Xây dựng, soạn thảo và tổ chức thực hiện Qui ước Văn hóa (QƯVH) là một nội dung quan trọng của phong trào “xây dựng làng văn hoá”, yếu tố đảm bảo sự thành công của cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” (TDĐKXDĐSVH). Nó ra đời, khởi phát và được sự hậu thuẫn, cũng như do chủ trương, chính sách của nhà nước từ trung ương đến địa phương, tạo nên hiệu ứng rộng khắp với nhiều phong trào sôi nổi.
Trong khi đó, hương ước (một dạng QƯVH cổ truyền) dường như bị bỏ rơi, chí ít cũng trên phương diện hành chính, dù rằng trên thực tế, nó vẫn tồn tại, chi phối đời sống người dân chốn làng quê, với nhiều mức độ đậm nhạt khác nhau, tùy vào điều kiện đặc thù của mỗi làng.
Thực tế đó đặt ra vấn đề cần nghiên cứu, tìm hiểu hương ước truyền thống, bởi thái độ phủ nhận hay chưa đánh giá đúng vai trò, vị thế của di sản hương ước trong đời sống, vô hình trung, đã đánh mất vai trò, những lợi thế dựa trên kinh nghiệm về hình thức quản lý làng xã. Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm tính hiệu quả của QƯVH, cùng với những bất cập của căn bệnh thành tích và sự thiếu bền vững của phong trào, là những gì mà chúng ta đang phải đối diện.
Những vấn đề đưa ra thảo luận sau đây nhằm góp phần xây dựng bản QƯVH thực hiện được vai trò thay thế hương ước trong điều chỉnh các mối quan hệ làng xã hiện nay thực sự có hiệu quả.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2530 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xây dựng quy ước văn hoá ở làng xã Bắc Trung Bộ: Từ sự kế thừa truyền thống đến việc nhìn nhận thực trạng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Từ thực tế ñó, những vấn ñề ñưa ra thảo luận sau ñây nhằm góp phần xây
dựng bản QƯVH thực hiện ñược vai trò thay thế hương ước trong ñiều chỉnh các
mối quan hệ làng xã hiện nay thực sự có hiệu quả.
2. Hương ước truyền thống: những giá trị kế thừa
Thực tế lâu nay, nói ñến hương ước, người ta thường nghĩ ñến những hủ tục,
quy ñịnh khắt khe, sự ñối lập giữa “lệ làng” và “phép nước”, v.v... “Hương ước
bộc lộ tư tưởng cục bộ ñịa phương, óc bè phái, hình thành trên cơ sở “tâm lý
làng”. Sự phân biệt “làng” với “thiên hạ” làm nảy sinh sự ñối lập giữa “giá trị
làng” với “giá trị ngoài làng”. ðó là tư tưởng ñịa vị ngôi thứ, gắn với cả trật tự
gia trưởng, trật tự lão quyền và nhất là trật tự quan liêu... ” (Hồ Liên, 2002: 197).
ði sâu vào tìm hiểu, trên góc ñộ văn hoá tộc người và thiết chế quản lý,
hương ước cho thấy nhiều mặt tích cực, thấu tình ñạt lý có thể tham khảo, học tập.
Là sản phẩm kết tinh từ văn hoá làng, hương ước phản ánh thế ứng xử của cộng
ñồng trước tự nhiên và xã hội, trong từng hoàn cảnh cụ thể, ñược ñặt ra một cách
bức thiết. Giá trị tích cực mà hương ước mang lại ở ñây chính là “tạo thành một
chất keo kết dính trong tình làng nghĩa xóm, hạn chế những bất ñồng, những thói
hư tật xấu, ñề cao lễ nghĩa, duy trì những giá trị ñạo ñức như “uống nước nhớ
nguồn”, “kính lão ñắc thọ”, “tôn sư trọng ñạo” v.v...” (Vũ Hạnh Nhiên, 1999:
12), hình thành rào cản, chế ngự, ñưa con người vào một khuôn phép, quy chuẩn
của xã hội.
Những nội dung tích cực của hương ước về quản lý làng xã là những kinh
nghiệm trong giải quyết mối quan hệ giữa phép nước và lệ làng, bài học lịch sử có
tính thời sự về vấn ñề kết hợp giữa pháp luật và hương ước. Trong công cuộc xây
dựng và phát triển nông thôn hiện nay, những ñiều khoản, tinh thần của hương ước
xưa vẫn còn có ý nghĩa thiết thực như tư tưởng khuyến nông, khuyến học, tinh
thần cộng ñồng tương thân tương ái, trọng lão, ý thức bảo vệ di tích, cảnh quan
môi trường v.v… là những gì chúng ta có thể kế thừa.
ðó là sự ñề cao tính cộng ñồng, nét ñiển hình của hương ước Bắc trung bộ,
cơ sở tạo nên sức mạnh trong tất cả mọi vấn ñề nảy sinh cần giải quyết ở làng xã.
Tính cộng ñồng của hương ước thể hiện trong vai trò hướng các thành viên ñến sự
ñề cao giá trị cộng ñồng; khuyến khích mọi cá nhân quan tâm ñến công việc
chung, công ích, việc nghĩa hiệp cho làng, ñóng góp xây dựng làng; góp phần hình
thành tinh thần trách nhiệm của con dân trước làng nước v.v… Tinh thần cộng
ñồng là cơ sở cho các mối quan hệ trong xã hội trở nên bền chặt, ngăn chặn những
mầm mống hay biểu hiện về mặt tư hữu, cá thể hay tư lợi v.v… Trong ñó, dư luận
xã hội chính là sự ước chế hữu hiệu nhất của cộng ñồng, gắn chặt mỗi thành viên
với tập thể, dòng họ, làm tiêu tan mầm mống vượt rào, lấn lễ.
ðó là tinh thần “trách cập gia trưởng”, liên ñới trách nhiệm trước tiên thuộc
về bậc gia trưởng khi thành viên gia tộc vi phạm 1. Gia tộc chính là nền tảng xã
hội, là giềng mối ñạo ñức trong làng xã, ñặc biệt là dưới thời phong kiến, ở ñó,
người trên luôn phải làm gương cho con cháu; ngược lại, hậu thế cũng không
ngừng trau dồi ñể làm vẻ vang truyền thống gia tộc. Ðó chính là trục quan hệ chủ
ñạo, chi phối và ñảm bảo sự vận hành của ñời sống làng xã, thông qua hương ước.
Vì thế, các tội trạng vi phạm hương ước ñối với cá nhân ñều trừng trị nghiêm, theo
ñó “cha mẹ không biết răn dạy con em, phạt một mâm trầu rượu. Làm vậy ñể trừ
gian, ai nấy phải tuân theo ñiều ước”.
ðó là tinh thần “tuỳ gia phong kiệm” trong việc cỗ bàn, vẫn ñảm bảo các
nghi lễ nhưng không khoa trương, lãng phí, không làm rối loạn trật tự xã hội 2.
Người xưa rất coi trọng ñạo hiếu, ñược biểu hiện trong các ñiều khoản quy ñịnh về
nghi thức cúng tế, mai táng, chịu tang v.v… Hôn nhân, tang ma là những vấn ñề
trọng ñại ở chốn hương thôn, ngoài việc thực hiện ñạo hiếu, hỉ, còn góp phần gìn
giữ và bồi ñắp thuần phong mỹ tục. Trong cưới xin, những quy ñịnh của hương
ước luôn gắn liền với chuẩn mực ñạo ñức lối sống của cộng ñồng: thực hiện ñầy
ñủ nghi lễ thiêng liêng nhưng phải thực hành tiết kiệm, xã hội có tôn ti 3.
ðó là tinh thần khuyến thiện, không chỉ có phạt mà hương ước còn ñề cao
tinh thần khen thưởng, ban cấp biển ngạch tôn vinh “hiếu tử”, “thuận tôn”... của
1 Theo lệ ñào binh thời Nguyễn, không chỉ người lính bỏ ngũ mà gia tộc lại bị trừng trị trước tiên,
thậm chí phải thanh toán hết các khoản chi phí kèm theo. Hương ước Cảnh Dương qui ñịnh trường
hợp trốn lính, bản thân gia ñình, hay anh em phải nộp phạt
2 Trong hương ước xưa, những ñiều khoản như: Việc cỗ bàn tuỳ gia phong kiệm, không ñược yêu
sách; ăn uống no say, to tiếng, quan viên lý dịch bị phạt 1 heo, dân thường 50 roi (ðiều lệ An
Gia, 1882), cho thấy cái hay, cái phù hợp trong việc thực hiện lệ làng, ñối với từng trường hợp,
hình thức xử phạt v.v... Hương ước Lễ Khê (1942) quy ñịnh: người chết do các dịch bệnh, chỉ nên
ñể trong nhà một ngày; còn lại ñược một tuần, quá hạn sẽ bị phạt và ghi vào sổ răn ác; những
người có công ñức, nghĩa cử cao ñẹp, có lòng hiếu ñễ v.v… ñược ghi danh vào sổ làng.
3 Những ñiều khoản như “cưới gả ñính ước trăm năm, không kể giàu nghèo” (Hương ước Thế Lại
Thượng, 1929); “việc sính lễ là từ nhà trai, nhà gái hoàn toàn không ñược yêu sách” (Khoán ước
Phong Lai, 1901); “không ñược cầm bán ruộng, ñòi hỏi tiền bạc, áo quần một cách quá ñáng”
(Hương ước Lễ Khê, 1942) v.v...
triều ñình như một dạng bia ghi công, có tác dụng ngăn chặn hành vi lấn lễ trong
ñời sống hương thôn, gia tộc 4.
ðó là hình thức xử phạt bằng mâm cau trầu rượu xuyên suốt và phổ biến ñối
với mọi tội trạng. Phẩm vật ñặc biệt này thường chỉ dùng trong việc lễ, nên sự xuất
hiện của nó trong lễ phạt có ý nghĩa: mọi hành vi không chỉ liên quan giữa người
với người mà cả với thần linh, không chỉ dòng họ với dòng họ mà cả với tiền
nhân, không chỉ là vật chất mà cả tinh thần, danh dự. Hình thức chế tài bằng
“Mâm cau trầu rượu” ñã ñánh ñộng ñến phẩm giá và danh dự của cá nhân, gia
ñình, dòng tộc, trước cộng ñồng và dư luận xã hội.
Một số hình phạt chỉ ñóng vai trò trấn áp hơn là thực thi, nhưng vẫn tạo ra
sức mạnh trong việc ngăn chặn các hành vi. "Tờ thú" ở Thế Lại Thượng như là
một hình thức kiểm ñiểm, mang tính giáo dục; trong khoán lệ Lai Xá, tội quét
ñường, nhổ cỏ, không cho dự việc làng, hay hạ vị thứ chốn ñình trung hoàn toàn
không nặng về thể xác nhưng là sự tổn thương không nhỏ về mặt tinh thần và tâm
lý ñối với mỗi một con người trong tư cách là con dân trước cộng ñồng; sổ
“khuyên lành - răn ác” của làng Lễ Khê ñược lưu ở ñình như một giải pháp “lưu
phương” vạn niên, khiến cho mỗi cá nhân ñều phải nghĩ ñến khi làm ñiều không
phải 5.
ðó là hình thức “thiêng hoá” trong bảo vệ ñê ñiều, bờ sông, ao hồ, cầu cống,
ñường xá, cây cối, vùng cấm ñịa v.v… mà người xưa cũng ñã rất thành công, bên
cạnh những quy ñịnh về xử phạt, có tác dụng ngăn cản các hành vi phạm tội. Mặc
dù, hình thức tâm linh trong việc bảo vệ cảnh quan, môi trường còn nhiều vấn ñề
cần bàn, nhưng bài học về hiệu quả của nó trong thực tế là không chối cãi.
ðó là tính chất dân chủ trong quá trình soạn thảo cũng như trách nhiệm ký
tên của các tác giả. Ngoài vai trò của các bậc văn nho, ñó là kết quả của một quá
trình bàn luận, bổ sung góp ý của toàn thể dân làng, ñặc biệt là các bậc cao niên
4 Ở Lễ Khê, gương hiếu ñễ ñược làng trích công quỹ trợ cấp khốn khó, thậm chí cả tiền tuất hoặc
ñóng góp tiền chôn cất nếu chẳng may qua ñời; lập bài vị ghi danh, ñặt thờ ở hai bên chái tả hữu
và “trình lên quan ñịa phương biểu dương”.v.v...
5 Làng ñặt ra sổ: khuyên lành và răn ác, theo ñó, ai có công ñức thì ghi vào sổ khuyên lành và ai
có tội lỗi thì ghi vào sổ răn ác; ñến ngày ñại tự tháng bảy, thân hào lý dịch và toàn dân họp lại,
ñem hai sổ ấy ñến ngay gian giữa của ñình làng, ñọc lên cho ai nấy ñều biết người nào có công,
người nào có tội. Người nào bị ghi vào sổ răn ác ba lần (say rượu, chửi mắng, gian dối), thì sẽ
không ñược dự việc làng... "ñể tỏ sự khuyên răn".
theo nguyên tắc trọng lão, trên cơ sở lệ làng bất thành văn vốn ñã vận hành. Tác
giả trong hương ước xưa không chỉ là những danh xưng mà gắn với thiết chế xã
hội, tôn ti trật tự, ñại diện cho tinh hoa và ý thức toàn dân làng, cộng ñồng trách
nhiệm v.v... 6.
ðó là hình thức ñưa hương ước vào ñời sống thông qua việc ñọc lại vào dịp
lễ hội ñầu năm, trước toàn dân. Ngoài trách nhiệm giải thích thêm ñể mọi người
biết và thực hiện các ñiều khoản cũng như tiện cho việc góp, sửa ñổi bổ sung, còn
góp phần làm cho các ñiều khoản thâm nhập sâu rộng hơn trong cộng ñồng. ðây là
bài học quý giá về công tác truyên truyền mà ngày nay thiết nghĩ cũng nên cần kế
thừa trong việc phổ biến và duy trì quy ước văn hoá mới. Bởi, việc ñọc hương ước
trong ngày lễ hội, lễ tết có ý nghĩa giáo dục rất lớn, là dịp tốt nhất ñể nhắc lại cho
các thành viên trong cộng ñồng ghi nhớ các ñiều khoản cụ thể. Khi hương ước
ñược ñọc trước linh vị Ngài khai canh, khai khẩn, nó còn có ý nghĩa tâm linh:
chứng giám cho các thành viên trong làng, cam kết thực hiện hương ước. Như vậy,
ở ñây chính ñiều thiêng liêng, ước chế tâm linh là nhân tố tạo nên tính hiệu quả
của hương ước xưa. Bởi, nếu không thực hiện tốt hương ước, không những có tội
với làng mà còn có tội với thần linh, cha ông 7.
Kế thừa nét ñẹp của lệ làng truyền thống là cách làm thiết thực nhất ñể thực
hiện nếp sống mới nhưng vẫn ñậm ñà bản sắc chốn làng xã. Tính chất kế thừa mà
chúng tôi nhấn mạnh ở ñây trong nội dung QƯVH hoàn toàn khác với việc mô
phỏng hay lặp lại cái cũ, mà ñó chính là tinh thần, mục tiêu, biện pháp lẫn nghệ
thuật quản lý cộng ñồng trong những bối cảnh lịch sử nhất ñịnh.
3. Sự chuyển biến của làng xã: những vấn ñề ñặt ra
Ngôi làng truyền thống không phải là một chỉnh thể bất biến, cho dù sức
sống của nó ñã ñược chứng minh trong chiều dài lịch sử. Làng xã ñương ñại, mức
6 Trong số hương ước thu thập ñược, chỉ có một số rất ít là ghi chung chung như ”viên chức ñồng
bản xã ñẳng kê”, hay “Viên chức binh lính, hương lão toàn xã” và “người trong xã cùng ký tên
hay in dấu tay”; cuối cùng “Lý trưởng ký tên, ñóng dấu”; còn lại ñều có ký tên, ñiểm chỉ của ñại
diện các thành phần, thể hiện rõ cấu trúc xã hội làng xã cổ truyền [Khoán lệ Thế Lại Thượng gồ:
hàng xã (Tri Hương, Lý trưởng, Hương bộ, Thủ sắc, Kiểm nã), tứ giáp (ñại diện giáp Tiền-
Thượng-Trung-Hậu), các tộc trưởng v.v...].
7 Ở Bắc bộ có tục “uống máu ăn thề” dành cho trai ñinh ñến các cụ 80. Từ ñêm trước họ tập trung ở
ñình làng, xếp hàng theo tứ bậc, nghe ñọc văn tế, cắt máu ăn thể; tổ chức tuyên thệ trước vong linh
các vị thành hoàng; sau ñó nghe Lý trưởng ñọc khoán ước (Vũ Duy Mền, 2001: 77 - 78).
ñộ, tốc ñộ và tính chất biến ñổi trên từng lĩnh vực, từng vùng không giống nhau.
Bên trong những vùng nông thôn biến ñổi khá toàn diện, vẫn hiện diện những ngôi
làng bảo lưu mạnh mẽ các yếu tố cổ truyền, như “những mạch ngầm chảy trong cơ
thể làng xã hiện ñại”. Những giá trị có sức sống lâu bền trong làng xã, từ ñấy cũng
phải ñược nhìn nhận lại từng phần, một cách cẩn trọng trước sự biến ñổi và bổ
sung của những giá trị mới. Nhận diện ñiều này cũng chính là cách tiếp cận ñể kế
thừa ñúng trong quy trình thiết lập hệ thống các giá trị mới, mà cụ thể là phong
trào xây dựng ñời sống văn hoá hiện nay, và trước mắt là vấn ñề xây dựng QƯVH.
Làng là một sản phẩm của lịch sử, tất yếu chịu sự tác ñộng của yếu tố thể chế
chính trị, xu thế thời ñại, giao lưu hội nhập v.v... Trong thời kỳ mở cửa, vùng nông
thôn có những chuyển biến sâu sắc về kinh tế - xã hội. Trước sự chi phối khá toàn
diện của cơ chế thị trường, ngôi làng truyền thống bị phá vỡ và biến dạng không
chỉ về quy mô, dân số, mức sống mà cả quan hệ nội tại, không còn là một pháo ñài
công xã khép kín mà trở thành ñơn vị dân cư kinh tế - văn hoá - xã hội.
Một cá nhân con dân của làng, ñồng thời phải chịu nhiều ước chế, cao nhất là
pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy ñịnh của các tổ chức ñoàn, hội, cơ quan,
trường học, xóm, phường v.v…, những thiết chế liên quan ñến ñời sống, công
việc, học hành một cách trực tiếp hay gián tiếp. Các nguyên tắc nảy sinh từ tư
tưởng Nho giáo (nam quyền, phụ quyền), nguyên tắc trọng xỉ-tước không còn sức
nặng, chi phối các tiêu chí quan hệ thôn xã. Trong làng không chỉ tồn tại những
mối quan hệ huyết thống, láng giềng, những thiết chế dòng tộc, phe giáp, xóm
ngõ... với sự ñề cao giá trị cộng ñồng, danh dự họ tộc; mà ñược bổ sung, ñiền thế
những mối quan hệ của kinh tế thị trường cởi mở, phức tạp.
Ngày xưa, hình thức chế tài, giáng chức và ñuổi khỏi làng có hiệu quả rất lớn
trong chế ước hành vi cá nhân, thì nay không còn nguyên tác dụng. Mặc dù ở làng
xã Bắc Trung bộ, vấn ñề ngụ cư không gay gắt, không trở thành rào cản ñóng
khung các mối quan hệ nhưng ñối với người dân, việc tự nguyện ra ñi khác với
việc bị ñuổi khỏi làng. Bị ñuổi khỏi làng là một sự xúc phạm tày ñình ñối với danh
dự cá nhân - dòng họ: dân làng tẩy chay, gạt hẳn ra bên lề các sinh hoạt cộng
ñồng. Ngày nay, cá nhân tự do di cư, trú ngụ, làng xã nông thôn mới không ñủ sức
níu giữ họ. Những thiết chế truyền thống như Hội ñồng làng, Tộc biểu có vai trò
rất lớn trong hương thôn, thì nay tiếng nói không còn là mệnh lệnh mà chỉ là lời
khuyên răn. Theo ñó, những giá trị tinh hoa nếu có gắn với các thiết chế này cũng
bị cởi bỏ dễ dàng.
Hương ước xưa ñã rất hiệu quả trong việc hạn chế những hành ñộng phá
hoại, xâm chiếm ñình, chùa, miếu, công trình chung, cảnh quan tự nhiên, cấm ñịa
v.v... bằng hình thức “thiêng hoá”, khoác trên một số ñiều khoản lớp vỏ bọc tâm
linh. Ngày xưa, ñể lỡ trâu bò ñi lạc vào cấm ñịa, ñình miếu, người dân sẽ bị chế
ước bởi 2 ñiều: sợ lệ làng và nhất là sợ thần linh quở phạt; thì hiện nay, sự áp chế
từ tín ngưỡng không còn tác dụng. Khi sự ñiền thế của quy ước mới chưa ñảm bảo
ñược sự ràng buộc cả luật lệ cũng như tâm linh; khi không còn ñiều ñể nể sợ,
kiêng dè, không còn cái gì ñể cho con người tự hạn chế khỏi sự buông tuồng, việc
xâm phạm cấm ñịa, ñập phá, trộm cắp ở ñình, miếu là ñiều khó tránh khỏi.
ðình làng - ngôi nhà cộng ñồng, cùng với chùa, miếu, vốn là nơi tụ họp, tổ
chức các nghi thức cúng bái, những sinh hoạt lễ hội cộng ñồng quan trọng. Ngày
xưa, lễ nghi ở ñình, ñối với người nông dân Bắc trung bộ, ngoài thể hiện tình cảm
của hậu thế với bậc tiền nhân, còn là biểu hiện mối quan hệ linh thiêng với mảnh
ñất ñược khai phá lập làng, qua hình thức thờ phụng, cúng tế ngài khai canh. Hiện
nay, ñình làng trở nên vắng vẻ trừ mỗi kỳ tế lễ xuân thu. Thiết chế “Nhà văn hoá”
là sự ñiền thế trước những nhu cầu chức năng mới như tổ chức hội họp, trao ñổi
kinh nghiệm sản xuất, sinh hoạt câu lạc bộ, ñoàn thể, giao lưu vui chơi, giải trí,
văn nghệ thể thao, tập huấn nghiệp vụ, phổ biến kiến thức pháp luật, khoa học,
v.v… Thực trạng khôi phục, tái thiết ñình làng hiện nay, biểu hiện rất khác nhau
ở các làng xã, từ phía chính quyền cũng như người dân, bên cạnh những ngôi làng
còn lưu giữ những sinh hoạt gắn với ngôi ñình, ở một số nơi, người dân hầu như
không còn nhu cầu 8.
Những nhân tố ñảm bảo cho sự tồn tại và thực thi của hương ước trong ñời
sống hương thôn như tính cộng ñồng, sự thiêng hoá, tính tự nguyện, dư luận xã hội
v.v... ñã bị tấn công với những mức ñộ tồn tại khác nhau ở các thế hệ dân làng, tỉ
lệ thuận theo ñộ tuổi: người già, trung niên và thanh niên. Thực tế này cho phép
chúng ta hình dung xu thế biến ñổi của làng xã khi mà lớp người già mất ñi. Vấn
8 Kết quả khảo sát ở làng Tuy Lộc và ðại Phong (Lệ Thuỷ, Quảng Bình) cho thấy, có hơn
85% ý kiến ñược hỏi (1/3 người già, 1/3 trung niên, 1/3 thanh niên), ñều trả lời rằng không
muốn phục hồi ngôi ñình, mà muốn xây dựng hội trường, nơi có thể tổ chức ñược nhiều hoạt
ñộng như hội họp, sinh hoạt, lễ hội, văn nghệ v.v... Ngoài những lý do như thiếu kinh phí,
thiếu ñồ trang trí, phục cổ, ít chức năng sử dụng, chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính, ñiều
ñáng ñánh ñộng là họ không còn nhu cầu tái lập ngôi ñình.
ñề sẽ rõ hơn khi xem xét sự biến ñổi của hai nguyên tắc/ñiều kiện ñảm bảo trật tự
của làng xã qua các thời kỳ 9:
Trước những yêu cầu phát triển của làng xã, cơ cấu tổ chức truyền thống
thay ñổi cùng với sự xuất hiện và ñiền thế của những thiết chế mới (nhà văn hoá,
bưu ñiện văn hoá xã; các tổ chức hội, ñoàn tự quản v.v…). Tuy nhiên, không phải
sự ñiền thế, bổ sung nào cũng bù ñắp các khoảng trống tạo ra trong quá trình
chuyển ñổi 10. Hơn nữa, sự từ giã vai trò lịch sử của hương ước ñã tạo nên một
khoảng trống về các hệ chuẩn mực xã hội, các giá trị áp chế, ñòi hỏi phải có sự
ñiền thế phù hợp ở cấp quản lý làng xã mang tính chất phi hành chính. Bản QƯVH
ra ñời trong sự kỳ vọng của các ban ngành và nhân dân, là một trong những giải
pháp thay thế hợp lý, nhưng ñể phát huy tốt vai trò, còn có nhiều ñiều phải bàn.
Do lịch sử hình thành, nên ñời sống cộng ñồng làng hiện nay vừa mang tính
chất pháp lý vừa thể hiện tính chất cổ truyền. Lâu nay, việc hình thành thói quen
“sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” hay trong giải quyết mọi vấn ñề
luôn vấp phải sự ñề kháng từ “cái tình”, từ dư luận cộng ñồng, nhất là ở làng xã
với sự tàng ẩn lối hành xử theo tập quán truyền thống. Trong trường hợp này,
chuẩn mực xã hội phân ñịnh theo hai dạng cơ bản là “chuẩn mực pháp lý” - ñược
ñảm bảo thực hiện bởi sức mạnh của cơ quan quyền lực, và “chuẩn mực ñạo ñức”,
9 Sự phân chia các thời kỳ này chỉ mang tính chất phân ñịnh tương ñối theo chiều lịch ñại, gắn với
quá trình phát triển và biến ñổi của làng xã.
10 Trong những thiết chế mới trong xây dựng ñời sống văn hoá cơ sở phải kể ñến sự hiện diện của
ñiểm “Bưu ñiện văn hoá xã”. Với mục ñích góp phần vào việc xoá mù về thông tin, ñáp ứng nhu
cầu liên lạc, ñọc sách báo, giải trí cho người nông dân, bưu ñiện văn hoá xã ñược thiết lập trong
sự kỳ vọng của nhiều cấp, ngành. Tuy nhiên, cho ñến nay, sự tồn tại cũng như hiệu quả của nó
ñang ñặt ra nhiều vấn ñề cần bàn: chính quyền ñịa phương thờ ơ vì xem ñó là công trình của
ngành bưu ñiện; nhân dân không biết, vì nghĩ ñó chỉ là bưu chính viễn thông; nhu cầu sử dụng ít;
nghiệp vụ của cán bộ v.v…
Thời kỳ thứ I Thời kỳ thứ II
Thời kỳ thứ III
Coi trọng xỉ và
tước
Tước lấn át xỉ
Tước và xỉ ñều
bị phá vỡ
phong tục tập quán - ñược ñảm bảo thực hiện bằng sự tự nguyện, áp lực của dư
luận cộng ñồng, là cơ sở xây dựng thiết chế và thể chế phù hợp.
Thẳng thắn nhìn nhận, hệ thống pháp luật nước ta chưa hoàn chỉnh, nhiều
mặt của ñời sống nông thôn chưa ñược ghi nhận về mặt pháp lý; hiệu lực thực tế
của pháp luật ở nông thôn rất thấp (số người nông dân kém hiểu biết, xa lạ với
pháp luật chiếm tỉ lệ lớn). Vì vậy, mặc dù không phải là một văn bản quy phạm
pháp luật, nhưng QƯVH ngoài chức năng tạo “giềng mối” nếp sống, còn ñược
xem là một bản ñề án chuẩn bị “môi trường” cho xã hội “pháp quyền” trong tương
lai.
Nếu việc phân tích những giá trị hương ước truyền thống cho chúng ta cái
nhìn ñối sánh có tính chất kế thừa, thì nhìn nhận sự chuyển biến của làng xã sẽ
cho những tiếp cận trong bối cảnh làng xã ñương ñại, từ ñó ñịnh hướng nội dung
bản quy ước văn hoá, với những ñiều chỉnh hợp lý, những bước ñi phù hợp trong
xây dựng ñời sống văn hoá mới 11.
4. Quy ước văn hoá: tiếp cận quy trình và nội dung soạn thảo
Trong ñời sống làng xã hiện nay, vai trò phong trào xây dựng làng văn hoá,
của những bản quy ước mới là không thể phủ nhận. ðiều nhận thấy sau khi phát
ñộng phong trào “xây dựng làng văn hóa”, ñời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn ñề cần phải
ñược nhìn nhận, ñánh giá, ñiều chỉnh trong quá trình xây dựng và thực hiện
QƯVH, ñể nó phát huy tốt hơn nữa loại văn bản quy phạm xã hội trong ñời sống
làng xã, vốn ña dạng và phức tạp. Nhận chân quy trình và nội dung soạn thảo bản
QƯVH hi vọng sẽ sáng tỏ một số vấn ñề.
1. Tiếp cận quy trình soạn thảo
Thông thường, sự ra ñời một bản QƯVH sẽ ñược ñảm bảo theo trình tự “từ
trên xuống”, qua các bước sau:
11 Kết quả khảo sát cho thấy, làng xã ñã có nhiều sự xáo trộn (tách, nhập) trước những yêu cầu về
quản lý hành chính, tuy nhiên những giá trị truyền thống vẫn như nó vốn có. ðây là một thực tế
mà các ban ngành phải tính ñến trong quá trình xây dựng làng văn hoá, soạn thảo quy ước.
Trường hợp làng Thủ Lễ, mặc dù ñược tách ra thành Thủ Lễ ðông và Thủ Lễ Nam (Sịa, Quảng
ðiền), mọi sinh hoạt liên quan ñến truyền thống vẫn ñược tổ chức chung như trước ñây; làng
Thuỷ Tú, nay ñược nhập với làng An Phú, thành làng Thuỷ Phú (Hương Vinh, Hương Trà),
nhưng các hoạt ñộng lễ nghi, cúng tế, hội làng v.v… duy trì riêng biệt.
ðây là quy trình soạn thảo chung, ñề cao vai trò quản lý của nhà nước: [1]
Chính phủ ra văn bản, nghị ñịnh; [2] các Bộ ra thông tư, quyết ñịnh; trên căn cứ
ñó, [3] sở VHTT phối hợp với sở Tư pháp, UBDSGð&TE, UBMTTQ tỉnh xây
dựng dự thảo khung, quy ước mẫu, văn bản hướng dẫn thực hiện; [4] các cơ quan
cấp huyện xây dựng kế hoạch và triển khai tập huấn nghiệp vụ cho cấp xã,
phường; [5] cấp xã phường triển khai thực hiện. Như vậy, cơ quan ñóng vai trò tổ
chức xây dựng, thực hiện và kiểm tra là [1] sở VHTT, [2] sở Tư pháp, [3]
UBMTTQ và [4] UBDSGð&TE. “Người ñỡ ñầu” chính của phong trào là ngành
văn hoá, nhưng sự tham gia thực tế và trực tiếp của các ban ngành còn chưa rõ
ràng, chặt chẽ.
Nghị ñịnh
Thông tư
hướng dẫn
Văn bản hướng
dẫn – khung
soạn thảo
Văn bản hướng
dẫn – khung soạn
thảo
Văn bản hướng
dẫn – soạn thảo
quy ước (A)
Chính
phủ
Bộ VHTT
Bộ Tư pháp
UBTƯMTTQ
VN
Sở VHTT
(tỉnh,
thành)
Phòng VHTT
(huyện,
thị xã)
Ban VHTT
(xã,
phường)
Dân làng
Duyệt (2)
Duyệt (1) Bản quy
ước (A2)
Bản quy
ước chính
thức (A3)
Bản quy
ước góp ý
(A1)
Những ñiều khoản
quy ước thực hiện
trong ñời sống
ðại diện
ban ngành,
làng, họ…
1
2
3
4
5
6
7
G
ia
i ñ
oạ
n
s
oạ
n
t
h
ảo
G
ia
i ñ
oạ
n
th
ự
c
hi
ện
Qua xem xét trình tự soạn thảo QƯVH, có thể nhận thấy một số ñiểm như
sau:
- Quy trình này, một mặt tạo ra hành lang pháp lý cho việc soạn thảo nội
dung, ñảm bảo các quyền lợi và trách nhiệm cơ bản của một công dân, mặt khác
làm cho QƯVH không phải là sản phẩm của cá nhân hay một dòng họ, ngăn ngừa
tính tự phát, phục hồi hủ tục. Tuy nhiên, nó ñã dẫn ñến hiện tượng “hành chính
hoá”, “chính quyền hoá”, “khẩu hiệu” trong quy trình lẫn nội dung, ñôi khi xa lạ
và khó hiểu với chính người dân, thậm chí không cần thiết 12.
Từ ñó, ñã hình thành nên các bản QƯVH na ná nhau về cấu trúc trình bày,
nội dung các ñiều khoản 13, các yếu tố ñặc thù của ñịa phương ít ñược chú ý phân
tích, hiện rõ ñặc ñiểm riêng của từng làng 14. Nếu ngày xưa “muốn biết làng này
như thế nào, có an ninh trật tự hay không, có thuần phong mỹ tục hay không, hãy
xem hương ước làng ấy” (Ninh Viết Giao, 2000: 521), thì ngày nay, ñối với quy
ước, ñiều này rất khó.
- Cấp xã là khâu ñoạn cuối, nhưng rất quan trọng, ñể mỗi bản QƯVH thể
hiện nét riêng của từng làng. Nhìn vào quy trình ta thấy, cán bộ VHTT và Ban
ngành cấp xã căn cứ trên các văn bản hướng dẫn, tình hình cụ thể của ñịa phương
ñể soạn thảo ra bản “quy ước làng văn hoá” trước khi ñưa xuống họp dân, thảo
luận ñóng góp ý kiến. Nhưng, trong thực tế, các ñiều khoản trong QƯVH thường
phản ánh ý kiến ñóng góp của các ban ngành, ñoàn thể (của chính quyền) và ñại
12 Quy ñịnh về môi trường, việc xác ñịnh “ñầu sông” thật khó bởi sông nước là sự vật tồn tại có
tính chất liên làng, liên vùng; mồ mả là chốn thiêng liêng, người dân tự ý thức ñược việc không
lập trại vịt ở ñây (ð 10-C III QƯVH làng Thanh Phước, Hương Phong, Hương Trà); ñã có ñược
mấy cặp vợ chồng thực hiện theo thể thức cưới xin “lễ hỏi, trao giấy chứng nhận kết hôn, lễ cưới”
(ð18-C3), v.v...
13 Khảo sát trên ñơn vị huyện, dễ dàng nhận ra nét tương ñồng: QƯVH làng Tây Thành (Quảng
Thành, 1997), Thủ Lễ (Quảng Phước, 2001) huyện Quảng ðiền (Thừa Thiên Huế); làng Hưng
Nhơn (1998), An Thơ (2001), xã Hải Hoà, huyện Hải Lăng (Quảng Trị); làng Lộc An (An Thuỷ),
ðại Phong (Phong Thuỷ), Tuy Lộc (Lộc Thuỷ), huyện Lệ Thuỷ (Quảng Bình) v.v...
14 Những quy ñịnh thiết thực trong bảo vệ môi trường, ñiều kiện tự nhiên ñịa phương: “Hàng năm
từ tháng 9 ñến tháng 11, canô ñược phép chạy trên hói ðại, những tháng còn lại, khi canô vào
hói ðại phải tắt máy, dùng sào, chèo di chuyển ñể ñảm bảo nguồn nước phục vụ sinh hoạt” (ð9,
QƯVH làng ðại Phong, Phong Thuỷ, Lệ Thuỷ); “dưới 61 tuổi không ñược bắt sinh phần; sinh
phần không quá 16m2” (ð20-C3, QƯVH làng Thanh Phước, Hương Phong, Hương Trà) cần
ñược phát huy.
diện già làng hay trưởng họ mà thôi. “Việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy
ước ở một số nơi chưa ñược tiến hành một cách thực sự dân chủ, mới chỉ là công
việc của một số người...” (Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 24-1998/CT-TTg,
19/6/1998).
- Quy trình này ñã tạo ra sự phân cấp trách nhiệm, tách bạch giữa “soạn
thảo” và “thực thi”, nghĩa là chỉ chú trọng “ñầu vào” (soạn thảo quy ước, tổ chức
ñăng ký xây dựng), bỏ quên “ñầu ra” (ñưa quy ước vào ñời sống và duy trì nó). Sự
ñề cao hay xem nhẹ 2 khâu ñoạn này, sẽ dẫn ñến phủ nhận sự gắn kết, mối quan hệ
tương tác giữa “soạn thảo” và “thực thi”. Vì thế, thực trạng “ñem con bỏ chợ”,
“ñánh trống bỏ dùi” là ñiều có thể hình dung ñược. Sau khi có bản quy ước, ñăng
ký xây dựng làng văn hoá là xem như ñã thành công và hoàn tất trách nhiệm,
“Việc kiểm tra, phúc tra, ñánh giá các ñơn vị ñã ñược công nhận ñạt chuẩn văn
hoá chưa ñược duy trì thường xuyên; có cấp ngành buông lỏng khâu quản lý kiểm
tra sau khi ñược công nhận” (UBND tỉnh TTH, 2005: 11).
- Quy trình này ñã tạo ra cơ chế bổ sung chủ yếu từ trên xuống, theo chỉ ñịnh
mang tính văn bản như vấn ñề sức khoẻ, y tế, môi trường v.v… QƯVH sau khi
soạn thảo và ñưa vào cuộc sống, những trường hợp bổ sung từ hướng dưới lên hầu
như không ñược phát huy, có thể bởi các lý do: người dân không biết (do công tác
tuyên truyền, trình ñộ) hoặc không quan tâm (chưa tác ñộng vào ñời sống của họ),
v.v…
Xem xét quy trình soạn thảo “từ trên xuống”, chúng tôi không hẳn muốn ñề
cao hướng xây dựng “từ dưới lên”, mà cho rằng, trong một giải pháp kết hợp sẽ
vừa ñảm bảo sự quản lý của nhà nước vừa phát huy tính hiệu quả của quy ước
làng văn hoá trong thực tế.
2. Nhìn nhận về nội dung
Về cơ bản, QƯVH ñược xây dựng theo tinh thần Chỉ thị số 24-1998/CT-TTg
(ngày 19/6/1998), của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng và thực hiện hương
ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư”.
Trong mẫu số chung (từ quy trình soạn thảo), trên cơ sở ñối sánh ở các ñịa
phương, chúng tôi ñưa ra cấu trúc nội dung cơ bản bao gồm:
- Phần mở ñầu: lịch sử hình thành làng, dòng họ; truyền thống ñấu tranh; lý
do, mục ñích soạn thảo; các căn cứ soạn thảo v.v… “Bản quy ước ñược xây dựng
trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật nước CHXHCN Việt Nam; kế thừa những
truyền thống tốt ñẹp của cha ông ñể lại, kết hợp những tiến bộ xã hội ñược dân
góp ý xây dựng thống nhất” (QƯVH làng Thủ Lễ ðông, Quảng Phước, Quảng
ðiền, Thừa Thiên Huế); ñể “phát huy truyền thống văn hoá ñậm ñã bản sắc dân
tộc, giữ nét ñẹp mà ngày xưa ñể lại, ñồng thời phù hợp với xu thế thời ñại, xây
dựng làng văn hoá; căn cứ chỉ thị 27/CT-TW, chỉ thị 24/CT-TTg của thủ tướng
chính phủ, căn cứ nghị ñịnh 29/CP của chính phủ, căn cứ hướng dẫn của ngành
VHTT, căn cứ các nghị quyết của HðND xã...” (QƯVH làng Lộc An, An Thuỷ,
Lệ Thuỷ, Quảng Bình).
Phần này, ở hầu hết các bản quy ước ñều giống nhau trong chú trọng ñến lịch
sử cách mạng; nội dung lịch sử - văn hoá truyền thống (lịch sử lập làng) khá hời
hợt và mờ nhạt.
- Phần nội dung (các chương, ñiều): [1] các quy ñịnh chung và các quy ñịnh
cụ thể về [2] kinh tế; [3] văn hoá xã hội; [4] an ninh quốc phòng; [5] cảnh quan
môi trường; [6] thưởng phạt; [7] các quy ñịnh khác (tổ chức thực hiện, sử ñổi bổ
sung, kinh phí hoạt ñộng) v.v…
Các nội dung trên có thể ñược lồng ghép hoặc tách ra thành chương (thưởng
phạt; tế lễ, tang ma, cưới hỏi), thêm hoặc bớt các chương, thay ñổi trình tự sắp xếp
ñiều khoản. Ví dụ, trong bản quy ước văn hoá làng Tây Thành, nội dung “văn hoá
xã hội” chiếm dung lượng khá lớn (10 ñiều) so với chương “kinh tế” (3 ñiều), “an
ninh quốc phòng” (2 ñiều); những quy ñịnh về “lễ nghi” (cưới hỏi, tang ma, ứng
xử, tế tự), “các ñiều cấm”, “thưởng phạt” v.v... ñược cấu thành chương riêng.
Từ mục tiêu“ðể từng bước thực hiện nếp sống văn minh, ngoài việc phải
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương
chính sách của ðảng và Nhà nước, mọi công dân trong làng phải tuân thủ chấp
hành những ñiều khoản ghi trong quy ước này” (QƯVH làng Tây Thành, Quảng
Thành, Quảng ðiền, Thừa Thiên Huế), nội dung chủ ñạo của các chương, ñiều
trong QƯVH tập trung phản ánh việc hướng dẫn thực hiện các chính sách và pháp
luật của nhà nước, ñề cập ñến trách nhiệm và nghĩa vụ của các cá nhân, về
KHHGð: “Nam nữ khi xây dựng gia ñình phải chấp hành ñúng luật hôn nhân và
gia ñình, vợ chồng phải thực hiện tốt dân số và KHHGð”; về an ninh trật tự:
“Nghiêm cấm ñánh cờ bạc ăn tiền dưới mọi hình thức; nghiêm cấm uống rượu bia
say sưa phá rối an ninh, trật tự thôn xóm và hoạt ñộng các tệ nạn xã hội khác”
(ð6-C1 và ð21-C4, QƯVH làng An Thơ); về quản lý nhân khẩu: “mọi gia ñình,
cá nhân phải chấp hành về ñăng ký hộ tịch, hộ khẩu, khai sinh, khai tử, kết hôn,
tạm trú, tạm vắng ñúng quy ñịnh”; về nghĩa vụ quân sự: “thanh niên trong làng
ñúng tuổi nghĩa vụ quân sự phải ñăng ký, nếu có lệnh tuyển quân phải tham gia
ñầy ñủ” (ð25-C4 và ð26-C4, QUVH làng Hưng Nhơn) v.v...
Khác với văn bản pháp quy, QƯVH lấy phương châm vận ñộng, tuyên
truyền, ý thức tự giác, tinh thần tự nguyện, theo hướng khuyên bảo “nên và không
nên”, bằng cách tạo ra dư luận quần chúng trong thôn, làng ủng hộ cái mới, tiến
bộ, ñồng thời phê phán, bài trừ những tiêu cực, hủ tục. QƯVH “lấy việc vận ñộng,
giáo dục, thuyết phục, thi hành quy ước là chính, lấy dư luận làm biện pháp phê
phán, chấn chỉnh những hành vi vi phạm quy ước; khuyến khích biểu dương
những việc làm tiến bộ, phù hợp với quy ước ñề ra” (QƯVH làng Thủ Lễ ðông,
Quảng ðiền), từ việc ñiều hoà mối quan hệ, liên quan ñến gia ñình: “Con cháu
không ñược ngược ñãi các bậc cha mẹ, ông bà. Nếu vi phạm làng sẽ kiến nghị với
chính quyền xử lý hành chính, ñồng thời kiểm ñiểm trước dân làng”, hay các vi
phạm về chính sách: “Gia ñình nào có con em ñào bỏ nghĩa vụ phải kịp thời báo
cho chính quyền ñịa phương biết và có trách nhiệm vận ñộng con em trở lại ñơn
vị” (ð14-C3 và ð20-C4, QƯVH làng Tây Thành, Quảng Thành, Quảng ðiền).
Tuy nhiên, trong hầu hết các bản quy ước, những quy ñịnh cụ thể về xây
dựng “gia ñình văn hoá” thường nằm chung trong nội dung “văn hoá xã hội”, ít
ñược chú trọng ñưa thành một chương riêng. ðây là một vấn ñề cần lưu ý, bởi “gia
ñình văn hoá” chính là hạt nhân của “làng văn hoá” ñược hình thành trong sự ñiều
tiết của QƯVH, hơn nữa, thực trạng vi phạm ở cấp ñộ này cũng rất ñáng phải bàn
15.
- Phần ký tên: ðây là một phần khá quan trọng của quy ước, phản ánh các
thành phần tham gia soạn thảo, góp ý cũng như chịu trách nhiệm thi hành. Thông
thường bao gồm: [1] Ban vận ñộng/ñiều hành xây dựng làng văn hoá (trưởng thôn,
Bí thư chi bộ thôn, ðoàn Thanh niên, hội Phụ nữ, hội CCB, hội Nông dân v.v...);
[2] ñại diện các tộc họ; [3] ñại diện chính quyền xã, huyện v.v… Thành phần tham
gia ký tên thường không nhất quán mỗi bản quy ước, chúng tôi tạm phân loại như
sau:
15 Báo cáo “Bình xét công nhận gia ñình văn hoá năm 2005” (thôn Thủ Lễ ðông, Quảng Phước,
Quảng ðiền) cho ta thấy thực trạng làng xã hiện nay qua một số lỗi vi phạm như: say rượu (07
trường hợp), vi phạm ñám tang (03), rà ñiện (03), mất trật tự gây gỗ (02), thiếu giáo dục con (01),
cải tạo về không sửa chữa (01), ñi cải tạo (01), gia ñình bất hoà (01), sinh con thứ 3 (01) v.v… Bỏ
qua các con số thống kê, chúng tôi muốn ñề cấp ñến tính chất của các vi phạm.
- Hoặc bao gồm [1] ñại diện chính quyền thôn (trưởng thôn, Bí thư chi bộ,
chi hội Phụ nữ, Mặt trận, ðoàn TN, v.v… 16); [2] ñại diện chính quyền xã (chủ
tịch UBND và HðND). ðây là loại quy ước phổ biến nhất.
- Hoặc bao gồm [1] ñại diện chính quyền thôn, [2] xã, và [3] ñại diện các
trưởng họ;
- Hoặc bao gồm [1] ñại diện chính quyền thôn, [2] xã, [3] ñại diện các trưởng
họ; [4] UBND huyện.
Qua xem xét nội dung quy ước, chúng tôi thấy có một số vấn ñề ñặt ra như
sau:
- Quy ước làng văn hoá, ñúng như tên gọi không phải là một văn bản pháp
lý, tuy nhiên, trong nội dung, tính chất “luật tục” lại ñược thể hiện khá rõ (quy
ñịnh về cấm, và xử phạt) so với tính chất “văn hoá” (các tiêu chuẩn về ñạo lý nhân
văn); có một số bản quy ước, soạn thảo nội dung thưởng phạt thành một chương
riêng 17. Vấn ñề bàn ñến là trong thực tế, tính hiệu quả của các quy ñịnh xử phạt
không cao, người vi phạm sẵn sàng nộp phạt tiền mà không ý thức ñược sai phạm
cũng như trách nhiệm ñối với việc thực hiện các nội dung của quy ước.
- Trong phần ký tên, nếu chính quyền cấp huyện ít có mặt là bình thường, thì
sự vắng mặt của tộc họ trong một số bản quy ước cần phải xem xét lại. Chúng tôi
không có ý ñịnh tìm hiểu ai là tác giả, mà muốn ñề cập ñến tính chất của vấn ñề.
Bởi, tác giả hay những người ñặt bút ký tên sau mỗi bản quy ước phải ñại diện cho
tinh hoa, ý thức và trách nhiệm cộng ñồng. Vì vậy, theo chúng tôi, nhất thiết phải
có ñầy ñủ chữ ký của các thành phần, bởi ngoài tính chất ñại diện, nó thể hiện sự
gắn chặt với trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, không chỉ trong nội dung soạn
thảo mà cả vấn ñề thực hiện và duy trì.
- Quy ước văn hoá vẫn chưa thống nhất tên gọi, với nhiều cách ñặt tuỳ tiện:
“Quy ước văn hoá” (Tuy Lộc, Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ), “Quy ước làng văn hoá” (Lộc
An, An Thuỷ, Lệ Thuỷ), “Quy ước xây dựng nếp sống văn hoá” (Diên Lộc, Phú
Diên, Phú Vang), “Bản quy ước văn hoá” (Thủ Lễ ðông, Sịa, Quảng ðiền), “Quy
16 Ở một số bản quy ước, thành phần tham gia ký tên còn bào gồm cả các cơ quan ñơn vị ñóng
trên ñịa bàn như ñại diện ngành giáo dục (trường mẫu giáo, cấp I, II), ñại diện ngành y tế, hợp tác
xã v.v... (Xem thêm QUVH làng Thanh Phước, Hương Phong, Hương Trà, TTH).
17 Xem thêm “Quy ñịnh các ñiều cấm” (chương V), “Quy ñịnh về thưởng phạt” (chương VI)
v.v… QƯVH Tây Thành (Quảng Thành), thôn Thủ Lễ ðông (Quảng Phước).
ước hương thôn” (ðại Phong, Phong Thuỷ, Lệ Thuỷ), “Quy ước xây dựng làng
văn hoá” (Tây Thành, Quảng Thành, Quảng ðiền), “Hương ước làng văn hoá
Hưng Nhơn”, “Hương ước làng văn hoá - gia ñình văn hoá làng Phú Kinh” (Hải
Hoà, Hải Lăng) v.v... ðiều này ñã khiến cho quy ước dễ bị quy chụp là phục cổ,
hay hiểu nhầm là nội quy của một tổ chức, hội nào ñó.
5. Một số gợi ý mang tính giải pháp
QƯVH không thể “ñóng khung” khi ñời sống làng xã chuyển ñộng và thay
ñổi từng ngày; sự phát triển của nó phải ñược nhìn nhận từ cả khía cạnh sửa ñổi,
bổ sung lẫn loại bỏ một số ñiều không còn cần thiết, phù hợp. Vì vậy, việc thay thế
hương ước cũ là một ñiều tất yếu, một yêu cầu của lịch sử, nhưng không nên xem
nó như là một loại bằng chứng ñiển hình của những ñiều lạc hậu, của một quá khứ
tối tăm cần phải quên ñi, hay một ñối tượng “ñen” ñể ñối sánh hay cường ñiệu cái
ưu việt của cái mới. Hơn nữa, phải ñón nhận nó như một ñiểm kế thừa nhiều tinh
hoa ñã ñược ñúc kết, phải ứng dụng một cách sáng tạo trong những ñiều kiện mới
của lịch sử.
ðể bản QƯVH từng phần thuyết phục, và ñạt hiệu quả thực tiễn, chúng ta
phải ñảm bảo một số vấn ñề về quy trình và nội dung soạn thảo.
* Về mặt quy trình, phải ñảm bảo sự tham gia trực tiếp của người dân trong
bàn bạc thảo luận, một mặt ñể có ñược những phản ánh, yêu cầu, nguyện vọng
thiết thực; mặt khác, ñể ñảm tính tôn trọng và cam kết thực hiện của chính người
ñề ra 18. ðúng như tinh thần Chỉ thị 24 “phải ñược nhân dân trên ñịa bàn thảo
luận, ñược hội nghị cử tri hoặc hội nghị ñại biểu hộ gia ñình ở làng bản, thân, ấp,
cụm dân cư thông qua” (Chỉ thị 24/1998/CT-TTg). Trong ñó, ñặc biệt quan tâm
ñến ý kiến ñóng góp uy tín của các bậc trưởng lão, người già, người am hiểu
truyền thống lịch sử, phong tục tập quán, tín ngưỡng ñịa phương. Bởi trong làng
xã, cộng ñồng tác ñộng mạnh ñến tình cảm, lý trí của từng cá nhân, gia ñình, dòng
họ, vì vậy, nếu QƯVH ñược cộng ñồng chấp nhận thì xem như ñã thành công một
nửa.
Soạn thảo quy ước phải thực sự là dịp ñể dân làng và chính quyền nhìn nhận
một cách toàn diện lại ñịa phương mình không chỉ về chính trị, kinh tế, văn hoá,
18 Thực trạng ở một số làng văn hoá, người dân chỉ biết ñến ñiều khoản quy ñịnh sau khi vi phạm
và bị xử phạt (trường hợp vi phạm trật tự trong hội vật làng Thủ Lễ, Quảng ðiền năm 2006), cho
thấy sự tham gia ñóng góp ý kiến của người dân chưa ñược ñảm bảo.
giáo dục, an ninh trật tự mà cả lịch sử hình thành và phát triển của làng 19. Hơn
nữa, theo chúng tôi, người nông dân hiện nay rất cần và phải hiểu biết về ñời sống
ngày xưa của thôn xóm mình, ñể tự nhận ra ñiều hay và cái không còn phù hợp,
cái cần chối bỏ và cái cần giữ gìn.
* Về mặt nội dung, quán triệt tinh thần “xây dựng” trong tất cả các ñiều
khoản; chú trọng ñến các biện pháp ñiều chỉnh, sửa sai hơn là xử phạt v.v... thể
hiện tính chất “văn hoá”. Bởi, QƯVH thuộc phạm trù ñạo ñức, ñiều chỉnh những
vấn ñề không thể ñưa ra chính quyền, phân xử bằng pháp luật, vì vậy nên chỉ dùng
dư luận ñể ñiều chỉnh hành vi, theo nguyên tắc tự nguyện, tự giác. Mặc nhiên,
không ñặt ra các biện pháp xâm phạm ñến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản, lợi ích hợp pháp của người dân 20.
Nội dung phải phản ánh ñặc ñiểm riêng từng ñịa phương, từng làng, phù hợp
với trình ñộ nhận thức và tâm lý người nông dân, “ñất có lề, quê có thói”. Phải
tránh lối mòn về sự ñơn ñiệu trong nội dung, bởi khi không trở thành hình ảnh
“cấu tiến”, “cầu thị” của riêng từng làng, thôn, khi người dân cảm thấy xa lạ, quy
ước không chỉ tự ñánh mất ưu thế trước ñời sống nông thôn mà ñã tự ñộng vô hiệu
hóa chính mình trong vai trò và chức năng muốn có. Lịch sử cũng ñã chứng minh
sức sống mãnh liệt của từng “pháo ñài làng” khi nước mất, vì thế, sự ñơn ñiệu của
QƯVH là do chưa phản ánh ñược sự phong phú, ña dạng của nếp sống, phong tục.
Một trong những nội dung quan trọng và nhạy cảm của QƯVH là cách nhìn
nhận và ñối ñãi với sinh hoạt tín ngưỡng. Trong ñời sống làng xã, lễ nghi, thờ
cúng là một vấn ñề trọng ñại, không chỉ thuần tuý các hoạt ñộng cúng tế mà trở
thành một chuẩn mực ñạo ñức, nhu cầu tâm linh tối thượng từ phạm vi gia ñình
ñến cộng ñồng. Những ñiều khoản liên quan ñến hoạt ñộng lễ nghi, cúng tế trong
làng v.v… luôn chiếm một tỉ lệ lớn trong hương ước xưa, cho thấy vai trò quan
trọng của vấn ñề này, cũng như nhu cầu tâm linh của người dân, gửi gắm niềm tin
vào thần linh, tiền nhân, cho dù “có nhiều hành lễ không dựa vào một cơ sở nào
cả” (J. Lan, 1998: 283). Vì thế, khi không hiểu nguyên uỷ vấn ñề, sự phủ nhận
19 Qua khảo sát, có nhiều làng không biết mình từng có hương ước. ðiều này cho thấy, có sự xem
nhẹ lịch sử vấn ñề, cũng như nhu cầu kế thừa di sản hương ước trong soạn thảo QƯVH.
20 Những hành vi vượt qua giới hạn ước chế của quy ước hương thôn, liên quan ñến pháp luật, lập
biên bản ñề nghị UBND các cấp có thẩm quyền xử lý tuỳ theo mức ñộ vi phạm. “Những hành vi
vi phạm nghiêm trọng thì lập biên bản ñề nghị UBND xã hoặc cấp trên giải quyết theo luật ñịnh”
(ðiều khoản chung, quy ước thôn Thủ Lễ ðông, trang 4)...
hay cổ suý một cách vội vã, thiếu cơ sở, nhiều lúc sẽ làm tổn thương lòng dân, xáo
trộn ñời sống. Sự tỉnh táo là cần thiết, bởi, ñời sống tâm linh, ñiều thiêng và sự mê
tín luôn có những tác ñộng vô hình và nhiều chiều, sự phân ñịnh lòng tin và mê tín
thực sự không ñơn giản, “chúng ta không vạch ra ranh giới giữa cái này và cái
khác ñược, nhiều khi rất khó ñể biết lúc nào người ta tin và khi nào thì chấm dứt
việc tín ngưỡng ở ñấng thần linh” (J. Lan, 1998: 283), nhưng không hẳn là sự lạnh
lùng, vô cảm, vô thần, dẫn ñến phủ ñịnh sạch trơn.
Hình thức tín ngưỡng làng xã có truyền thống lâu ñời trong cội nguồn văn
hoá dân tộc, thể hiện nhu cầu tâm linh chính ñáng của con người về thổ thần ñất
ñai, vạn vật, tổ tiên, tiền nhân v.v... không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực, mà có
những giá trị về mặt tinh thần quan trọng, giúp người dân cảm thấy yên tâm hơn
trong cuộc mưu sinh. Vì vậy, việc thừa nhận và tôn trọng tín ngưỡng dân gian
không phải là bao che, lưu giữ những mê tín, hủ tục, mà nên hiểu ñó là sự thừa
nhận ý thức tín ngưỡng, ý thức tâm linh.
Tại sao hương ước ñi sâu vào lòng dân, ñược chấp nhận như một truyền
thống làng mạc từ nghìn ñời, từ ñó duy trì cuộc sống làng xã?. Có ý kiến cho rằng,
ñó chính là “sự thừa nhận những tập tục dựa trên nền ñạo ñức và tín ngưỡng
truyền thống. Hương ước dựa vào truyền thống, ñể rồi chuyển thành truyền thống
là bài học về kinh nghiệm quản lý làng xã bằng hương ước” (Bùi Xuân ðính,
1998: 91). Tất cả những quan niệm, sự tác ñộng, mối quan hệ giữa con người với
thần linh, ma quỷ, thế lực siêu nhiên v.v... ñược giải quyết thoả ñáng trong các quy
ñịnh về lễ nghi, thờ cúng, ma chay v.v... Sự thừa nhận vấn ñề tín ngưỡng, làng
không chỉ quản lý các thành viên bằng quy tắc, tục lệ mà còn chế ngự bằng tâm
linh, nghĩa là không chỉ nắm phần “xác” mà nắm cả phần “hồn”.
Trong thực tế, những hoạt ñộng liên quan ñến tín ngưỡng ở làng xã như tảo
mộ, tế khai canh, cúng miếu, tang ma v.v... mọi người dân ñều tham gia một cách
tự nguyện, không cần nhắc nhở, thúc dục như các sinh hoạt khác 1. Dù muốn dù
không, như một phần tất yếu của cuộc sống bấp bênh, ñầy gian truân và thử thách,
“các lễ nghi cầu cúng vẫn diễn ra ñều ñặn hàng tháng, hàng năm, bình dị nhưng
1 Trong những vấn ñề tương tự, chúng tôi ñã thử phân tích vấn ñề theo hai tình huống: [1] những việc
ñược thực hiện tự nguyện, và [2] miễn cưỡng. Kết quả cho thấy, mấu chốt của vấn ñề liên quan ñến
bản chất của sự việc: những hoạt ñộng liên quan ñến tâm linh, huyết thống, ñạo lý v.v... ñều ñược thực
hiện một cách tự nguyện; những hoạt ñộng mang tính chất nghĩa vụ, trách nhiệm, thành tích v.v...
thường ñược thực hiện khá miễn cưỡng, mang tính chất ñối phó, thậm chí có khi còn biểu lộ cả thái ñộ
chống ñối.
nghiêm cẩn, vẫn chất ñầy ước vọng và sự hướng thiện của những cá nhân, gia
ñình, dòng họ và cả cộng ñồng” (Nguyễn Hữu Thông [cb], 2006: 135).
Bài học ở ñây là, khi ñưa ra những ñiều khoản quy ñịnh, phải tính ñến nhu
cầu cũng như ñặc ñiểm tập quán ñịa phương, tránh dẫn ñến sự ñối trọng không cần
thiết, gây ra tâm lý ức chế, nghĩa là tránh tự làm khó cho chính quyền cũng như
người dân21.
Nội dung về xây dựng gia ñình văn hoá - tế bào của xã hội phải cấu thành
một chương riêng. Gia ñình ñặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai ñoạn hiện
nay, khi các giá trị, quan hệ truyền thống bị phá vỡ, thiết chế làng xã, dòng tộc
ñánh mất vai trò, khi sự ràng buộc cộng ñồng với hành vi của mỗi cá nhân không
còn hiệu lực khống chế. Nội dung chính của phong trào “xây dựng gia ñình văn
hoá” phải góp phần tạo dựng những quan hệ tốt ñẹp giữa các thành viên trong gia
ñình, nêu lên thành quy tắc ñể răn dạy, giáo dục. Nhà nước quản lý xã hội thông
qua các ñơn vị làng, làng quản lý thành viên thông qua các dòng họ, dòng họ quản
lý con em qua gia ñình; trước khi là thành viên của làng, cá nhân ñó thuộc về gia
ñình. Không có một tổ chức, cộng ñồng nào có vai trò giáo dục, ảnh hưởng mạnh
ñến cá nhân như gia ñình, “gia ñình là yếu tố giảng ñạo lý, thủ ñắc những ñức tính
mà nhà trường hiện ñại không có” (Cadière. L, 2003: 565).
* Về mặt thực thi, một nguyên tắc quan trọng là muốn thực thi các chủ
trương, chính sách tất yếu phải thông qua các cơ chế, thiết chế vận hành của xã hội
ñó. Ngoài những thiết chế hành chính là rất quan trọng và cần thiết, phải ñề cao
hơn nữa vai trò của những thiết chế phi hành chính/thiết chế truyền thống: làng -
dòng họ - gia ñình, trong ñó, dòng họ và gia ñình là cơ sở cho mọi sự khởi ñầu.
Ở làng xã Bắc miền trung, dòng họ (chi, nhánh) và các mối quan hệ huyết tộc
có vai trò cực kỳ quan trọng trong ñời sống, họ gắn bó mật thiết với làng thông
qua sự gắn bó với dòng tộc. Quản lý truyền thống cho thấy sự cưỡng chế hành vi
21 Hiện nay, tổ chức tang ma là mối quan ngại ñầy nhạy cảm của chính quyền trong giải quyết vấn
ñề vệ sinh môi trường và thời gian ñể tang, ñời sống tâm linh và việc chấp hành quy ước v.v… từ
quan niệm tâm linh, liên quan ñến tính mạng, sự hưng vong của không chỉ gia ñình, dòng họ mà
ñôi khi ñối với cả làng (chết trùng, xấu ngày v.v...), nên thời gian ñể tang thường kéo dài. Hơn
nữa, ngoài việc báo hiếu, ñây còn là dịp “trả nợ miệng”, nên người dân chấp nhận bị phạt. Trong
thực tế, cách giải quyết của chính quyền ñịa phương hoặc xử phạt hoặc làm ngơ ñều là những
biểu hiện bất lực. Bởi vậy, thiết nghĩ không nên ñưa ra những quy ñịnh cứng nhắc, mà có sự co
giãn về khung thời gian (không quá 48 hay 72h) với những ñiều khoản ñi kèm (ñảm bảo vấn ñề
vệ sinh, an ninh trong khâm liệm, chôn cất v.v...).
của cá nhân và tính liên ñới trách nhiệm bằng dòng họ, sự tự ước chế, kiểm soát
lẫn nhau giữa cá nhân, giữa tập thể với tập thể... ñem lại hiệu quả cao. Trong cuộc
vận ñộng và giữ gìn những nét ñẹp làng xã, cải thiện và phát triển ñời sống mọi
mặt ở nông thôn miền trung, không nên xem nhẹ thiết chế dòng họ, không chỉ ñặt
dòng họ trong vai trò tác ñộng cục bộ, ñơn thuần ñối với những thành viên nội tộc.
Trong chừng mực nhất ñịnh, nên duy trì, khuyến khích, ủng hộ mối quan hệ này,
phát huy mặt tích cực trong tác dụng giữ gìn trật tự kỷ cương gia ñình - dòng tộc -
xóm ngõ, trong sản xuất, sinh hoạt. ðồng thời, cũng phải chú ý ñến tính cục bộ,
ngăn chặn tâm lý dòng tộc với quỹ ñạo vận hành riêng, ảnh hưởng ñến sự phát
triển của làng.
Trong thực tế, chúng tôi nhận thấy không có sự xung ñột gay gắt giữa thiết
chế hành chính và phi hành chính, mà vấn ñề là ở chỗ hai thiết chế này chưa tìm
ñược tiếng nói chung, kết hợp một cách hài hoà, tạo ra những phương thức quản lý
mạch lạc, sự tương tác hiệu quả trong vận hành.
Tìm hiểu hương ước xưa và QƯVH hiện nay, những kinh nghiệm kế thừa từ
truyền thống và bài học rút ra từ thực trạng là những cơ sở quan trọng và thực
tiễn trong việc ñịnh hướng và soạn thảo QƯVH một cách tốt hơn. Xây dựng
QƯVH từ việc kế thừa những giá trị vốn ñược dựa trên nền tảng ñạo ñức và tín
ngưỡng truyền thống sẽ làm cho nó dễ ñi sâu vào người dân bởi những nét tương
ñồng và sự gần gũi trong cách nghĩ và ứng xử, không xa lạ với nếp sống truyền
thống của người nông dân, vốn ñã rất gắn bó với làng quê từ bao ñời nay, sẽ tạo
ra cơ sở duy trì phong trào.
L.A.T
(trích từ Thông tin Khoa học,
Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Thông tin tại Huế,
số tháng 3/2007, trang 119-143)
Tài liệu tham khảo
1. Bản quy ước văn hoá thôn Thủ Lễ ðông (2001), Quảng Phước, Quảng ðiền,
TTH.
2. Báo cáo “Bình xét công nhận gia ñình văn hoá năm 2005”, thôn Thủ Lễ
ðông, Quảng Phước, Quảng ðiền.
3. Bùi Xuân Ðính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Hà Nội: Nxb KHXH.
4. Hồ Liên (2002), ðôi ñiều về cái thiêng và văn hoá, Hà Nội: Nxb VHDT -
Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ ðông tây.
5. Hương ước làng văn hoá An Thơ (2001), Hải Hoà, Hải Lăng, Quảng Trị.
6. Hương ước làng văn hoá Hưng Nhơn (1998), Hải Hoà, Hải Lăng, Quảng Trị.
7. Hương ước làng văn hoá, gia ñình văn hoá làng Phú Kinh (2001), Hải Hoà,
Hải Lăng, Quảng Trị.
8. J. Lan (1998), Cây lúa: pháp chế, thờ cúng, tín ngưỡng, trong B.A.V.H (Tập
VI, 1919), Huế: Nxb. Thuận Hoá.
9. L. Cadière (2003), Gia ñình và tôn giáo ở An nam, trong B.A.V.H (tập XVII,
1930), Huế: Nxb. Thuận Hoá.
10. Nguyễn Hữu Thông và Nhóm nghiên cứu biên soạn (2006), Hải Cát: ñất và
người, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
11. Nguyễn Xuân ðức (1997), “Vấn ñề tín ngưỡng và văn hoá tâm linh con
người ngày nay”, trong Văn hoá truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ,
[KYHT], Hà Nội: Nxb KHXH.
12. Ninh Viết Giao (2000), “Từ hương ước ñến quy ước trong xã hội ngày nay”,
trong Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam (Trung tâm
KHXH&NVQG - Viện NCVHDG ), Hà Nội: Nxb. CTQG.
13. Phạm Hồng Việt (1997), “Một số vấn ñề về văn hoá và truyền thống dòng
họ”, trong Văn hoá truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, [KYHT], Hà Nội:
Nxb KHXH.
14. Phan Ðại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc [Cb] (1994), Kinh nghiệm tổ chức
quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Hà Nội: Nxb CTQG.
15. Quy ước hương thôn ðại Phong (1998), Phong Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình.
16. Quy ước văn hoá thôn Tuy Lộc (1999), Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình.
17. Quy ước xây dựng làng văn hóa Tây Thành (1997), Quảng Thành, Quảng
Ðiền, TTH.
18. Quy ước xây dựng làng văn hóa thôn Lộc An (1999), An Thuỷ, Lệ Thuỷ,
Quảng Bình.
19. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 24-1998/CT-TTg, ngày 19-6-1998 về “xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư”.
20. Trương Thìn (2005), Hương ước xưa và quy ước làng văn hoá ngày nay, Hà
Nội: Nxb. Lao ñộng Xã hội.
21. UBND huyện Quảng ðiền (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện cuộc
vận ñộng “Toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hoá” huyện Quảng
ðiền, giai ñoạn 2000 - 2005.
22. UBND tỉnh TTH - BCðPT ”TDðKXDðSVH” (2005), Báo cáo tổng kết 5
năm phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hoá tỉnh TTH giai
ñoạn 2000-2005.
23. UBND xã Quảng Phước (2005), Báo cáo thành tích 5 năm của Ban chỉ ñạo
thực hiện phong trào TDðKXDðSVH xã Quảng Phước.
24. Vũ Duy Mền [cb], Hoàng Minh Lợi (2001), Hương ước làng xã Bắc Bộ với
luật làng Kanto Nhật Bản thế kỷ XVII-XIX, Hà Nội: Viện Sử học.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xh4.PDF