Trải qua quá trình đấu tranh phát triển của xã hội, các quyền của cá nhân ngày càng được phát triển, mở rộng. Trong các quyền dân sự của cá nhân thì quyền nhân thân là một phần rất quan trọng. Quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người nên đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Trong pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự (BLDS). Việc Nhà nước ban hành và quy định các quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS là sự khẳng định của Nhà nước đối với các giá trị của quyền nhân thân. Trong đó, đặc biệt phải kể đến Điều 34 BLDS 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể (BPCT) sau khi chết; Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT 2006 cũng quy định về các điều kiện của cá nhân hiến xác, hiến mô, BPCT của mình sau khi chết. Đây được xem là những quy định rất mới trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam, là bước đột phá và được coi là cuộc cách mạng trong quan niệm về sự sống, cái chết của con người.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, em không đi sâu vào tất cả các khía cạnh của ý nghĩa xã hội xung quanh vấn đề hiến BPCT, hiến xác sau khi chết của cá nhân mà chỉ tập trung về Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2149 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A – ĐẶT VẤN ĐỀ
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I – CƠ SỞ CỦA VIỆC HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT.
1. Cơ sở lý luận.
2. Cơ sở thực tiễn
II – NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC
CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT
1. Yếu tố kinh tế và xã hội.
2. Yếu tố tôn giáo và tâm lý.
3. Yếu tố văn hóa truyền thống.
4. Yếu tố trình độ dân trí.
III – QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Khái niệm, đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết
a. Khái niệm.
b. Đặ điểm.
2. Các nguyên tắc trong vấn đề hiến xác của cá nhân sau khi chết
3. Điều kiện hiến xác của cá nhân sau khi chết.
a. Điều kiện về chủ thể
b. Điều kiện về sức khỏe
c. Điều kiện về trình tự và thủ tục
d. Được pháp luật bảo đảm đúng mục đích của người hiến
IV – THỰC TRẠNG VỀ VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN HIẾN XÁC CỦA
CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
1. Thực trạng
2. Một số kiến nghị
C – KẾT THÚC VẤN ĐỀ
A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Trải qua quá trình đấu tranh phát triển của xã hội, các quyền của cá nhân ngày càng được phát triển, mở rộng. Trong các quyền dân sự của cá nhân thì quyền nhân thân là một phần rất quan trọng. Quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người nên đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Trong pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự (BLDS). Việc Nhà nước ban hành và quy định các quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS là sự khẳng định của Nhà nước đối với các giá trị của quyền nhân thân. Trong đó, đặc biệt phải kể đến Điều 34 BLDS 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể (BPCT) sau khi chết; Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT 2006 cũng quy định về các điều kiện của cá nhân hiến xác, hiến mô, BPCT của mình sau khi chết. Đây được xem là những quy định rất mới trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam, là bước đột phá và được coi là cuộc cách mạng trong quan niệm về sự sống, cái chết của con người. Trong phạm vi bài tiểu luận này, em không đi sâu vào tất cả các khía cạnh của ý nghĩa xã hội xung quanh vấn đề hiến BPCT, hiến xác sau khi chết của cá nhân mà chỉ tập trung về Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn.
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I - CƠ SỞ CỦA VIỆC HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT
1. Cơ sở lý luận:
Con người luôn là trung tâm, là tâm điểm hướng tới của mọi cuộc cách mạng xã hội. Việc ghi nhận các quyền của con người là một trong những yếu tố đánh giá sự tiến bộ của từng giai đoạn lịch sử, của từng nhà nước khác nhau. Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng các quyền của con người – trong đó có quyền nhân thân.
Con người có quyền quyết định đối với những gì thuộc về mình như quyền nhân thân, con người có quyền được bảo vệ tên tuổi, danh dự…có quyền cho hay không cho người khác sử dụng bộ phận của quyền nhân thân. Khi hiến xác thì những bộ phận trên cơ thể con người sẽ được dùng vào các mục đích y tế, nghiên cứu khoa học…
Về mặt sinh học, con người là một cơ thể thống nhất bao gồm nhiều bộ phận hợp lại để hoạt động. Tuy nhiên không phải ai sinh ra các BPCT cũng hoàn thiện mà có những người họ bị khuyết thiếu một bộ phận nào đó hay có những người sinh ra họ phát triển bình thường nhưng vì một lý do nào đó họ bị mất đi. Mặt khác, trên thực tế có những người do tai nạn hay vì tình thương, vì sự nhân đạo, họ tự nguyện hiến xác mình cho người khác để cứu chữa bệnh hay nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu khoa học.
Về mặt pháp lý, quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người đã được quy định trong Hiến pháp 1992 và BLDS 1995, và lần đầu tiên quyền hiến xác sau khi chết được thừa nhận và quy định tại Điều 34 BLDS 2005.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế cuộc sống cho thấy rằng nhiều trường hợp con người do tai nạn, do sự kiện bất ngờ dẫn đến chết lâm sàng hay chết thực sự. Tuy nhiên, một số bộ phận trên cơ thể của họ vẫn còn có thể dùng để chữa bệnh hoặc để nghiên cứu khoa học. Vì vậy mà họ muốn hiến xác cùng với các bộ phận trên cơ thể của mình cho các trung tâm nghiên cứu y học nhằm mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học.
Ở nước ta những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao thông hàng năm là rất lớn. Theo số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 2006 đã có 6000 người chết do tai nạn giao thông, cứ bình quân mỗi tháng là 1000 người chết (Báo Tuổi trẻ ngày 10/8/2006). Đó là một việc không may nhưng một người chết có thể cứu được ít nhất bảy người: 2 quả thận – 2 người, 2 lá phổi – 2 người, tim – 1 người, gan có thể cho 2 hoặc 3 người, chưa kể giác mạc và ruột cũng có thể cứu chữa người bệnh. Như vậy việc hiến xác của cá nhân có vai trò hết sức quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Sự nghiệp đổi mới mở cửa phát triển kinh tế, nhiều nhà máy, xí nghiệp ra đời và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện nhưng bên cạnh đó là mặt trái của quá trình phát triển kinh tế đã dẫn đến cạn kiệt tài nguyên, môi trường ô nhiễm, ngày càng nhiều loại bệnh phát sinh: viêm gan A, B, teo thận… Thực tế cho thấy một số nước trên thế giới như Pháp, Mỹ…đã cho phép hiến xác sau khi chết và đã đem lại những kết quả ấn tượng, mỗi người bệnh sau khi được ghép thận, gan có khả năng sống cao hơn, lâu dài hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với chạy thận nhân tạo… Việc pháp luật thừa nhận quy định quyền hiến xác sau khi chết sẽ tạo hành lang pháp lý để ngành giải phẫu học nước ta có những bước đột phá trong những năm tới.
II – NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT
1. Yếu tố kinh tế - xã hội
Pháp luật nước ta có sự điều chỉnh quy định nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều quy định mới được ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội mới. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân nâng cao, quyền lợi của con người ngày càng được bảo đảm, bảo vệ. Kinh tế phát triển sẽ có điều kiện đầu tư khoa học trong đó có giải phẫu nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu chữa trị bệnh cho con người để nâng cao chất lượng đời sống. Kinh tế phát triển, phúc lợi xã hội ngày càng cao, việc hiến xác được Nhà nước đài thọ hay Nhà nước lập qũy để hỗ trợ người bệnh, thu hút nhiều loại hình bảo hiểm hơn nữa để có thể hỗ trợ người bệnh trong qúa trình hiến, cấy ghép bộ phận cơ thể người khi hiến xác.
2. Yếu tố tôn giáo và tâm lý
Yếu tố này có ảnh hưởng vô cùng lớn đối với việc hiến xác kể cả khi người đó còn sống hay đã chết. Ngày nay tuy khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao trí tuệ nhưng tôn giáo vẫn không mất đi mà vẫn còn tồn tại do nhiều vấn đề con người vẫn chưa tìm ra lời giải đáp. Mặt khác, do yếu tố tâm lý con người vẫn chưa thoát khỏi ý thức hệ tư tưởng tôn giáo. Việc thừa nhận, quy định và thực hiện quyền hiến xác sau khi chết ở mỗi quốc gia có sự khác nhau do ảnh hưởng bởi những tôn giáo khác nhau, những tôn giáo khác nhau có những triết lý khác nhau, do đó có tác động khác nhau đến vấn đề này.
3. Yếu tố văn hoá truyền thống
Yếu tố văn hóa là cơ sở nền tư tưởng của đời sống xã hội của một quốc gia, nó có tác động không nhỏ đến xây dựng, tạo lập nội dung của văn bản pháp luật của mỗi nước. Đặc biệt là những vấn đề nhạy cảm trong đó có quyền hiến xác sau khi chết. Đại bộ phận người dân Việt Nam có quan niệm “sống thác, gửi về”, “sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả bát cơm” hay “thế giới bên kia của người chết” do vậy những thủ tục mai táng, giữ gìn phần mộ, phần tro của hài cốt do được hóa thân của người chết được coi là những việc quan trọng trong cuộc sống của cá nhân, mỗi cộng động dòng họ, nó thể hiện bản chất hiếu, nghĩa và lễ đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam. Vì thế việc hiến xác là những quy định hiện hành trong chừng mực nào đó được thực hiện trong xã hội Việt Nam đương thời không hẳn là không có những cản trở nhất định.
4. Yếu tố trình độ dân trí
Đây là yếu tố tác động sau và xâu chuỗi hầu hết các vấn đề bảo đảm quyền hiến xác người được quy định và đáp ứng được thực tế cuộc sống phù hợp với quy luật cuộc sống. Việc phát triển đội ngũ tri thức sẽ giúp xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về quyền hiến xác sau khi chết và có thể đảm bảo cho việc thực thi quyền này có hiệu quả hơn.
III - QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Khái niệm và đặc điểm về quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết
a. Khái niệm
Quyền hiến xác là quyền nhân thân của cá nhân quy định ở Điều 34 BLDS 2005: “Cá nhân có quyền hiến xác, BPCT của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng xác, BPCT của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Cũng như các quyền nhân thân khác, quyền hiến xác sau khi chết luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, không thể dịch chuyển cho chủ thể khác, không xác định được bằng tiền.
b) Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết:
Với tư cách là một quyền nhân thân, quyền hiến xác của cá nhân mang những đặc điểm chung của quyền nhân thân, đó là:
- Tính chất cá nhân tuyệt đối.
Quyền nhân thân luôn gắn với một cá nhân xác định, không được phép chuyển giao cho người khác. Quyền nhân thân thuộc về cá nhân cụ thể từ khi người đó được sinh ra hoặc theo những căn cứ khác do pháp luật quy định. Là các yếu tố cấu thành không thể tách rời khỏi cá nhân chủ thể, những giá trị nhân thân được cá thể hoá, làm cho bản thân người mang các giá trị đó là hoàn toàn không thể lặp lại.
- Tính không được xác định bằng tiền.
Về cơ bản, chủ thể của quyền nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không được hưởng lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, có những trường hợp đặc biệt, quyền nhân thân mang lại lợi ích vật chất cho chủ thể quyền. Những lợi ích vật chất mà chủ thể quyền được hưởng ở đây có được là do giá trị tinh thần mang lại. Như vậy, một trong những tiêu chí phân loại quyền nhân thân là dựa vào yếu tố tài sản, theo đó, có thể chia quyền nhân thân làm 2 loại: quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Theo cách phân loại này, quyền hiến xác thuộc nhóm quyền nhân thân không gắn với tài sản.
- Quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự kiện pháp lý mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật.
- Quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Người có quyền này đối kháng với một phạm vi không xác định các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng giá trị nhân thân được bảo vệ.
Bên cạnh các đặc điểm chung của quyền nhân thân, quyền hiến xác còn có đặc điểm riêng biệt, đó là: mục đích chủ yếu của việc thực hiện quyền này không phải đem lại lợi ích cho chủ thể quyền như đại đa số các quyền nhân thân khác, mà nhằm đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích mà chủ thể quyền đạt được chủ yếu là lợi ích tinh thần, là niềm vui khi cứu sống được người khác đang mắc bệnh hiểm nghèo, đặc biệt khi người bệnh lại là người thân thích, ruột thịt của mình; hoặc niềm vui khi thấy mình cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Lợi ích của chủ thể quyền thực sự rất khiêm tốn so với lợi ích to lớn mà xã hội nhận được từ việc người đó thực hiện quyền của mình. Rõ ràng, mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết định đối với thân thể của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản. Khi một cá nhân đã có nguyện vọng hiến xác mình để chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học, thì những người khác, kể cả những người thân thích, ruột thịt cũng không được cản trở. Thông thường, việc hiến xác không chỉ là một quyết định khó khăn đối với người hiến mà còn có thể tác động lớn về mặt tinh thần đối với gia đình, với những người thân thích của người đó, bởi không ai muốn bản thân mình và những người thân yêu của mình khi chết đi có một cơ thể không toàn vẹn. Vì vậy, việc ghi nhận “quyền” hiến xác chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Tuy nhiên, dù cho mỗi cá nhân có quyền tự quyết định, tự định đoạt đối với thân thể của mình, nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật
2. Các nguyên tắc trong vấn đề hiến xác của cá nhân sau khi chết
Với mục tiêu cao nhất là bảo vệ con người, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để ngành y tế Việt Nam triển khai các hoạt động cấy, ghép, thay thế, trị liệu của mình, đảm bảo nhu cầu bảo vệ sức khỏe cho nhân dân trên cơ sở tôn trọng những giá trị tốt đẹp và nhân bản vốn có của y học, pháp luật các nước trên thế giới đã cho ra đời bộ nguyên tắc về hiến xác sau khi chết.
Pháp luật mỗi nước khác nhau thì bộ nguyên tắc này có những cách thể hiện rất khác nhau nhưng nội dung mấu chốt vẫn xoay quanh các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, chúng được ghi nhận tại Điều 4 Luật Hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác 2006, cụ thể :
Tự nguyện
Hiến xác là quyền cơ bản của mỗi cá nhân không phải là nghĩa vụ, không ai có quyền ép buộc hoặc cản trở người hiến thực hiện quyền này. “Tự nguyện” được hiểu là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên trong của cá nhân và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài. Vì vậy, muốn chứng tỏ người hiến xác là tự nguyện, người đó phải bày tỏ ý chí của mình cho mọi người xung quanh được biết. Do ý nghĩa và tính chất quan trọng của việc hiến bộ phận cơ thể, ý chí của người hiến phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản, chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường
Tự nguyện luôn là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong pháp luật của tất cả các nước, được đòi hỏi như là điều kiện cần cho hoạt động hiến xác. Trong hoạt động này nhất thiết phải có sự đồng ý của chủ thể hiến, không thể đề cập đến nguyên tắc nào khác nếu không nhắc đến sự tự nguyên. Tự nguyện ở đây không phải là tự nguyện hoàn toàn, có nghĩa quyết định hiến của cá nhân phải được đưa ra trong trạng thái bình thường, minh mẫn, sáng suốt trên cơ sở họ được thông tin. Nguyên tắc tự nguyện cho phép chủ thể có quyền thay đổi, hủy bỏ việc hiến bất cứ thời điểm nào họ muốn mà không cần đưa ra lý do hay sự giải thích.Ngoài ra, việc sử dụng xác hiến khác với mục đích đã xác định ban đầu của người hiến thì phải có sự đồng ý của người đó. Ở đây, mọi lựa chọn của người hiến đều được tôn trọng; không một cá nhân, tổ chức nào có thể can thiệp vào sự định đoạt ấy của họ.
b) Mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học Bởi CON NGƯỜI là giá trị cao quý nhất, là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật, tất cả là vì con người và cho con người, trong đó, quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để thực hiện các quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh của việc hiến bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu
Trên cơ sở bảo vệ nhân phẩm con người chống lại mọi hình thức sử dụng thân thể như một phương tiện nhằm thỏa mãn bất kỳ một mục đích nào, pháp luật luôn đặt con người ở vị trí chủ thể, phân biệt rõ ràng con người với những vật thể khác. Vì thế, bằng cách này hay cách khác “thủ thuật y học chỉ hợp pháp nếu thủ thuật đó tôn trọng một số điều kiện có bản chất là giữ gìn và bảo vệ con người”, theo cách đó cơ thể con người không thể bị xâm hại.
Pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý của chủ thể để có thể tiến hành một sự xâm hại đến cơ thể người đó nhưng chỉ là điều kiện cần, có tính tiên quyết nhưng chưa đủ. Người ta không thể xâm hại đến cơ thể một người chỉ với sự cho phép của chính họ, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học phục vụ cộng đồng và toàn bộ hoạt động này đều phải tiến hành trên tinh thần phi lợi nhuận.Nguyên tắc hiến vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học đòi hỏi hoạt động hiến xác mục đích hiến luôn phải xác định trước và rõ ràng, không thể khác mục đích đó. Mọi hoạt động hiến xác ngoài mục đích trên đều bị coi là vi phạm pháp luật. Đây là sự cụ thể hóa Điều 34 BLDS 2005, một biểu hiện cao đẹp của lòng nhân ái, tinh thần giác ngộ khoa học, khẳng định tính nhân bản vì con người của cộng đồng. Trong đó, mục đích chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học rất rõ nét nhưng mục đích nhân đạo mà luật đề cập tương đối không rõ ràng vì khả năng này quá rộng, hiểu chung nhất là vì lợi ích cộng động nên khó hình dung và có thể gây tranh cãi.
c) Không nhằm mục đích thương mại( phi thương mại)
Nguyên tắc này được áp dụng với tư cách là điều kiện đủ trong hoạt động hiến xác sau khi chết. Và vì thế nó trở thành nguyên tắc quan trọng, bao trùm lên toàn bộ hệ thống các quy định của pháp luật về vấn đề hiến xác sau khi chết.
Ta đã biết nguy cơ xác người trở thành hàng hoá giao dịch trên thị trường đang hiện hữu ngày càng rõ nét. Pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán BPCT người, nhưng quan điểm của Việt Nam là không chấp nhận thương mại hoá các BPCT người. Nguyên tắc không nhằm mục đích thương mại xuất phát từ đối tượng đặc biệt của quyền hiến xác là xác, BPCT người, đây là những bộ phận tạo nên một con người hoàn chỉnh, gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình thường của con người, không thể là vật đem ra mua bán, trao đổi. Hơn nữa, hiến tặng xác người là nghĩa cử vô cùng cao đẹp – ban tặng niềm hy vọng vào sự hồi sinh, vào cuộc sống mới cho người khác. Điều quan trọng hơn, một khi hoạt động “bán” xác cùng với BPCT được thừa nhận sẽ dẫn đến tình trạng hết sức nguy hiểm – những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán này có thể làm cho những kẻ chuyên kinh doanh BPCT người sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác, thậm chí giết người để lấy xác họ.
Vì những lý do nêu trên, pháp luật khi ghi nhận quyền hiến xác phải định ra một giới hạn, đó chính là giới hạn về mục đích của việc hiến xác. Nguyên tắc này bao gồm hai nội dung chính:
Không trả tiền cho việc hiến xác. Theo nội dung này, không có việc đền bù tài chính trực tiếp cho người hiến; họ không có quyền đòi hỏi bất kỳ hình thức nào từ hành vi hiến của mình. Người nhận cấy, ghép, sử dụng giảng dạy, nghiên cứu cũng không phải trả bất cứ khoản nào do việc được xác người. Đối với bác sỹ thực hiện kỹ thuật lấy cũng không được trả thêm tiền vì tiến hành phẫu thuật. Đây phải được coi là một nhiệm vụ của bác sĩ hưởng lương tại cơ sở y tế.
Cấm quảng cáo cho một người hay cho một tổ chức cụ thể. Nội dung này đòi hỏi hoạt động cung cấp thông tin, giới thiệu, môi giới về nhu cầu hiến, nhận xác người cho một người, một tổ chức cụ thể mang tính thương mại đều bị cấm.Tuy nhiên, trong hoạt động này do tính nhạy cảm đặc biệt nên thông tin tuyên truyền là hết sức quan trọng, chính nó quyết định sự thành công hoặc thất bại của chúng ta. Sẽ không thể xây dựng được chương trình hiến xác thành công nếu không thực hiện các hoạt động thông tin, tuyên truyền rộng rãi đối với nhân dân. Như vậy nếu việc thông tin, tuyên truyền không được kiểm soát chặt chẽ rất dễ dẫn đến hiện tượng lách luật, biến tướng thành quảng cáo, môi giới thương mại. Để có thể làm tốt công tác vận động, tuyên truyền, ngăn chặn được những biến tướng quảng cáo thương mại xác người ta cần phải có một chương trình, một kế hoạch thông tin, tuyên truyền, nằm trong chính sách chung của ngành y tế. Các biến tướng thương mại rất tinh vi nên mọi hoạt động cũng như nội dung của các chiến dịch tuyên truyền nội dung phải được Bộ Y tế cho phép.
d) Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật có quy định khác Đây là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo trật tự các quan hệ xã hội, ngăn chặn hiện tượng thương mại hóa xác người đồng thời bảo vệ người hiến, nhận về mặt riêng tư cá nhân. Nguyên tắc này rất quan trọng, nó cho phép tránh mọi áp lực không cần thiết về tinh thần cũng như vật chất từ phía người hiến, nhận và gia đình họ với nhau. Qua đó ngăn chặn khả năng thương mại hóa do quan hệ trực tiếp giữa các đối tượng này.
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu: mọi thông tin về người hiến, nhận đều phải được mã hóa và bảo mật, người hiến không được biết căn cước người nhận và ngược lại, cấm tiết lộ bất cứ thông tin nào cho phép xác định người hiến, nhận. Bảo mật thông tin là những nhiệm vụ bắt buộc của các nhân viên hoạt động trong mạng lưới hiến tặng. Ngoài bốn nguyên tắc cơ bản trên đây, tuy không được luật Việt Nam trực tiếp quy định nhưng trên tinh thần của Luật, khi tiếp cận vấn đề hiến xác người sau khi chết cần phải tuyệt đối tôn trọng:
e) Tôn trọng cơ thể con người:
Tôn trọng cơ thể con người (hay không công cụ hóa cơ thể người) là những nguyên tắc cội rễ của cả bốn nguyên tắc trên. Tuy nhiên không phải vì thế mà ta không đề cập đến nguyên tắc này nữa. Bởi nguyên tắc tôn trọng cơ thể con người vô cùng quan trọng, có sức bao quát tất cả các trường hợp có thể phát sinh trong đời sống dân sự liên quan đến công nghệ y sinh học vốn rất đa dạng và vô cùng nhạy cảm, phức tạp. Chính vì thế mà nó có tác động định hướng tương lai, tìm kiếm sự đồng thuận giữa các quan điểm khác nhau và có giá trị tuyên truyền trong cộng đồng.
Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội. Yếu tố con người luôn được nhấn mạnh, tô đậm, đặt lên hàng đầu. Quyền đầu tiên, cơ bản nhất của con người là quyền sống, tức là cơ thể của họ phải được tôn trọng, “pháp luật bảo đảm vị trí tối cao của con người, nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm đến nhân phẩm và bảo đảm cho con người được tôn trọng ngay từ khi mới bắt đầu sự sống” (Điều 16 Luật dân sự Pháp). Sự tôn trọng cơ thể con người tạo nên tính bất khả xâm phạm của nó: mỗi cá nhân có quyền được toàn vẹn về thân thể, được bảo vệ, chống lại mọi sự xâm phạm của người khác, ngay cả khi đã chết. Điều này đòi hỏi trách nhiệm của các cơ sở y tế phải khôi phục về mặt thẩm mĩ thi thể sau khi lấy xác người đó hay khi không còn nhu cầu sử dụng cho mục đích nghiên cứu, giảng dạy thì xác của người được tiến hành hủy, thi thể được mai táng, tất cả đều phải được thực hiện với sự trang trọng, kính cẩn.
g) Quyền được thông tin của người hiến
Được thông tin là quyền cơ bản và quan trọng của cả người hiến, nhận. Nó xuất phát từ quyền được tôn trọng của người bệnh đã được áp dụng từ lâu trong ngành y tế. Đây là nội dung quyền không thể thiếu cũng là quyền đầu tiên của họ. Bởi như đã phân tích, sự đồng ý của người hiến phải trên cơ sở được thông tin đầy đủ, rõ ràng, không thể có sự che giấu nào của bác sĩ hay sự nhầm lẫn nào của người hiến, cho phép họ có sự cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa ra quyết định. Vì vậy các văn bản khuyến nghị quốc tế đều đề quyền này thành nguyên tắc.
Việt Nam không quy định đây là nguyên tắc hay một quyền cụ thể trong các văn bản pháp luật mà chỉ thể hiện nội dung quyền này trong rải rác các quy định về thủ tục hiến với tư cách trách nhiệm tư vấn các thông tin một cách chung chung của cơ sở y tế trong hệ thống hiến xác người. Thông tin được cung cấp ở đây phải đáp ứng hai thuộc tính đúng và đủ.
Nội dung thông tin thuộc quyền của người hiến không phải là những thông tin cho phép xác định danh tính người nhận nên không trái với nguyên tắc bảo mật thông tin. Nguyên tắc quyền được thông tin chính là thể hiện sự thận trọng, minh bạch từ phía hệ ngành y tế, cũng là tạo niềm tin cho nhân dân đối với hoạt động hiến xác sau khi chết vô cùng cao cả và nhạy cảm này.
3. Điều kiện hiến xác của cá nhân sau khi chết
a. Điều kiện về chủ thể:
Quyền hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về năng lực hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền xác hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nước trên thế giới có sự quy định khác nhau về độ tuổi đối với người hiến xác sau khi chết. Ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên mới có quyền đăng ký từ chối hiến xác, BPCT sau khi chết (tức là sau khi một người bị chết đi, cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ kiểm tra xem người đó có thể đăng ký từ chối hiến xác không, nếu không có thì cơ sở y tế có thẩm quyền gián tiếp suy luận là người đó đã đồng ý hiến). Ở nước ta, Điều 5 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.
Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền hiến xác sau khi chết. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật
b. Điều kiện về sức khỏe
Việc hiến xác sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo dài sự sống cho người bệnh. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, BPCT của người hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm.
Bên cạnh các quy định về điều kiện hiến xác sau khi chết, cơ sở y tế có thẩm quyền để có thể lấy được xác, bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết, Luật cũng xác định thêm một số điều kiện khác như: điều kiện xác định chết não, liệu có cần sự đồng ý của gia đình người hiến không trong trường hợp người thân của họ muốn hiến xác, bộ phân cơ thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên mà tự nguyện làm đơn hiến xác sau khi chết thì không cần sự đồng ý của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra trường hợp người hiến xác sau khi chết nhưng khi họ chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì gia đình người hiến không đồng ý, trường hợp này cơ sở y tế có được quyền cưỡng chế lấy không? Vấn đề này ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện tử xem người đó có đăng ký từ chối hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác sau khi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng không lấy xác.
c. Điều kiện về trình tự và thủ tục: Được quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến xác năm 2006.
Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác tự nguyện hiến xác, BPCT, có đơn gửi đến cơ sở y tế hay cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học để đăng ký và được cấp thẻ đăng ký hiến xác sau khi chết.
Trình tự thủ tục của việc hiến xác được quy định tại Điều 19 như sau:
Khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến xác, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến quy định tại Điều 23 của Luật này.
Khi nhận được thông báo về trường hợp hiến xác, cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến có trách nhiệm sau đây:
a) Trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan về hiến xác;
b) Hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn;
c) Cấp thẻ đăng ký hiến xác cho người hiến.
Việc đăng ký hiến xác có hiệu lực kể từ khi người đăng ký được cấp thẻ đăng ký hiến.
Cá nhân có quyền thay đổi hay hủy bỏ đơn đã đăng ký, thì phải có đơn thay đổi hay hủy bỏ đơn đăng ký tự nguyện. Theo đó cơ sở y tế hay cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học có trách nhiệm tiếp nhận đơn và cấp lại đơn hay hủy bỏ đơn của các cá nhân tự nguyện hiến xác sau khi chết. Các loại đơn khi bị hủy bỏ hay được thay đổi, có hiệu lực ngay sau khi đăng ký hiến được thay đổi hay tên đăng ký của người hiến được loại bỏ khỏi danh sách đăng ký hiến.
d. Việc hiến xác sau khi chết phải được pháp luật bảo đảm đúng mục đích của người hiến
Theo quy định của pháp luật, thì cá nhân có quyền hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hay nghiên cứu khoa học. Nếu người nhận xác của người hiến sau khi chết đã không sử dụng đúng với những mục đích do pháp luật quy định thì bị coi là hành vi trái pháp luật. Luật Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến lấy xác đã có nhiều quy định ngăn cấm trộm mô, BPCT người, cấm buôn bán mô, BPCT người dưới bất kỳ hình thức nào, cấm lấy, ghép, sử dụng, vận chuyển mô, BPCT người vì mục đích vụ lợi và cấm quảng cáo tìm người tự nguyện cho mô, BPCT người vì mục đích lợi nhuận. Vì mô, BPCT người và xác sau khi chết không thể là hàng hóa và việc cá nhân tự nguyện hiến các đối tượng này đã mang bản chất của giao dịch không có đền bù, và về thực chất không thể đền bù vì BPCT người không thể quy đổi thành tài sản.
Việc sử dụng xác người sau khi chết phải đúng với mục đích và ý nguyện của người hiến, nếu trái với ý nguyện của người hiến thì người có hành vi làm trái là người xâm phạm đến các quyền gắn với người chết và trách nhiệm của người vi phạm được xác định là hành vi xâm phạm thi thể của người chết, thuộc loại trách nhiệm do gây thiệt hại ngoài hợp đồng, phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 628 BLDS về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể.
IV - THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN HIẾN XÁC, BPCT CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY
1. Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết
Quyền hiến xác người sau khi chết lần đầu tiên được thừa nhận và quy định tại Điều 34 BLDS 2005 và Luật Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác 2006 mặc dù việc hiến, cấy, ghép BPCT người đã được nghiên cứu và thực hiện trước đó hàng chục năm.
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê, nhu cầu cần được hiến, lấy, ghép mô, BPCT người ở nước ta là rất lớn và ngày càng gia tăng. Cụ thể, cả nước có khoảng 5000 - 6000 người suy thận mãn cần được ghép thận. Tại 5 bệnh viện lớn ở Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Ước tính, do không có nguồn của người cho thận, cho gan, ở Việt Nam đã có hơn 200 người phải sang Trung Quốc và một số nước khác để ghép thận, ghép gan.
Không chỉ là ghép thận, ghép gan, số bệnh nhân cần phải ghép giác mạc cũng ngày càng tăng. Đến nay có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên. Từ năm 1985 đến nay, Viện mới chỉ ghép được 1.500 ca, riêng năm 2004 ghép được 103 ca, năm 2005 ghép được 150 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài (khoảng 50-100 giác mạc/năm), số còn lại được lấy từ bệnh nhân bị bỏ nhãn cầu do chấn thương và các nguyên nhân khác mà giác mạc có đủ tiêu chuẩn sử dụng.
Trước nhu cầu cấp bách trên, ngay từ năm 1992, Nhà nước đã đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, cán bộ nên cho đến nay, Việt Nam đã có 10 bệnh viện có đủ khả năng và điều kiện ghép thận và đã tiến hành thí điểm việc ghép thận, gan. Tính đến 20/03/2006, các bệnh viện trên đã ghép thành công được 161 ca, trong đó có 158 ca ghép thận và 04 ca ghép gan. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương, chưa có trường hợp nào lấy bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết.
Mặt khác, nhu cầu về giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên xác chết rất lớn. Vào những thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ trước, cứ 6 – 7 sinh viên có 1 xác chết để học tập, nghiên cứu giải phẫu, nhưng đến nay, cả khoá trên dưới 400 sinh viên mới chỉ có 1 xác chết, thậm chí phải dùng lại nhiều lần do không có xác (theo báo cáo của Trường Đại học y Hà Nội, cả Trường hiện có 22 xác chết; Trường Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh có 173 xác chết).
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca ghép thận, 80 – 100 ca ghép gan, 20 – 30 ca ghép tim và 10-15 ca ghép phổi, 2.000 ca ghép giác mạc, chúng ta phải cần nhiều mô, BPCT người hiến mang tính chất tự nguyện, nếu chỉ chờ vào nguồn hiến BPCT người của người thân là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô, BPCT ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết.
Có thể nhận thấy rằng trước năm 2005 về mặt pháp lý chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này tức là chưa có văn bản pháp luật nào thừa nhận quyền hiến xác. Do vậy thực tiễn vấn đề này từ năm 2005 trở về trước ít người hiến xác vì: Do pháp luật chưa quy định cụ thể vấn đề này. Do văn hóa người Việt “chết phải toàn thây”. Do tôn trọng đạo giáo, người ta quan niệm do chúa trời sinh ra do đó họ không có quyền quyết định BPCT họ. Do người dân không nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc hiến mô tạng cứu người do đó họ không hiến hay tỏ ra thờ ơ không quan tâm.
Từ khi BLDS 2005 ra đời và có hiệu lực 01/01/2006 thì tại Điều 34, lần đầu tiên trong lịch sử luật đã thừa nhận quyền hiến xác, BPCT người sau khi chết của cá nhân. Đây là một điểm vô cùng tiến bộ của pháp luật nước ta nó cũng phản ánh tư duy của các nhà làm luật cũng có nhiều đổi mới và nắm bắt được tình hình thực tế. Tuy nhiên từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay thì người ta thấy thực tế số người tham gia hiến xác, BPCT sau khi chết có tăng nhưng tăng rất ít, hầu như không đáng kể , có rất nhiều nguyên nhân như đã nêu ở trên ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như: do từ khi quyền này có hiệu lực pháp lý đến nay mới được gần 3 năm do vậy cần có một thời gian để thích nghi, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ y, bác sỹ…
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này
Việc hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là việc làm cao thượng của người quá cố, là một quyền dân sự thể hiện sự tự định đoạt của cá nhân, cần phải được mọi người trong xã hội tôn trọng. Nhưng sự toàn vẹn cơ thể người chết là một vấn đề nhạy cảm đối với bản thân người chết cũng như đối với gia đình họ. Dân gian rất kiêng kỵ “cái chết không toàn thây” nên dù cho việc hiến xác của người chết là một nghĩa cử cao thượng đi nữa, thì cũng rất dễ bị những người thân thích nhất phản đối, dẫn đến việc khó mà lấy được xác của người chết. Cả về pháp lý và về đạo lý, người ta không thể kiện ra tòa để yêu cầu một phán quyết ngay lập tức của tòa án về việc buộc những người thân của người chết phải giao xác người. Cho dù đã cầm được một quyết định có hiệu lực của tòa án, cơ quan thi hành án cũng khó có thể cưỡng chế thân nhân người chết phải giao xác chết, trong khi gia đình của họ đang tổ chức việc tang. Nếu cứ cưỡng chế để buộc những người này phải giao thi thể của người chết, thì không phù hợp với tình cảm và đạo lý con người. Do đó, việc hiến tặng xác và bộ phận cơ thể như đã nói trên vừa phải được sự đồng ý của người quá cố trước khi chết, đồng thời phải không có sự phản đối của những người thân thích của người chết.
Về nội dung và về kỹ thuật liên quan đến vấn đề này, có những ý kiển về sửa đổi những điểm sau đây:
a. Cần phải bổ sung về thủ tục và điều kiện thể hiện sự đồng ý của người quá cố.
Con người được quyền chết trong sự toàn vẹn thân thể. Nhưng chết là không còn đối chứng, nên không thể dựa vào “lời trăn trối” hay lời kể của một ai đó để chứng minh sự đồng ý của người chết mà việc đồng ý đó phải thể hiện bằng một bằng chứng rõ ràng, chẳng hạn bằng một bức thư, trong di chúc hay bằng một văn bản riêng thể hiện ý nguyện hiến tặng xác cho một cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền và xác định. Do vậy, có kiến nghị bổ sung đoạn 1 qui định: “Việc hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác phải được người chết tự mình thực hiện một cách tự nguyện, bằng văn bản. Nội dung văn bản phải ghi rõ ngày tháng năm lậpvăn bản; họ, tên, tuổi, địa chỉ của người hiến tặng thi thể hay bộ phận cơ thể sau khi chết; chỉ định người có quyền nhận thi thể hay bộ phận cơ thể là cá nhân, tổ chức y tế hữu quan…”.
b. Qui định việc người chết hiến xác của họ phải được những người thân “đồng ý” như đoạn hai của điều luật là cần thiết và hợp tình, nhưng chưa hợp lý và không khả thi.
Việc lấy xác người chết ngoài việc phải được chính người chết đồng ý trước khi chết, nhà làm luật còn phải tính đến thực tế xã hội, những biểu hiện tâm lý, tình cảm và các phong tục tập quán của người Việt Nam. Vì nếu việc lấy xác của người chết mà bị những người thân thích của họ (được kể trong điều luật) phản đối, không cho mang xác chết đi, thì người được chỉ định nhận xác người chết cũng không thể thực hiện được ý nguyện của người đã chết. Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, thì qui định về vấn đề này trong Dự thảo còn có hai điểm bất lợi, đe dọa khả năng có thể lấy được xác của người chết:
+ Thứ nhất, điều luật qui định “phải được sự đồng ý” của tất cả những người được liệt kê là không khả thi trong nhiều trường hợp. Qui định như vậy sẽ đe dọa đến sự an toàn pháp lý cho những người trực tiếp tiến hành các hoạt động lấy xác người chết. Vì những người thân thích chưa thể hiện ý chí hoặc có nhiều người đã không có mặt để ký tên thể hiện sự đồng ý cho lấy xác có thể sẽ khởi kiện những người có liên quan đến việc lấy xác người chết. Ngược lại, để có thể lấy được tất cả các chữ ký của những người thân thích của người chết thì quả là chuyện không đơn giản, nhất là những người đang vắng mặt hoặc những người có mặt tuy không phản đối, nhưng lại không chịu ký tên vào văn bản thể hiện sự đồng ý của mình. Đó là chưa kể việc yêu cầu ký tên đồng ý vào văn bản cho lấy xác có thể sẽ gợi thêm cho họ những tình cảm thiêng liêng đối với người chết. Không qui định về “sự đồng ý” của người thân thích thì sẽ không phù hợp với thực tế, nhưng phải có “sự đồng ý” của tất cả những người thân thích thì điều luật sẽ trở nên không khả thi và không thực hiện được quyền định đoạt cá nhân đối với thân thể của mình và vì thế cũng sẽ không thực hiện được ý nguyện cao thượng của người quá cố. Do đó, để dung hòa giữa hai loại quyền nói trên, nên thay cụm từ “được sự đồng ý của…” trong Dự thảo thành “nếu không bị phản đối bởi…”. Hậu quả của việc “đồng ý” so với hậu quả của việc “không bị phản đối” là rất khác nhau. Theo Dự thảo, việc lấy xác của người chết phải được sự đồng ý, tức buộc phải có chữ ký của những người thân thích của người chết, trong một văn bản, khi thể hiện “sự đồng ý”. Ngược lại, nếu qui định “không có sự phản đối” thì chỉ cần họp mặt những người thân thích của người chết như đã kể trong điều luật và lập biên bản ghi nhận việc có thông báo về việc lấy xác của người chết mà không có ai phản đối và người đại diện trong gia đình thay mặt ký tên. Giữa thái độ “phản đối” và thái độ “đồng ý” rõ ràng là có sự khác biệt. So với việc phải thuyết phục tất cả người thân thích “đồng ý”, thì qui định “không phản đối” là dễ thực hiện và khả thi hơn vì khi lấy xác, mà những người thân thích không nói gì, thì đó làmặc nhiên được hiểu là họ “không phản đối”, không cần phải thuyết phục. Ngược lại, nếu bắt buộc phải có sự đồng ý của tất cả những người thân thích thì phải thuyết phục, còn nếu không có đủ chữ ký xác nhận sự đồng ý của những người thân thích như qui định của điều luật trong Dự thảo, thì coi như chưa đủ thủ tục để có thể lấy xác người chết, và có thể bị kiện vì xâm phạm tới thi thể người chết trái với ý chí những người thân thích của người chết. Đồng thời, phải bổ sung về điều kiện để những người thân thích nhất (cha, mẹ, vợ, chồng, các con của người chết) có quyền phát biểu ý kiến phải là người đã thành niên hoặc chưa thành niên nhưng từ đủ 15 tuổi trở lên.
+ Thứ hai, cần dự trù các trường hợp những người thân thích được liệt kê trong điều luật đều không có năng lực để thể hiện ý chí hoặc người chết là người độc thân, không còn người thân thích. Do vậy, cần bổ sung vào cuối đoạn 2 qui định sau: “…, trừ trường hợp người chết không có ai là người thân thích hoặc không có ai trong số những người thân thích kể trên có đủ năng lực hành vi dân sự để thể hiện ý chí phản đối, thì không cần hỏi ý kiến của những người này. Trong trường hợp này, người có quyền nhận xác vẫn lập biên bản ghi rõ tình trạng không có người thân hoặc lý do mà những thân thích không phản đối”. Qui định này bảo đảm cho điều luật chặt chẽ và khả thi hơn nếu xảy ra tình trạng như vừa nêu. Theo đó, dù cho người chết không có người thân thích hoặc có người thân thích, nhưng không có ai có đầy đủ năng lực hành vi, thì việc lấy xác vẫn được tiến hành bình thường mà không cần phải có đủ thủ tục lập văn bản về việc đồng ý hay phản đối của người thân thích của người chết.
c) Về năng lực chủ thể của người hiến xác sau khi chết
Về độ tuổi của người hiến xác sau khi chết theo Điều 22 của Luật, trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác người sau khi chết, theo em, Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý. Bởi vì:
- Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận xác của người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký hiến sau khi chết, nhưng gia đình của họ có đơn muốn hiến.
- Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực chủ thể tức khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn đặt ra, còn trường hợp người đó đã chết nếu trên cơ sở quy định pháp luật đã được gia đình đồng ý thì người hiến đó không cần thiết phải là đủ 18 tuổi trở lên theo quy định của Luật mà có thể thấp hơn.
- Thứ ba, theo BLHS 1999 lứa tuổi 14 đã có được những sự phát triển nhất định cho phép khả năng suy nghĩ độc lập và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Không có lý gì các em phải chịu trách nhiệm về việc làm sai của mình lại không có quyền thực hiện một lựa chọn không có hại cho các em mà còn có ích cho cộng đồng.
Về năng lực chủ thể của người hiến là cần thiết trong trường hợp người đó hiến xác của mình khi còn sống hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy nhiên, trường hợp mà người chết không để lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến xác của con mình nhằm mục đích cứu chữa người bệnh thì vấn đề năng lực nhận thức của người đó không nên đặt ra, bởi cho dù người đó có thể bị rơi vào trường hợp bị tâm thần hoặc mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng không có nghĩa là BPCT nào của họ cũng bị ảnh hưởng hoặc không sử dụng được để cứu chữa người bệnh. Do đó, chúng ta không nên đặt ra vấn đề khả năng nhận thức cũng như năng lực hành vi của người hiến trong những trường hợp như trên.
d) Về sức khỏe đối với người hiến xác sau khi chết
Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với người hiến trong quá trình hiến mô, BPCT người nhằm cứu chữa người bệnh. Do vậy có thể dễ dàng nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa bệnh, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người hiến mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe của người nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác vào mục đích nghiên cứu khoa học thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của người hiến, bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người bệnh. Vì vậy, dù là người có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác sau khi chết nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận được.
e) Một số kiến nghị liên quan khác
- Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị tuyên tử hình có quyền hiến xác của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này. Ví dụ, cần phải bãi bỏ quy định không cho mang xác tù nhân ra khỏi pháp trường…Đây là một vấn đề nhạy cảm nên cần phải có sự cân nhắc thận trọng giữa việc đảm bảo an ninh, an toàn, vấn đề nhân đạo, sức khỏe nhân dân.
- Về vấn đề chết não : Chết não là vấn đề khá nhạy cảm, vì bệnh nhân tim còn đập và mặc dù rằng chắc chắn họ không bao giờ sống lại được nhưng thân quyến thực sự khó chấp nhận cho cán bộ y tế ngừng mọi biện pháp hồi sức, thở máy, truyền dịch.... để mổ lấy phủ tạng. Vì vậy có ý kiến cho rằng cần có quy định pháp lý rõ ràng để tránh khiếu kiện về sau.
Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến xác sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác là một trong hai mục đích quan trọng được ghi nhận trong BLDS 2005 (đó là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề này nhằm tránh việc các tổ chức, cá nhân lợi dụng để bí mật bán mô, tạng của xác vì mục đích thương mại. Đồng thời, cũng nên quy định những trường hợp mà người hiến xác người vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học nhưng mục đích đó không được thực hiện, thì gia đình người hiến có thể được lấy lại xác để mai táng theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu. Các văn bản dưới Luật cũng cần phải quy định rõ vấn đề này.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với những biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Bộ luật Dân sự ra đời đã khẳng định được vai trò quan trọng của việc bảo vệ quyền nhân thân của mỗi cá nhân, thể hiện được tính dân chủ cao trong xã hội
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập1, Nxb CAND – Hà Nội 2006
Bộ Luật dân sự Việt Nam, Nxb CTQG Hà Nội – 2005
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006
Quy định hướng dẫn tư vấn, kiểm tra sức khỏe cho người hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống; hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và người hiến xác ban hành kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐ-BYT ngày 12/3/2008 của Bộ trưởng Bộ y tế.
Ts. Lê Đình Nghị ( Chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam , Tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam.
Bùi Đức Hiển, “Hoàn thiện hơn nữa Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4 (121) tháng 4/2008
Bùi Đức Hiển, “Hoàn thiện hơn nữa Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4 (121) tháng 4/2008.
http//: thongtinphapluatdansu.wordpress.com
http//: vbqppl.moj.gov.vn
http//: tuvanluat.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Damp194N S7920.doc