LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
1/. Tóm tắt tình huống: 2
2/. Diễn biến tình huống: 3
3./ Phân tích tình huống: 4
3.1 Bà Nguyễn Thị A: 9
*Mặt tích cực: 9
* Mặt hạn chế: 10
3.2 Phòng Công thương huyện: 11
*Mặt tích cực: 11
*Mặt hạn chế: 12
3.3 Cán bộ địa chính thị trấn: 12
* Mặt tích cực: 12
* Mặt hạn chế: 12
3.4 Thanh tra Sở Xây dựng: 13
*Mặt tích cực: 13
*Hạn chế: 13
3.5 Chủ tịch UBND huyện K: 13
NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ: 14
TÓM LẠI: 16
4/- Các phương án giải quyết khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A: 16
5/- Chọn phương án tối ưu: 18
KIẾN NGHỊ-KẾT LUẬN: 19
1/-Kiến nghị: 19
2/- Kết luận: 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 15094 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Xử lý vi phạm hành chính của Bà Nguyễn Thị A trong việc xây dựng nhà trái pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chủ trương đổi mới, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; kinh tế - xã hội của cả nước luôn có sự tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt thành thị và nông thôn được cải thiện đáng kể.
Để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đạo hóa nông nghiệp và nông thôn, nhà nước đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Các công trình thủy lợi, giao thông, điện, nước, chợ, bưu điện văn hóa,... được đầu tư xây dựng ngày càng nhiều, góp phần tích cực cho phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân...
Nhờ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, giá trị đất một số nơi tăng lên nhanh chóng, nhất là những nơi hạ tầng hoàn chỉnh, khu vực thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp phát triển.
Kinh tế xã hội phát triển, thu nhập người dân có sự cải thiện và nâng lên, nên việc cải tạo, sửa chữa, xây mới nhà ở tại các khu dân cư, nhất là tại các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố và các huyện trong tỉnh tăng nhanh, hình thành các dãy phố khang trang, đúng quy hoạch.
Do giá đất tăng cao, tốc độ xây dựng nhà ở dân cư tăng nhanh nhưng hiểu biết về pháp luật của một bộ phận nhân dân có mặt hạn chế nên nhiều trường hợp xây dựng nhà vi phạm các quy định chung của nhà nước, có không ít trường hợp xây dựng lấn ranh, lấn đất công, xây dựng sai phép…ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước và đoàn kết nội bộ trong cộng đồng dân cư.
Trường hợp bà Nguyễn Thị A, cư ngụ tại thị trấn K, khi xây dựng nhà ở có hành vi lấn đất công; Quá trình xử phạt, cơ quan có thẩm quyền đã phạt vi phạm hành chính và buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện trạng ban đầu; Sau đó bà Nguyễn Thị A khiếu nại gửi đến UBND huyện H và Sở Xây dựng tỉnh. Đây là một trường hợp cụ thể cần nghiên cứu, xem xét nhằm góp phần giải quyết tình trạng xây dựng nhà ở lấn ranh, lấn đất công ở tỉnh ta hiện nay. Vì thế, bản thân xin chọn đề tài “Xử lý vi phạm hành chính của Bà Nguyễn Thị A trong việc xây dựng nhà trái pháp luật” làm tiểu luận tình huống cuối khóa.
Sau đây chúng ta nghiên cứu về trường hợp khiếu nại nói trên.
NỘI DUNG
1/. Tóm tắt tình huống:
Bà Nguyễn Thị A, cư ngụ tại thị trấn K, làm đơn xin giấy phép xây dựng nhà trên nền nhà cũ và ngày 02/3/2009 được phòng Công thương huyện H cấp giấy phép xây dựng với diện tích là 4m X 15 m.
Phòng Công Thương cùng cán bộ địa chính thị trấn K tiến hành cắm mốc xây dựng, có sự xác nhận không lấn ranh của hộ ông B và đất công cộng giáp ranh với bà A.
Nhưng khi tiến hành, Bà Nguyễn Thị A đã xây dựng nhà theo quy cách 01 trệt, 01 lầu với diện tích là 120m2 và nhà xây lại lấn ranh đất công cộng 4,5 m2.
Sau đó, Thanh tra Sở xây dựng phát hiện việc xây nhà trái pháp luật của Bà Nguyễn Thị A và đã làm văn bản kiến nghị phòng Công thương huyện H xem xét lại việc xây dựng nhà trái phép này, đồng thời Đoàn Thanh tra Sở xây dựng xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà Nguyễn Thị A là 7.500.000 đồng.
Thực hiện kiến nghị của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng, Phòng Công thương huyện H kiểm tra việc xây dựng và buộc Bà Nguyễn Thị A tháo dỡ phần xây dựng trái phép; Đồng thời kiến nghị Chủ tịch UBND huyện xử phạt vi phạm hành chính 20.000.000 đồng.
Sau đó, Chủ tịch UBND huyện H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà Nguyễn Thị A là 20.000.000 đồng và buộc Bà tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện trạng ban đầu.
Ngày 10/8/2009, Bà A làm đơn gửi đến UBND huyện H và Sở Xây dựng tỉnh khiếu nại với lý do tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà là quá nặng, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình.
2/. Diễn biến tình huống:
Bà Nguyễn Thị A, cư ngụ tại thị trấn K, huyện H có nhu cầu xây lại căn nhà và đã làm đơn xin giấy phép xây dựng nhà trên nền nhà cũ. Ngày 02/3/2009, Bà Nguyễn Thị A được phòng Công thương huyện H cấp giấy phép xây dựng đúng theo theo diện tích được phép xây dựng là 4m X 15 m.
Ngày 15/3/2009, Phòng Công Thương huyện H cùng cán bộ địa chính thị trấn K tiến hành cắm mốc xây dựng tại thực địa, có sự xác nhận không lấn ranh của hộ ông B và đất công cộng giáp ranh với bà A.
Khi xây dựng, Bà Nguyễn Thị A đã xây dựng nhà theo quy cách 01 trệt, 01 lầu với diện tích là 120m2 và Bà A đã lấn ranh đất công cộng 30 cm suốt chiều dài căn nhà, tổng cộng diện tích lấn chiếm là: 30 cm X 15 m = 4,5 m2.
Ngày 10/7/2009, Thanh tra Sở xây dựng phát hiện việc xây nhà trái phép của Bà Nguyễn Thị A; Thanh tra sở đã làm văn bản kiến nghị phòng Công thương huyện H xem xét lại việc xây dựng nhà trái phép của Bà A, đồng thời Đoàn Thanh tra Sở xây dựng đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là 7.500.000 đồng.
Nhận được công văn của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng, Phòng Công thương huyện H đã tiến hành kiểm tra việc xây dựng nhà của Bà A; Qua kiểm tra, phòng Công thương huyện nhận thấy:
- Bà A xây dựng nhà không đúng với giấy phép được cấp.
- Bà A lấn ra đất công cộng 4,5 m2 là sai với biên bản cắm mốc giáp ranh.
Phòng Công thương huyện H đã buộc Bà A tháo dỡ phần xây dựng trái phép; Đồng thời kiến nghị Chủ tịch UBND huyện xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là 20.000.000 đồng.
Ngày 05/8/2009, trên cơ sở đề nghị của Phòng Công thương huyện, Chủ tịch UBND huyện H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là 20.000.000 đồng và buộc Bà tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện trạng ban đầu.
Ngày 10/8/2009, Bà A làm đơn gửi đến UBND huyện H và Sở Xây dựng tỉnh khiếu nại với lý do tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà là quá nặng, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình.
3./ Phân tích tình huống:
* Cơ sở pháp lý viện dẫn:
Một số văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng để phân tích tình huống:
- Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003
Trong đó chú ý các Điều liên quan như:
+ Khoản 1, điều 62, quy định trước khi khởi công xây dựng công trình chủ đầu tư phải có giấy phép xây dựng, trừ trường hợp có quy định khác.
+ Tại Khoản 2, Điều 66 quy định thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng: Uỷ ban nhân dân cấp huyện cấp giấy phép xây dựng đối với các công trình xây dựng trong đô thị, các trung tâm cụm xã thuộc địa giới hành chính do mình quản lý, trừ các công trình xây dựng quy định tại khoản 1 Điều này.
+ Tại Khoản 3, Điều 67 quy định về trách nhiệm của cơ quan cấp giấy phép xây dựng phải kiểm tra việc thực hiện xây dựng theo giấy phép, đình chỉ xây dựng, thu hồi giấy phép xây dựng khi chủ đầu tư xây dựng công trình vi phạm; Khoản 6 quy định Giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc cấp giấy phép xây dựng.
+ Khoản 1, khoản 2, Điều 68 quy định về Quyền và nghĩa vụ của người xin cấp giấy phép xây dựng: Người xin cấp giấy phép xây dựng có quyền yêu cầu cơ quan cấp giấy phép xây dựng giải thích, hướng dẫn và thực hiện đúng các quy định về cấp giấy phép xây dựng; Thực hiện đúng nội dung của giấy phép xây dựng; khi có sự điều chỉnh, thay đổi thiết kế phải được sự chấp thuận của cơ quan cấp giấy phép xây dựng.
+ Khoản 4, Điều 112 về cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng có quy định Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
+ Điều 113, 114, 115 về Thanh tra xây dựng có quy định về nhiệm vụ của thanh tra xây dựng trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về xây dựng; Có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu và giải trình những vấn đề cần thiết; áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật; Lập biên bản thanh tra, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực hiện các biện pháp xử lý; Có trách nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, trình tự, thủ tục thanh tra theo quy định.
+ Điều 116, quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng thanh tra.
+ Điều 117 quy định quyền khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo; Cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo; Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về xây dựng các cấp có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền của mình; trong trường hợp nhận được khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền của mình thì có trách nhiệm chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, tố cáo biết.
+ Điều 118 quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo: Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 do Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005; Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai số 34/2009/QH12 ngày 29/6/2009.
+ Điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh về sở hữu nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở.
+ Điều 7 quy định về trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện pháp luật về nhà ở.
+ Điều 21, Điều 22 quy định quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở; Quản lý, sử dụng, bảo trì, cải tạo, phá dỡ, xây dựng lại nhà ở của mình theo quy định của pháp luật nhưng không được làm ảnh hưởng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
+ Điều 149 quy định việc xử lý đối với người vi phạm pháp luật về nhà ở; Người có hành vi vi phạm pháp luật về nhà ở thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở sai quy hoạch, không có giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải có giấy phép hoặc xây dựng sai với giấy phép thì phải bị xử lý theo quy định của pháp luật; Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái các quy định của pháp luật về nhà ở, thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm hoặc có hành vi vi phạm khác làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của chủ sở hữu nhà ở, người sử dụng hợp pháp nhà ở thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Bộ Luật dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005.
Điều 265 quy định Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.
- Luật đất đai năm 2003 và các luật sửa đổi, bổ sung luật đất đai.
Điều 107 quy định nghĩa vụ của người sử dụng đất phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới.
- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 24/6/2004 và Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày12/12/2005.
+ Điều 1 quy định tổ chức, công dân có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
+ Điều 3 quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật của mình, nếu thấy trái pháp luật thì kịp thời sửa chữa, khắc phục để tránh phát sinh khiếu nại.
+ Điều 17 quy định quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại: Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại; Được nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải quyết khiếu nại; Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết.
+ Điều 18 quy định quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại: Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; thông báo bằng văn bản về việc thụ lý để giải quyết, gửi quyết định giải quyết cho người khiếu nại và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình.
+ Điều 20 quy định thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) về việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình.
+ Điều 35 quy định trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục, thì người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ không vượt quá thời gian còn lại của thời hạn giải quyết lần đầu.
+ Điều 37 quy định về việc đối thoại; Khi cần thiết, người giải quyết khiếu nại lần đầu gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại.
- Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở (có hiệu lực ngày 01/5/2009)
+ Điều 11 về mức xử phạt chủ đầu tư có hành vi vi phạm các quy định về trật tự xây dựng; tại khoản 1, điểm b có quy định: Phạt tiền đối với chủ đầu tư tổ chức thi công xây dựng công trình sai nội dung giấy phép được cấp có thẩm quyền cấp, trong đó phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với trường hợp xây dựng nhà ở riêng lẻ ở đô thị.
+ Điều 57 quy định thẩm quyền xử phạt của Chánh thanh tra Sở Xây dựng được phạt tiền đến 30.000.000 đồng; Tước quyền sử dụng giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận, chứng chỉ hành nghề thuộc thẩm quyền của cấp huyện, cấp sở cấp; Ban hành quyết định xử phạt hành chính trong trường hợp Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện chậm ban hành quyết định xử phạt theo quy định; Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả:. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra;
+ Điều 60 quy định thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện được phạt tiền đến 30.000.000 đồng; Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả; Buộc khôi phục tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra.
- Thông tư số 24 /2009/TT-BXD của Bộ Xây dựng ngày 22 tháng 7 năm 2009:
+ Điều 11 quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt bổ sung của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện; Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện còn có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy phép xây dựng, các loại giấy phép và chứng chỉ hành nghề khác thuộc thẩm quyền ủy ban nhân dân cấp huyện cấp;
3.1 Bà Nguyễn Thị A:
*Mặt tích cực:
- Khi có nhu cầu xây dựng nhà ở trên nền ngôi cũ, Bà đã làm đủ thủ tục xin phép xây dựng gửi đến Phòng Công thương huyện H, thể hiện ý thức trong việc chấp hành quy định của nhà nước trên lĩnh vực xây dựng; Thực hiện đúng theo khoản 1, điều 62, Luật xây dựng về yêu cầu trước khi khởi công xây dựng công trình nhà ở riêng lẻ đô thị phải xin giấy phép xây dựng.
- Trong quá trình phòng Công thương và cán bộ địa chính của thị trấn K đến cắm mốc xây dựng, Bà thống nhất ranh đất liền kề theo xác nhận không lấn ranh của hộ Ông B và ranh đất công cộng đúng theo quy định.
- Khi được cấp phép xây dựng và được cắm mốc, Bà mới tiến hành xây dựng nhà.
- Thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc khiếu nại, trực tiếp khiếu nại và có đơn ghi rõ nội dung khiếu nại; Đơn khiếu nại gửi đến UBND huyện H là cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Việc khiếu nại và gửi đơn khiếu nại đúng theo điều 1, điều 17 của Luật Khiếu nại, tố cáo.
* Mặt hạn chế:
- Khi tiến hành xây dựng nhà, Bà đã vi phạm so với quy định của giấy phép được cấp. Bà xây dựng sai so với giấy phép được cấp, vi phạm khoản 2, Điều 68 Luật xây dựng quy định việc xây dựng phải thực hiện đúng nội dung của giấy phép xây dựng; khi có sự điều chỉnh, thay đổi thiết kế phải được sự chấp thuận của cơ quan cấp giấy phép xây dựng; Vi phạm Điều 149 Luật Nhà ở quy định tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở sai với giấy phép thì phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Quá trình xây dựng Bà đã lấn ra đất công cộng 4,5 m2 (30 cm X 15 m) mặc dù trước khi xây dựng Bà đã được cơ quan chức năng cắm mốc cụ thể. Hành vi trên vi phạm Điều 265 Bộ Luật dân sự (Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác); Điều 107 Luật đất đai (Nghĩa vụ chung của người sử dụng đất; Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định về sử dụng độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không).
- Việc gửi đơn khiếu nại vào ngày 10/8/2009 đến Sở Xây dựng là không đúng, vì UBND huyện H mới là cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 20 Luật Khiếu nại, tố cáo quy định thẩm quyền của Chủ tịch UBND huyện về việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính của mình.
3.2 Phòng Công thương huyện:
*Mặt tích cực:
- Tiếp nhận hồ sơ và cấp phép xây dựng nhà ở cho Bà A đúng theo khoản 1, điều 62; khoản 2, điều 66 của Luật xây dựng; Cùng cán bộ địa chính thị trấn K cắm mốc xây dựng cho Bà A, đảm bảo có xác nhận không lấn ranh của hộ liền kề và ranh đất công cộng là đúng thẩm quyền quy định.
- Nhận được công văn kiến nghị của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng, phòng đã tiến hành kiểm tra việc xây dựng của hộ Bà A và có kết luận cụ thể việc xây dựng sai phép và lấn ranh đất công cộng đúng thẩm quyền quản lý.
- Việc buộc Bà A tháo dỡ phần xây dựng trái phép và kiến nghị Chủ tịch UBND huyện xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là 20.000.000 đồng là đúng thẩm quyền quy định tại điều 60 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP về thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, mức đề nghị xử phạt 20.000.000 đồng là không có căn cứ pháp lý, vì Bà A xây dựng nhà ở sai nội dung giấy phép được cấp là vi phạm điểm b, khoản 1, điều 11 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP. Theo đó, hành vi xây dựng nhà ở riêng lẻ đô thị sai nội dung giấy phép thì chỉ bị xử phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
*Mặt hạn chế:
- Là cơ quan quản lý, cấp phép trên lĩnh vực xây dựng nhưng thiếu kiểm tra, không kịp thời phát hiện vi phạm trong việc xây dựng không đúng so với giấy phép và lấn ranh đất công cộng của Bà A. Đó là chưa thực tốt trách nhiệm quản lý nhà nước về xây dựng trên địa bàn quản lý theo phân cấp của Chính phủ được quy định tại điều 112 Luật xây dựng.
- Khi nhận được Công văn kiến nghị của Đoàn Thanh tra Sở xây dựng mới tiến hành kiểm tra, đến khi kiểm tra kiến nghị Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện xử phạt hành chính đối với Bà A 20.000.000 đồng là không có căn cứ pháp lý.
- Chưa chủ động phối hợp Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện, cán bộ địa chính thị trấn K để lập biên bản hành vi lấn chiếm đất công của Bà A.
3.3 Cán bộ địa chính thị trấn:
* Mặt tích cực:
Có sự phối hợp tốt với Phòng Công thương trong việc cắm mốc xây dựng, xác định không lấn ranh hộ liền kề và đất công cộng cho Bà A trước khi xây dựng nhà ở. Vì chỉ cán bộ địa chính thị trấn mới là công tác tại cơ sở, nắm vững mốc giới xây dựng, tình hình ranh giới các hộ liền kề và đất công cộng thuộc quản lý của nhà nước.
* Mặt hạn chế:
Là cán bộ công tác tại cơ sở, trực tiếp làm công tác quản lý đất đai, nhưng do thiếu tinh thần trách nhiệm, không kịp thời kiểm tra, phát hiện, báo cáo UBND thị trấn và cơ quan chức năng cấp huyện việc lấn chiếm đất công cộng khi xây nhà của Bà A để ngăn chặn ngay từ đầu.
Chính việc thiếu tinh thần trách nhiệm của cán bộ thị trấn đã để xảy ra hành vi vi phạm của Bà A, dẫn tới việc phải kiểm tra, xử lý hành chính của cơ quan có thẩm quyền và khiếu nại đối với quyết định hành chính của Chủ tịch UBND huyện.
3.4 Thanh tra Sở Xây dựng:
*Mặt tích cực:
- Thanh tra Sở Xây dựng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, kịp thời phát hiện việc xây nhà trái phép của Bà A, xử phạt hành vi vi phạm bằng tiền và kiến nghị phòng Công thương huyện H xem xét việc xây dựng trái phép của Bà A là đúng quy định tại điều 113, 114, 115 Luật xây dựng, theo đó Thanh tra xây dựng có nhiệm vụ thanh tra phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về xây dựng.
- Xử phạt Bà A về hành vi vi phạm trên lĩnh vực trật tự xây dựng với mức 7.500.000 đồng là quy định tại khoản 1, điều 11 và điều 57 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ.
*Hạn chế:
Chưa thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở cơ quan chuyên môn cấp huyện trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng.
3.5 Chủ tịch UBND huyện K:
*Mặt tích cực:
- Chủ tịch UBND huyện ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A trong việc xây nhà trái pháp luật là đúng thẩm quyền theo điều 112 Luật Xây dựng và điều 60 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP của Chính phủ; Nhưng mức phạt bằng tiền 20.000.000 đồng và hình thức phạt bổ sung buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà là không có cơ sở pháp lý.
*Mặt hạn chế:
- Chưa thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở phòng Công thương trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng.
- Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là đúng thẩm quyền, nhưng mức xử phạt 20.000.000 đồng là không có căn cứ pháp lý, vì Bà A xây dựng nhà ở sai nội dung giấy phép được cấp là vi phạm điểm b, khoản 1, điều 11 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP; Theo đó, hành vi vi phạm của Bà A có khung xử phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Bên cạnh đó về hình thức phạt bổ sung buộc tháo dỡ toàn bộ căn nhà là không có cơ sở, vì Bà A chỉ xây dựng lấn chiếm đất công 4,5m2 (30 cm X 15 m), phần còn lại không ảnh hưởng đến phần đất công liền kề.
- Việc ban hành quyết định chưa lấy ý kiến các phòng chuyên môn, chưa đảm bảo quy định pháp luật. Mặt khác, việc để bà A xây dựng ngôi nhà sai phép và lấn ranh đất công cộng còn là trách nhiệm của các phòng liên quan và UBND thị trấn K chưa kịp thời kiểm tra, ngăn chặn ngay từ đầu.
Qua những phân tích tình huống nêu trên chúng ta thấy nổi lên những nguyên nhân và hậu quả sau:
NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ:
*Nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ quan:
Ý thức chấp hành pháp luật, nhất là pháp luật trên lĩnh vực xây dựng của một bộ phận nhân dân chưa cao.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng của cơ quan chuyên môn cấp huyện còn hạn chế, chưa kịp thời theo dõi, kiểm tra việc xây dựng đối với nhà ở được cấp phép.
+ Công tác phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về xây dựng nói riêng cho nhân dân có mặt còn hạn chế.
* Hậu quả:
- Về Kinh tế:
Hành vi vi phạm trên lĩnh vực xây dựng khi bị xử phạt hành chính có mức phạt bằng tiền cao; Mặt khác nếu thực hiện việc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà hay một phần ngôi nhà thì thiệt hại rất lớn, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình Bà A.
Các cơ quan có liên quan phải kiểm tra, xử lý vi phạm và tập trung giải quyết khiếu nại gây tốn kém thời gian và kinh phí.
- Về xã hội:
+ Do ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao, dẫn đến hành vi vi phạm và bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đã ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của họ đối với xã hội.
+ Cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng chưa thực hiện hết trách nhiệm, thiếu kiểm tra, ngăn chặn việc xây nhà không đúng so với giấy phép và lấn ranh đất công cộng đã tạo dư luận xã hội không tốt, ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan chuyên môn.
TÓM LẠI:
Vấn đề xử lý vi phạm hành chính của bà Nguyễn Thị A xây dựng nhà trái pháp luật được phân tích trên cơ sở Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Bộ Luật Dân sự và các Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành. Qua nghiên cứu, phân tích diễn biến tình huống xét thấy việc xử phạt của Thanh tra Sở Xây dựng đối với Bà A là đúng thẩm quyền và mức phạt. Về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND huyện K là đúng thẩm quyền; Tuy nhiên, mức phạt tiền 20.000.000 đồng và hình thức phạt bổ sung buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà trả lại hiện trạng ban đầu là không có cơ sở pháp lý.
Do đó, việc phân tích diễn biến, xem xét, lựa chọn phương án phù hợp nhằm giải quyết đúng pháp luật, không ảnh hưởng đến dư luận xã hội, tạo tiền lệ không tốt và hạn chế thiệt hại về kinh tế cho Bà A là cần thiết.
4/- Các phương án giải quyết khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A:
4.1. Phương án 1:
Căn cứ theo điều 112 Luật Xây dựng về công tác quản lý nhà nước về xây dựng theo phân cấp của Chính phủ; điều 60 của Nghị định số 23/2009/NĐ-CP của Chính phủ; Giữ nguyên Quyết định của Chủ tịch UBND huyện K ngày 05/8/2009 xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà Nguyễn Thị A là 20.000.000 đồng và buộc Bà tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện trạng ban đầu.
Ưu điểm: Việc giữ nguyên quyết định này giữ nghiêm được trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng, bảo đảm tính hiệu lực của quyết định đã được Chủ tịch UBND huyện ban hành.
Hạn chế: Quyết định của Chủ tịch UBND huyện K về xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A là 20.000.000 đồng và buộc Bà tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà, trả lại hiện trạng ban đầu là không đúng căn cứ pháp lý; Việc buộc tháo dỡ toàn bộ ngôi nhà sẽ thiệt hại lớn về kinh tế cho bà A. Quá trình buộc tháo dỡ có thể phát sinh những khiếu nại kéo dài và phải tiến hành cưỡng chế thi hành quyết định nếu bà A không tự giác thi hành. Mặt khác, Bà A có thể khởi kiện đối với quyết định hành chính này của Chủ tịch UBND huyện tại Tòa án nhân dân huyện.
4.2. Phương án 2:
Căn cứ điều 112 Luật Xây dựng; Điều 21, 22 Luật Nhà ở; khoản 1, điều 11, điều 60 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
Chủ tịch UBND huyện K thu hồi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 05/8/2009 đối với Bà A, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới đối với Bà A, mức phạt bằng tiền là 10.000.000 đồng và buộc Bà A làm cam kết tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm đất công khi nhà nước có nhu cầu sử dụng.
Ưu điểm: Đảm bảo căn cứ pháp lý và việc thi hành quyết định, trước mắt giảm thiệt hại về kinh tế, hạn chế việc khiếu nại, thắc mắc hoặc cưỡng chế thi hành quyết định.
Hạn chế: Việc buộc Bà A cam kết tháo dỡ phần xây dựng nhà lấn chiếm đất công khi nhà nước có nhu cầu sử dụng làm Bà A không an tâm, ảnh hưởng đến sinh hoạt và đời sống vì không biết khi nào nhà nước có nhu cầu sử dụng phần đất công; Mặt khác, Bà A không thể tiếp tục đầu tư hoàn thiện ngôi nhà. Về mặt xã hội, dư luận không có sự đồng tình cao.
4.3. Phương án 3:
Căn cứ điều 112 Luật Xây dựng; Điều 21, 22 Luật Nhà ở; khoản 1, điều 11, điều 60 của Nghị định 23/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
Chủ tịch UBND huyện K thu hồi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 05/8/2009 đối với Bà A, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới đối với Bà A, mức phạt bằng tiền là 10.000.000 đồng; Đồng thời buộc Bà A phải tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm đất công.
Ưu điểm: Đảm bảo căn cứ pháp lý ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tạo điều kiện cho Bà A khắc phục ngay hậu quả của việc lấn chiếm đất công. Sau khi Bà A tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm, tuy có ảnh hưởng về kinh tế nhưng Bà có điều kiện tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà, an tâm trong cuộc sống. Phương án này tạo được sự đồng tình trong xã hội và có tính giáo dục, ngăn chặn các hành vi vi phạm tương tự trên lĩnh vực xây dựng.
Hạn chế: Sau khi Bà A nộp phạt bằng tiền 10.000.000 đồng và tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm đất công sẽ có ảnh hưởng về kinh tế gia đình của Bà, tuy nhiên, Bà có điều kiện tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà, an tâm trong cuộc sống. Nếu Bà không tự giác chấp hành việc tháo dỡ có thể phải cưỡng chế thi hành, nhưng nếu làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích về pháp luật, bà sẽ nghiêm túc chấp hành quyết định.
5/- Chọn phương án tối ưu:
Chọn phương án 3 vì các lý do:
- Đảm bảo căn cứ pháp lý và tính nghiêm minh của pháp luật khi ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bà A, với mức phạt 10.000.000 đồng và buộc tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm đất công.
Tạo điều kiện cho Bà A khắc phục ngay hậu quả của việc xây dựng trái phép. Sau khi Bà A tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm, tuy có ảnh hưởng về kinh tế nhưng Bà có điều kiện tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà, an tâm trong cuộc sống.
Phương án này tạo được sự đồng tình cao trong xã hội và có tính giáo dục, ngăn chặn các hành vi vi phạm tương tự trên lĩnh vực xây dựng.
KIẾN NGHỊ-KẾT LUẬN:
1/-Kiến nghị:
Qua giải quyết khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A đối với quyết định của Chủ tịch UBND huyện, xin có một số kiến nghị sau:
- UBND huyện cần chỉ đạo phòng Công thương phối hợp UBND thị trấn K tổ chức công bố thực hiện quyết định của Chủ tịch UBND huyện; đồng thời phải kiểm điểm Bà A về việc vi phạm quy định trên lĩnh vực xây dựng và quản lý đất đai.
Kiểm điểm trách nhiệm của Phòng Công thương trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng; Nâng cao chất lượng đội ngũ CB-CC cả về năng lực và tinh thần trách nhiệm trong việc thi hành công vụ, đặc biệt là đối với vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Cần phê bình đối với cán bộ địa chính và UBND thị trấn K về tinh thần trách nhiệm trong việc quản lý đối với địa bàn phụ trách. Vì cán bộ địa chính thị trấn ở tại cơ sở, nếu phát hiện ngay việc lấn chiếm đất công của Bà A và báo cáo cơ quan có thẩm quyền chặn từ đầu thì sẽ không gây ra hậu quả phải giải quyết như trên.
- UBND huyện cần giao ngành chức năng giám sát việc thực hiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Bà A là nộp phạt và tháo dỡ phần xây dựng lấn chiếm đất công đúng quy định.
- Việc ban hành một quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Bà A ngày 05/8/2009 là sai sót vì chưa đúng căn cứ pháp lý, UBND huyện cần kiểm điểm rút kinh nghiệm về trình tự ban hành quyết định, trách nhiệm cơ quan tham mưu ban hành quyết định.
2/- Kết luận:
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đổi mới, Đảng và Nhà nước ta tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; kinh tế - xã hội của cả nước luôn có sự tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt thành thị và nông thôn được cải thiện đáng kể. Kinh tế xã hội phát triển, thu nhập người dân có sự cải thiện và nâng lên, việc cải tạo, sửa chữa, xây mới nhà ở tại các khu dân cư, nhất là tại các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố và các huyện trong tỉnh tăng nhanh, hình thành các dãy phố khang trang, đúng quy hoạch. Do đó, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực xây dựng cần có sự tập trung nhiều hơn nữa.
Qua việc khiếu nại của Bà Nguyễn Thị A cho thấy công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và phát luật trên lĩnh vực xây dựng nói riêng cần tiến hành rộng rãi trong nhân dân; Cần phải xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên nhằm nâng cao ý thức và hiểu biết về pháp luật trong nhân dân. Các cơ quan chuyên môn cần phối hợp thật tốt với MTTQ và các Đoàn thể cùng cấp trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp và tủ sách pháp luật các xã, thị trấn.
Cũng qua sự việc trên cho thấy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực, nhất là đối với lĩnh vực xây dựng chưa cao. Nguyên nhân còn một ít phòng chuyên môn và CB-CC chưa thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc. Do đó cần tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực xây dựng; cần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên môn, trước hết là vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Sống và làm theo pháp luật là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi công dân; Đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác chuyên môn, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, theo dõi kiểm tra xử lý kịp thời hành vi vi phạm… là một trong các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm, nhất là trên lĩnh vực xây dựng. Thực hiện tốt hai yêu cầu trên sẽ góp phần vào việc giữ gìn trật tự kỷ cương hành chính./.
Làm tại Tân Trụ 11/10/2009.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/- Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003
2/- Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 do Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005; Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai số 34/2009/QH12 ngày 29/6/2009.
3/- Bộ Luật dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005.
4/- Luật đất đai năm 2003 và các luật sửa đổi, bổ sung luật đất đai.
5/- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 24/6/2004 và Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày12/12/2005.
6/- Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.
6/- Thông tư số 24 /2009/TT-BXD của Bộ Xây dựng ngày 22 tháng 7 năm 2009.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HCD (14).doc