng thể có thặng dư hơn 10 tỷ USD. Trong nửa năm đầu năm 2008, khả năng tài trợ cho thâm hụt thương mại trở nên thiếu bền vững hơn; cán cân thanh toán tổng thể vẫn có thặng dư, song thấp chỉ khoảng 0,5 tỷ USD.
Năm 2006-2007 chứng kiến sự bùng nổ thị trường chứng khoán, các hoạt động tài chính, ngân hàng. Các chỉ số đo độ sâu tài chính (như tín dụng/GDP và M2/GDP) và qui mô thị trường chứng khoán (như mức độ vốn hoá, số doanh nghiệp niêm yết, số công ty chứng khoán,…) đều tăng cao. Hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính Việt Nam đã có bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, rủi ro tài chính, đặc biệt là rủi ro bất ổn hệ thống ngân hàng tăng lên. Một số ngân hàng đã và đang phải đối mặt với các vấn đề kém thanh khoản và tỷ lệ nợ xấu tăng.
Thu Ngân sách nhà nước năm 2007 và 2008 tăng đáng kể; riêng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2007 tăng 15,4% so với năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2008 tăng 53,7% (do nhập khẩu hàng hoá bùng nổ). Tuy nhiên, tính bất định của thu NSNN trong thời còn cao, trong khi sức ép tăng chi thường xuyên và chi đầu tư, nhất là cho phát triển kết cấu hạ tầng vẫn rất lớn.
3.1.3 Về thể chế kinh tế:
Quan hệ tương tác giữa Đổi mới, cải cách trong nước, đặc biệt là việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, với tiến trình hội nhập, gia nhập WTO trở nên chặt chẽ hơn (Biểu hiện qua công tác xây dựng mới và bổ sung các văn bản pháp luật, hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách thủ tục hành chính.
Chức năng của nhiều bộ được quyết định chậm. Hơn nữa, đến tháng 2/2008 mới có Nghị định 13/2008/NĐ-CP qui định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Những chậm trễ này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc chấn chính tổ chức và hiệu quả hoạt động của nhiều Bộ, tỉnh/thành.
Chính phủ đã thông qua Nghị quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27/02/2007 ban hành Chương trình hành động (CTHĐ) nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW. Tại không ít Bộ, địa phương, việc triển khai thực hiện các cam kết gia nhập WTO đã diễn ra tương đối tích cực và đạt được những kết quả quan trọng bước đầu. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, nhìn chung việc thực hiện CTHĐ lần này vẫn có nguy cơ đi theo “lối mòn” cũ, mang tính hình thức, thiếu hiệu lực, kết quả trong thực thi, giám sát.
v Tác động đến cơ cấu kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế sau một năm gia nhập WTO đã đạt mức cao nhất trong vòng hơn 10 năm vừa qua. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng khai thác lợi thế so sánh với tốc độ tăng trưởng của khu vực sử dụng nhiều lao động cao hơn so với khu vực sử dụng ít lao động.
Nền kinh tế chịu tác động không lớn từ những biến động kinh tế thế giới. Đầu tư trong nước và tiêu dùng là những nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao.
v Tác động cơ cấu xuất nhập khẩu:
Tăng trưởng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng kinh tế thế giới. Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục có sự chuyển biến về chất, chuyển dần từ hàng nguyên liệu thô sang hàng chế biến. Thị trường xuất khẩu cũng được đa dạng hóa và giúp Việt Nam ít phụ thuộc hơn vào sự biến động của từng nước bạn hàng. Tỷ trọng của các
mặt hàng nông sản và khai khóang trong tổng giá trị xuất khẩu giảm và tăng tỷ trọng của các sản phẩm chế tạo. Trong cơ cấu nhập khẩu, máy móc thiết bị và nguyên vật liệu vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu cho thấy tỷ trọng của hàng tiêu dùng đang tăng lên. Việt Nam vẫn nhập chủ yếu hàng hóa từ các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai khi hàng nhập chủ yếu là máy móc và nguyên vật liệu.
- Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 và 2008 tương ứng đạt 48,6 tỷ và 62, 9 tỷ USD, tăng tương ứng 21,9% và 29,5%; Riêng năm 2008 nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt thép, vàng và yếu tố tăng giá thì xuất khẩu hàng hoá chỉ tăng 13,5%; Như vậy có thể nói, xuất khẩu vẫn chưa thể hiện mức độ bứt phá so với các năm trước.
- Tổng đầu tư xã hội năm 2007 đạt tới 44% GDP và năm 2008 ước khoảng 43,1% GDP. FDI bùng phát kể từ năm 2007 FDI đăng ký tới 21,3 tỷ USD mức cao nhất kể từ khi có Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1987 thực hiện đạt trên 8 tỷ USD riêng phần vốn nước ngoài là 6,7 tỷ USD. Các con số về vốn cam kết và thực hiện giải ngân tương ứng năm 2008 là 60.3 tỷ USD, 11,5 tỷ USD. Vốn đầu tư nhà nước năm 2007 vẫn chiếm tỷ trọng tới 47,2% tổng vốn đầu tư xã hội; đặc biệt, đầu tư của khu vực DNNN năm 2007 tăng rất mạnh. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội đã giảm đáng kể, từ 37-38% giai đoạn 2004-2006 xuống còn 31,6% năm 2007. Sang năm 2008, vốn đầu tư nhà nước năm chiếm tỷ trọng 41,3% tổng vốn đầu tư xã hội; trong khi đó khu vực ngoài nhà nước chiếm 41,3% và khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 29,8%.
- Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 tiếp tục đà tăng trưởng của những năm trước đó và đạt 8,5%. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế chậm cải thiện. Tăng trưởng GDP năm 2008 chỉ đạt 6.23%.
v Tác động đến nguồn thu ngân sách:
Việt Nam không gặp phải vấn đề nghiêm trọng đối với nguồn thu ngân sách như nhiều quốc gia khác. Thâm hụt ngân sách vẫn nằm trong tầm kiểm sóat của Chính phủ cho dù tỷ trọng nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm. Lý do chủ yếu là việc giảm thuế suất của Việt Nam diễn ra theo lộ trình; đồng thời kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh đã làm tăng diện thu thuế và bù đắp cho việc giảm thuế suất.
v Tác động lạm phát, chính sách tiền tệ và tỷ giá :
Lạm phát tăng cao trong những năm gần đây và đạt mức cao nhất trong năm 2007. Giá các mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là các mặt hàng nguyên liệu đầu quan trọng, đã có tác động tiêu cực đến sản xuất và giá cả hàng tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản. Do đó, giá các mặt hàng này trên thị trường trong nước cũng tăng theo.
Do sự tăng nhanh của luồng vốn từ bên ngoài, Chính phủ đã chọn giải pháp tránh sự lên giá của của đồng nội tệ so với đô la Mỹ bằng việc phát hành đồng nội tệ để mua đô la Mỹ. Chính sách trung hòa hóa không thực sự hiệu quả và một lượng tiền lớn đã được đưa vào lưu thông. Tổng phương tiện thanh tóan và tín dụng từ hệ thống ngân hàng gia tăng nhanh chóng, đẩy giá cả hàng tiêu dùng lên cao hơn.
Khả năng cạnh tranh về giá của hàng hóa Việt Nam vẫn được duy trì, chủ yếu do sự mất giá của đồng đô la Mỹ với các đồng tiền của các bạn hàng thương mại chính của Việt Nam và do việc gắn đồng nội tệ với đô la Mỹ. Tuy nhiên, trong thời gian tới, nếu việc trung hòa hóa lượng tiền phát hành thêm không thực hiện hiệu quả và lạm phát vẫn ở mức cao, Việt Nam sẽ mất khả năng cạnh tranh về giá đối với các đối thủ chính trong khu vực, đặc biệt khi đồng đô la Mỹ phục hồi giá trị so với các ngoại tệ mạnh khác.
v Tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký lên mức kỷ lục hơn 20 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007 và đã đóng góp quan trọng vào phát triển các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp nhẹ, nơi Việt Nam có lợi thế so sánh, chỉ thu hút được khối lượng khiêm tốn vốn đầu tư. Thu hút đầu tư vào những ngành có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, viễn thông và công nghệ cao vẫn còn hạn chế.
v Tác động đến thị trường chứng khoán :
Thị trường chứng khóan mặc dù còn nhỏ bé so với quy mô khu vực nhưng đã có những bước phát triển nhanh chóng với tỷ lệ vốn hóa thị trường đạt 43.7 % GDP năm 2007, chủ yếu nhờ việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các công
ty lớn. Thị trường chứng khóan ngày càng thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư và quỹ đầu tư nước ngoài. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng và là lực lượng dẫn dắt thị trường chứng khóan Việt Nam.
v Tác động đến cán cân thanh toán và dự trữ ngoại hối :
Sự gia tăng mạnh nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và máy móc thiết bị dẫn đến thâm hụt lớn cán cân thương mại và vãng lai. Thâm hụt này được bù đắp bởi thặng dư trong cán cân vốn, chủ yếu từ nguồn đầu tư gián tiếp. Do đó, cán cân thanh tóan trở nên dễ bị tổn thương hơn với những biến động của dòng vốn ngắn hạn này. Tuy nhiên, cán cân thanh tóan vẫn thặng dư ở mức cao và dự trữ ngoài hối đạt mức tăng kỷ lục trong năm 2007. Mức dự trữ cao này được coi là phù hợp trong bối cảnh cán cân vốn tương đối mở hiện nay
3.1.4.Tác động đến thị trường chứng khóan 2 năm sau WTO “Thuyền mới- gặp bão lớn”
3.1.4.1“Được” :
Sự kiện gia nhập wto đã có nhiều tác động tích cực đến thị trường chứng khoáng Việt Nam .Các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới đã giúp thị trường chứng khoán Việt Nam dễ dàng hơn trong việc di chuyển vốn, loại bỏ các khâu trung gian không cần thiết, giảm bớt chênh lệch trong giao dịch. Các giao dịch cũng diễn ra nhanh chóng hơn
Thị trường chứng khóan mặc dù còn nhỏ bé so với quy mô khu vực nhưng đã có những bước phát triển nhanh chóng chủ yếu nhờ việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các công ty lớn. Thị trường chứng khóan ngày càng thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư và quỹ đầu tư nước ngoài. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng và là lực lượng dẫn dắt thị trường chứng khóan Việt Nam.
2007 “Những ngày đẹp trời” : Dưới tác động của việc Việt Nam gia nhập wto với các cam kết mới, đồng thời qua sự kiện tổng thống Bus viếng thăm TT giao dịch chứng khoán Tp.HCM giúp lòng tin của người dân vào sân chơi chứng khoáng Việt Nam tăng cao, thúc đẩy nhịp độ của thị trường này.
Năm 2007, tổng giá trị vốn hóa của thị trường đã đạt trên 43% GDP. Trong khi mục tiêu của Nhà nước là tới năm 2010, vốn hóa của thị trường chứng khoán chiếm 35% GDP
Sự tăng trưởng vượt bậc của thị trường còn thể hiện ở con số hơn 330.000 tài khoản so với con số chỉ hơn 100.000 tài khoản năm 2006. Điều này cho thấy sự quan tâm của công chúng đầu tư tới thị trường ngày càng lớn sau khi Việt Nam gia nhập wto.
Cuối năm 2006, chỉ có khoảng 1.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài thì cả năm 2007 con số đã lên tới 7.000. Tổng số tiền mà khối ngoại bỏ vào thị trường là 3 tỷ USD, nhưng nếu tính cả một lượng tiền để dành cho các IPO thì vào khoảng 7-10 tỷ USD.
Tóm lại có thể khẳng định rằng 2007 là năm “nhảy vọt “ của chứng khoáng Việt Nam.
3.1.4.2 “Mất” :
Tuy nhiên việc gia nhập wto đã tạo cho thị trường chứng khoáng Việt Nam nhiều biến động trong sân chơi mới.Sự tác động mạnh mẽ của việc gia nhập wto vào nền kinh tế Việt Nam với những được và mất , cùng rất nhiều thách thức lớn.Kèm theo xu hướng nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng ,chẳng khác nào đặt thì trường chứng khoáng Việt Nam vào cảnh “ Thuyền mới -gặp bão lớn”
“Năm 2008 phải trả nợ cho năm 2007”
Hết quý I năm 2008, khi những dấu hiệu nguy hiểm như cơn khủng hoảng trên thị trường tín dụng nhà đất tại Mỹ bắt đầu phát tín hiệu, chỉ số lạm phát, nhập siêu tại Việt Nam tăng kỷ lục...làm chỉ số vn-index bắt đầu giảm.
Quý II, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam xấu đi nhanh chóng. VN-dex trượt dài về đáy 366 điểm vào ngày 20/6.
Quý IV, toàn bộ bi kịch của nền kinh tế thế giới và Việt Nam được phơi bầy. VN-Index tụt xa khỏi mốc 366 điểm. Thậm chí, cơn khủng hoảng trên TTCK Việt Nam còn vượt xa cả những thị trường khác.
Biểu đồ chỉ số vn-index thời gian vừa qua : sụt giảm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, TTCK Việt Nam không hẳn không có những cơ hội.
TTCK Việt Nam năm 2009 là khó có thể hồi phục mạnh.Dấu hiệu cho thấy mấy tháng đầu năm 2009 thị trường vẫn trong cảnh ảm đạm. Thế nhưng, nếu xem xét chứng khoán là một kênh đầu tư trung và dài hạn, đây là khoảng thời gian rất thích hợp. Thêm nữa, dù là vô căn cứ, trên TTCK luôn tồn tại sự bất hợp lý - sự hồi phục của TTCK có thể đi trước sự phục hồi của nền kinh tế.
3.1.5.Tác động đến văn hóa - xã hội:
3.1.5.1 Về văn hóa.
3.1.5.1.1 “Được”
Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu không thể né tránh. Và giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn hóa cũng không thể coi nhẹ mặt nào. Coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước sẽ chậm ra khỏi một nền kinh tế nghèo. Coi nhẹ hội nhập văn hóa đôi khi lại nguy hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn hóa khác đồng hoá.
Năm 2007,2008 vừa qua đã khép lại với hàng loạt sự kiện đánh dấu những mốc son quan trọng của nước ta trong phát triển bền vững và hội nhập. Cùng với những thành tựu về kinh tế thì trong lĩnh vực Văn hóa nghệ thuật, Việt Nam cũng gặt hái được rất nhiều thành công, bằng những chương trình tạo được tiếng vang mang tầm vóc quốc tế…như Duyên dáng Việt Nam,Hoa hậu thế giới người Việt , hoa hậu Trái Đất tại Nha Trang.
Về giáo dục có nhiều thay đổi lớn .Nhiều cải cách về cơ chế thi cử, cũng như mô hình đào tạo mới, học theo hình thức tín chỉ tạo sự linh hoạt và điều kiện cho học sinh ,sinh viên học tập một cách tốt hơn.hiệu quả hơn.Kèm theo đó là sự mở rộng của giáo dục, cũng như là sự đầu tư từ nước ngoài, nhiều trường quy mô chất lượng tốt của nước ngoài được xây dựng ở Việt Nam.
Sau hội nhập, đã tạo một luồn gió mới vào xã hội người Việt , nhận thức được nâng cao, con người được tiếp cận gần hơn với thế giới thông qua các phương tiện hiện đại cũng như là những lợi ích điều kiện mà việc gia nhập WTO mang lại.
3.1.5.1.2 “Mất”:
Nỗi buồn văn hóa thời hội nhập không chỉ trong ngôn ngữ chuyện trò hàng ngày, mà cả trên ti vi, tại các chương trình trò chơi truyền hình, các thí sinh tham gia cuộc chơi sử dụng các từ: “Wow”, “Ok”, “Yes”, “No”… cách sử dụng ngôn ngữ hàng ngày bị pha tạp ở không chỉ giới trẻ, mà cả người lớn, và ngay cả nhà văn, nhà báo thỉnh thoảng cũng vướng phải.
Về văn học, mấy năm qua dòng văn học Việt không có tác phẩm nổi bật. Số lượng lớn tác phẩm chạy theo xu hướng phô trương hình thức, chuyện tình ma mị, khai thác tính dục, không phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc.
Trong giới văn nghệ sĩ lại nghi kỵ nhau về chuyện đạo nhạc, “chôm” bản quyền.
Một phần nhỏ trong xã hội đã bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực song chúng ta vẫn khắc phục được.
3.1.5.2 Về xã hội:
- Việc gia nhập WTO năm 2007 chưa để lại dấu ấn đáng kể đối với tạo việc làm. Số lao động có việc làm năm 2007 và 2008 tăng tương ứng 2,3% và 2,0%, trong khi con số này của năm 2006 là 2,7%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm, song tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên lại tăng.
- Trong khi tiền lương bình quân của người làm công ăn lương năm 2007 tăng gần 10% so với năm 2006, thì lạm phát tăng quá cao làm cho thu nhập thực của số đông người lao động bị giảm sút. Tăng trưởng kinh tế năm 2008 chậm lại, một bộ phận doanh nghiệp đình trệ dẫn đến tình trạng mất việc làm và thu nhập giảm. Đình công của công nhân trong nửa đầu năm 2008 diễn ra nhiều so với những năm trước. Tỷ lệ
hộ nghèo giảm từ 15,5% năm 2006 xuống còn 14,8% năm 2007 và 13,5% năm 2008. Tuy nhiên, chuẩn nghèo được tính toán vào năm 2005 không còn thích hợp, nhất là sang năm 2008 khi lạm phát tiếp tục gia tăng. Tình trạng thiếu đói vẫn xảy ra ở một số vùng, nhất là những vùng bị thiên tai.
- Phân hoá xã hội về thu nhập tăng. Một ví dụ là thu nhập của lao động trong các khu vực dịch vụ đòi hỏi nhiều kỹ năng (tài chính, ngân hàng,…) thường cao hơn nhiều lần thu nhập của lao động ít kỹ năng trong các ngành sử dụng nhiều lao động (vốn đã không cao lại rất khó tăng do áp lực cạnh tranh hàng hoá trên thị trường quyết liệt).
- Mặc dù chống lạm phát sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng trong ngắn hạn, song việc đảm bảo nền kinh tế có thể “dần hạ cánh nhẹ” phụ thuộc vào sự đồng bộ trong thực hiện 8 nhóm giải pháp của chính phủ, đặc biệt là chính sách thắt chặt tiền tệ và giảm chi tiêu và đầu tư công.
4. Những khó khăn của Việt Nam khi gia nhập WTO.
4.1 Khó khăn về trình độ phát triển.
Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời kinh tế tập trung bao cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến trình hoàn tất các thủ tục và đáp ứng các điều kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu cầu về mở cửa thị trường do các thành viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức đưa ra những cam kết thấp.
4.2 Bất lợi của người đi sau .
Việc gia nhập WTO sau 148 nước, trong đó có những nước tiềm năng xuất khẩu lớn như Thái Lan, Trung Quốc… càng làm tăng sự bất lợi của Việt Nam. Việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2001 đã khiến Việt Nam khó khăn hơn trong việc cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc vốn đang tràn ngập thị trường thế giới với giá rẻ. Việt Nam và Trung Quốc vốn tương đối giống
nhau về trình độ kinh tế cũng như các mặt hàng xuất khẩu. Xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có bốn sản phẩm giống của Trung Quốc, đó là hàng dệt may, giày dép, gốm sứ và hàng điện tử. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều có mục tiêu là xuất sang các thị trường Nhật, ASEAN, EU, Mỹ. Là thành viên của WTO, Trung Quốc được hưởng những mức thuế ưu đãi khi xuất sang các nước này, do vậy cuộc cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt.
4.3 Cạnh tranh với các nước đang phát triển và phát triển
Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát triển có cùng trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như chúng ta, nhưng họ đã gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt Nam sẽ là đối thủ cạnh tranh với các nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ, EU… Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các nước này không muốn chúng ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng ta gia nhập WTO. Vì vậy, trong quá trình đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần khẳng định quyết tâm tham gia một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt là với các đối tác có tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục để họ hiểu thực trạng kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp mà Việt Nam có thế mạnh. Việt Nam mong muốn giữ nguyên mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với các điều khoản của WTO. Thế nhưng, tại một số nước phát triển, nông sản vẫn tiếp tục được trợ giá và rõ ràng hàng nông sản Việt Nam xuất sang các nước phát triển sẽ khó cạnh tranh được với hàng nông sản nội địa vốn vẫn đang được các nước này bảo hộ.
4.4 Mâu thuẫn giữa năng lực thực thi và các cam kết
Để tham gia WTO, Việt Nam không những phải hoàn thiện khung luật pháp đáp ứng điều kiện của một nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để đáp ứng các yêu cầu trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây dựng luật pháp để gia nhập WTO với hai phần: luật phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên WTO (bắt buộc) như: Luật Cạnh tranh; Luật Thương mại; Luật Đầu tư
(không phân biệt đầu tư trong hay ngoài nước); Sở hữu trí tuệ, Bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi… và luật về quyền của nước thành viên (không bắt buộc) như Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp… Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO cho dù các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam kết là khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong khi hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua, hoặc mới ban hành nhưng chưa được áp dụng trong thực tiễn.
Theo Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của WTO, các nước thành viên phải có hệ thống bảo vệ bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, nhãn mác hàng hóa… rất nghiêm ngặt. Thế nhưng, ở nước ta, việc sản xuất hàng giả, hàng nhái, ăn cắp bản quyền, mẫu mã… vẫn diễn ra tràn lan và chưa được giải quyết triệt để. Tình hình trên làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh bình đẳng và đúng luật trên thị trường thế giới.
Chương III: Định hướng, giải pháp, kiến nghị để Việt Nam phát triển vững mạnh trong tổ chức WTO.
1. Định hướng.
Thứ nhất, cần tiếp tục thay đổi một cách sâu sắc nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách và điều hành quản lý nhà nước theo hướng từ trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh sang gián tiếp thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chí và các đòn bẩy kinh tế.
Thứ hai, để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cần áp dụng các chính sách để chế nhập siêu và thâm hụt thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên cả ba cấp độ nhà nước, doanh nghiệp và ngành hàng. Phát huy nội lực, bảo vệ thị trường trong nước, xây dựng chiến lược và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào vòng đàm phán Ðô-ha, tiếp tục thực thi đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, tận dụng tốt những quyền lợi mà thành viên WTO được hưởng, xử lý hài hòa, thống nhất mối quan hệ giữa cam kết gia nhập WTO với khuôn khổ pháp lý hiện hành, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Thứ năm, thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách an sinh xã hội, giảm khoảng cách giàu - nghèo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, các bộ, ngành và các địa phương cần nâng cao chất lượng nội dung các Chương trình hành động sau khi gia nhập WTO, xác định rõ nguồn lực cần thiết để bảo đảm cho việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ đề ra; xử lý hài hòa các vấn đề có tính chất liên ngành, liên vùng như chiến lược, quy hoạch phát triển của địa phương, bảo đảm hiệu quả đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng; bảo vệ môi trường sinh thái,...; xây dựng thể chế và cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và điều chỉnh việc triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và các chương trình hành động của bộ, ngành và địa phương sao cho thiết thực, hiệu quả và phù hợp với thực tế của bộ, ngành và địa phương.
Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, công chức, viên chức, các doanh nhân và người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tám, tiếp tục phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, với phương châm chủ động, hiệu quả và linh hoạt, phát huy những thành tựu đã đạt được trong hai năm qua, chúng ta tự tin và năng động vượt qua mọi thách thức, phấn đấu giành những thắng lợi mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giải pháp.
Một là: Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỉ trọng hàng công nghiệp, công nghiệp chế biến, thực hiện đồng bộ các biện pháp
nâng cao chất lượng tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu đối với các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng sản xuất do bị hạn chế về cơ cấu (diện tích, năng suất, thời tiết…) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng, trong đó đặc biệt chú ý đến các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Hai là: Tăng cường đầu tư mở rộng qui mô sản xuất, chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, những mặt hàng có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như giải quyết nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội như các sản phẩm chế biến, công nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện…
Ba là: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, gắn công tác xúc tiến thương mại với nhiệm vụ tăng trưởng xuất khẩu, tìm kiếm và mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng phát triển không bị hạn chế về khả năng sản xuất, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hóa mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm.
Bốn là: Tập trung khai thác theo chiều sâu, chiều rộng đối với các thị trường xuất khẩu truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm đi đôi với việc phát triển các thị trường có chung đường biên giới với Việt Nam thông qua việc xem xét điều chỉnh những qui định không phù hợp, hạn chế xuất khẩu thời gian qua.
Năm là: Giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu.Triển khai xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên, phụ liệu, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giầy dép…Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hóa và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu.Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính đi đôi với việc tăng cường hợp tác phối hợp giải quyết vụ việc liên quan giữa các bộ, ngành.Sớm triển khai ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, New Zealand…
Sáu là: Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu.Thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu: Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các hình thức hỗ trợ trực tiếp cho xuất khẩu như thưởng xuất khẩu, thưởng thành tích xuất khẩu… bị bãi bỏ. Cần sử dụng nguồn vốn này và bổ sung thêm để thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư: nghiên cứu, cải tạo giống cây trồng, vật nuôi; đổi mới, chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản hàng hóa xuất khẩu; đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân sản xuất hàng xuất khẩu.Điều tiết tỉ giá hối đoái, lạm phát: Vai trò quản lý vĩ mô là phải điều tiết sự thay đổi tỉ giá hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý.
Bảy là: Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu. Tập trung xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm có kim ngạch nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước EU… và các mặt hàng trọng điểm mà khả năng sản xuất trong nước không bị hạn chế nhưng thiếu thị trường tiêu thụ. Tập trung nguồn vốn xúc tiến thương mại đối với những mặt hàng có sự tăng trưởng, có sự đóng góp lớn cho kim ngạch xuất khẩu.
Tám là: Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giầy, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí…
Chín là: Xây dựng các đề án xuất khẩu cụ thể cho từng mặt hàng, từng địa bàn. Đặc biệt chú ý phát triển những mặt hàng mới, mặt hàng có điều kiện sản xuất không phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường như sản phẩm cơ khí, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm đồ gỗ… Đồng thời rà soát lại cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất, xuất khẩu đối với những mặt hàng truyền thống trọng điểm như hàng nông lâm thủy sản, hàng dệt may, giầy dép, thủ công mỹ nghệ… để có những điều chỉnh phù hợp hỗ trợ cho sản xuất và xuất
khẩu. Tiếp tục coi các thị trường ASEAN, Nhật, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và các nước có chung đường biên giới là những thị trường trọngđiểm.
Mười là: Đối với các Hiệp hội ngành hàng. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong việc cung cấp thông tin, thống nhất thực hiện các chiến lược phát triển sản xuất, liên kết trong kinh doanh, đàm phán ký kết hợp đồng, tránh để khách hàng lợi dụng ép giá gây thua thiệt chung. Cần có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành quản lý và các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành.
3. Kiến nghị.
3.1 Đối với nhà nước.
Về vĩ mô, Chính phủ nên cho phép doanh nghiệp tham gia rộng rãi hơn trong hoạch định hoặc đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới doanh nghiệp.Doanh nghiệp cần thời gian nhất định để điều chỉnh với tình hình kinh tế và chính sách kinh tế vĩ mô thay đổi.
Các cơ quan chính phủ phải đối thoại, thông tin đầy đủ với doanh nghiệp về các dự kiến hoạch định chính sách. Đã đến lúc Chính phủ nên xem xét một chương trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để tránh suy thoái.
Về vi mô, Chính phủ phải có một chương trình lớn ở cấp quốc gia về đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề. Đặc biệt là công nhân lành nghề.
Về thủ tục hành chính: Giảm thời gian, chi phí thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, nhằm nâng cao khả cạnh tranh về xuất khẩu, nhất là khi tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn dựa nhiều vào xuất khẩu. Cam kết WTO về việc cho phép sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng nhấn mạnh sự khẩn thiết trong cải cách các ngân hàng thương mại nhà nước, nâng cao hiệu quả thu hút, giải ngân nguồn vốn FDI, cải thiện hơn nữa về mặt thể chế.
Cơ quan nhà nước phải nhanh nhẹn trong vấn đề giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp về tiếp cận đất đai, tài sản, kết cấu hạ tầng gắn với cải cách cơ cấu nhanh, trên diện rộng.
Chú trọng phát triển khu vực nông thôn nhằm tránh khoảng cách dãn ra ngày càng lớn giữa thành thị và nông thôn, nảy sinh những tiêu cực về mặt kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập.
3.2 Đối với doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp cần chú trọng về quản trị tài chính. Để tránh nguy cơ vỡ nợ và phá sản, các doanh nghiệp cần cơ cấu lại tài chính vì đó là trọng tâm của quá trình tái cơ cấu hoạt động, xây dựng mục tiêu đạt các chuẩn mực tài chính như hệ số an toàn vốn tối thiểu, tỷ suất lợi nhuận trên tài sản...
Các doanh nghiệp cũng cần nâng cao tính minh bạch, chuẩn mực tài chính và xây dựng hệ thống cơ chế quản lý tài chính đồng bộ, thống nhất; cần chuẩn hoá hệ thống công nghệ phục vụ hạch toán kế toán, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát.
Sự tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua là đáng khích lệ, được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh trong thời gian tới. Tuy nhiên doanh nghiệp cần chú ý nhiều hơn đến đào tạo, hỗ trợ, trang bị các kỹ năng về công nghệ và quản lý cho khu vực này nhằm giúp các doanh nghiệp tồn tại, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Đối với việc thâm nhập thị trường nước ngoài, hàng hóa và dịch vụ Việt Nam thì các doanh nghiệp phải coi việc bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng là yếu tố sống còn để nâng cao uy tín của nước ta trên thị trường thê giới.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Tóm lại, gia nhập WTO là bước ngoặc rất lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Từ đây, nền kinh tế Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển hơn. Mặc dù, khi gia nhập vào tổ chức này nước ta đã gặp phải những khó khăn và thử thách: bị chèn ép, phải cạnh tranh kinh doanh với nhiều nước mạnh hơn ta về kinh tế lẫn chính trị …Nhưng với tinh thần của một dân tộc có truyền thống bất khuất, không chịu khuất phục, luôn có tinh thần cầu tiến nên Việt Nam đã từng bước vượt qua những rào cản để từng bước đi lên hòa nhập với nền kinh tế toàn cầu. Và hơn nữa, càng ngày vị trí của Việt Nam càng được đề cao trên thị trường thế giới. Chính vì thế mà hiện nay Việt Nam ngày càng được nhiều nước để ý đến – một thị trường đầy tìm năng và ổn định bởi một chế độ chính trị và nguồn lao động dồi dào. Và để tồn tại lâu dài trong thị trường cạnh tranh gay gắt này thì nhà nước ta cần phải có những chính sách đúng đắn và kịp thời. Còn đối với doanh nghiệp cần phải luôn luôn nâng cao về chất lượng và mẫu mã của sản phẩm, mặt hàng kinh doanh, đồng thời cần có những bước cải tiến đem lại hiệu quả cao để có thể giữ vững danh hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao”. Tuy đã hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO nhưng một số doanh nghiệp vẫn còn chưa có sự chuẩn bị chu đáo khi tiếp cận với một thị trường rộng lớn này. Chính điều này đã dẫn đến những vấn đề bất cập xảy ra và Việt Nam đã bị mất uy tín trên thị trường của một số nước. Vì vậy Việt Nam cần phải chú trọng hơn, phải đưa ra những đường lối hoạt động đúng đắn để có thể phát triển vững mạnh trên thị trường mà không bị suy sụp. Tất cả những điều trên đã khẳng định một điều rằng: gia nhập WTO là một quyết định đúng đắn của Việt Nam. Những cơ hội và thách thức là những yếu tố cần thiết để Việt Nam có thể khẳng định được khả năng, vị trí của mình trên trường quốc tế. Như vậy, WTO – một bước ngoặc rộng lớn cho nền kinh tế Việt Nam trong hội nhập kinh tế toàn cầu.
PHỤ LỤC
I. Hồ sơ gia nhập Tổ chức Thương mại TShế giới (WTO) của Việt Nam
Ngay sau khi Việt Nam chính thức được công nhận là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), WTO đã có thông cáo báo chí về việc Việt Nam gia nhập WTO và tóm lược nội dung bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam.
Hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam gồm 3 tài liệu, với nội dung tóm tắt như sau:
1. Biểu Cam kết về Hàng hóa (560 trang):
Đối với đa số các mặt hàng nông nghiệp và phi nông nghiệp, Việt Nam cam kết mức thuế trần dao động từ 0 đến 35%. Một số mặt hàng được cắt giảm dần mức thuế theo nhiều giai đoạn cho đến năm 2014, ngày kết thúc chính xác thay đổi tùy mặt hàng.
Các mặt hàng có mức thuế trần cao hơn là các sản phẩm rượu, thuốc lá, cà phê pha sẵn và một số sản phẩm liên quan, phụ tùng xe và xe hơi nguyên chiếc mới hoặc đã qua sử dụng và tấm lợp mái.
Một số mặt hàng được bảo hộ có hạn ngạch (thuế cao hơn cho lượng hàng ngoài hạn ngạch và thấp hơn trong hạn ngạch cho phép) là trứng, thuốc lá, đường và muối. Hạn ngạch phải được nới rộng dần cho đến khi được hủy bỏ theo thời gian đã thỏa thuận.
Việt Nam cũng ký kết Hiệp định “đa phương riêng” về Công nghệ Thông tin (chỉ có một số thành viên WTO ký kết thỏa thuận này). Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin, Việt Nam cho phép nhập khẩu miễn phí. Trong một số trường hợp, thuế suất bằng 0 được áp dụng ngay lập tức, một số khác sẽ được thực hiện dần dần trong thời gian từ 2010 – 2014.
Trong nông nghiệp, Việt Nam không trợ giá xuất khẩu, nhưng được phép thực hiện các hỗ trợ về thương mại trong nước cho nông dân (hỗ trợ trực tiếp trên giá hoặc số lượng sản phẩm) tới mức tối đa là 3.96 nghìn tỉ (khoảng
246 triệu đô la Mỹ) ngoài mức trợ cấp thông thường dành cho các nước đang phát triển, hoặc tối đa là 10% giá trị sản phẩm nông nghiệp trong nước.
2. Biểu Cam kết về Thương mại Dịch vụ (60 trang):
Việt Nam đã đưa ra cam kết trong một loạt các dịch vụ. Trong một số trường hợp, Việt nam có quyền hạn chế sở hữu nước ngoài trong các công ty dịch vụ hoạt động ở Việt Nam – như đối với viễn thông, mức giới hạn là 49 – 65%. Trong một số ít trường hợp, sở hữu nước ngoài cho phép có thể đạt mức 100% ngay lập tức (như với dịch vụ kế toán). Đa số trường hợp, sở hữu nước ngoài sẽ đạt đến 100% trong vòng vài năm (như dịch vụ phát chuyển nhanh là 5 năm).
3. Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (260 trang):
Báo cáo phác thảo bối cảnh kinh tế, khung pháp lý và hành chính của Việt Nam. Trong đó có các cam kết cải cách hoặc giữ gìn các cải cách đã được tiến hành nhằm bảo đảm tư cách thành viên. Danh sách các cam kết như sau:
Ngoại hối: Việt Nam sẽ tuân theo quy định của Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Doanh nghiệp nhà nước: Kinh doanh thương mại (trừ các lĩnh vực phục vụ cho Chính phủ) sẽ tiến hành theo các điều khoản thương mại không có sự can thiệp từ Chính phủ. Một số sản phẩm là đối tượng kinh doanh riêng của doanh nghiệp nhà nước do bị giới hạn tiêu thụ vì lý do văn hóa và đạo đức hoặc mặc nhiên độc quyền như sản phẩm thuốc lá, dầu khí, sản phẩm văn hóa như báo chí và tài liệu nghe nhìn, máy bay.
Tư hữu hóa và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: phải được thực hiện công khai, minh bạch thông qua các báo cáo hàng năm của Việt Nam cho tới khi kết thúc quá trình này.
Định giá và kiểm soát giá: Việt Nam tuân thủ các Hiệp định của WTO và thông báo cho WTO mọi hành động nhằm kiểm soát giá cả.
Khung hoạch định và thực hiện chính sách: một số khuôn khổ pháp lý và hành chính đã được đưa ra và đẩy mạnh để có thể áp dụng các điều khoản
của WTO, bao gồm khả năng điều tra và kiểm soát tư pháp để giải quyết các kiện tụng có liên quan.
Quyền xuất nhập khẩu: Đây là vấn đề gây căng thẳng trong đàm phán một phần vì các thủ tục đăng ký khác nhau giữa doanh nhân trong nước và ngoài nước. Hiện tại, luật mới đã được ban hành nhằm cân đối quy trình cho cả hai đối tượng.
Thuế suất cho hàng tiêu dùng nội địa: Các mức thuế khác nhau áp cho thức uống có cồn là vấn đề được quan tâm trong các cuộc đàm phán. Việt Nam đã đồng ý đơn giản hóa khung thuế suất trong vòng 3 năm bằng cách áp dụng mức thuế duy nhất cho tất cả các loại bia và tất cả các loại rượu có 20% cồn hoặc nhiều hơn.
Hạn ngạch và các hạn chế khác: hạn ngạch, cấm, hoặc các hạn chế khác sẽ được hủy bỏ, bao gồm quy định cấm nhập thuốc lá, xì gà và xe đã qua sử dụng, hoặc chỉ được áp dụng theo đúng quy định của WTO.
Các Hiệp định liên quan đến luật lệ của WTO: Việt Nam sẽ tuân thủ Hiệp định về Định giá thuế quan, Quy tắc về Xuất xứ, Kiểm hóa trước khi xếp hàng, Chống Phá giá, Biện pháp tự vệ, Trợ cấp, Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại với một số điều khoản được thực hiện theo lộ trình nhất định.
Hạn chế xuất khẩu: Việt Nam vẫn duy trì việc kiểm soát xuất khẩu trên một số mặt hàng như gạo, một số sản phẩm gỗ và khoáng chất (nhằm ngăn chặn việc khai thác bất hợp pháp) nhưng phải phù hợp với các Hiệp định của WTO.
Tiêu chuẩn: Việt Nam sẽ áp dụng các Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại và Kiểm dịch động, thực vật ngay lập tức.
Mua sắm của Chính phủ: Việt nam sẽ xem xét việc ký Hiệp định về Mua sắm của Chính phủ sau khi trở thành viên của WTO.
Sở hữu trí tuệ: gần 33 trang của báo cáo mô tả chi tiết cơ cấu pháp lý và hành chính của Việt Nam. Việt Nam sẽ tuân thủ ngay lập tức Hiệp định về Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS), không có giai đoạn chuyển đổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- GIÁO TRÌNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
Bộ Ngoại Giao – học viện quan hệ quốc tế
Sách: Hỏi đáp về WTO
Sử Việt Nam.
Giáo trình kinh tế quốc tế
Văn kiện gia nhập WTO
Dantri.com.vn
www.VNN.VN
www.hochiminhcity.gov.vn
www.wto.org
Chungkhoan.24h.com.vn
www.diendankinhte.info
……….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- wto_0694.doc