Tiểu luận Yếu tố không gian và thời gian trong tri thức đi biển của ngư dân Thuận An

Xu hướng khai hóa, truyền bá văn minh trong thời kỳ thống trị của chính sách thuộc địa ít nhiều đã tạo nên những quan niệm lệch lạc hoặc không thấy hết giá trị của tri thức bản địa. Trong những thập niên vừa qua, khi tiếp cận và lý giải nhiều bài toán hóc búa trong việc giải quyết môi trường, sinh kế, nạn nghèo đói, kể cả những giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, tri thức bản địa đã được đặt ra và được nhìn nhận một cách khách quan, tích cực hơn nhiều. Người ta đã nghĩ đến việc phải học và tổng kết được tri thức bản địa một vùng đất, một tộc người, một cộng đồng trước khi chuyển giao hay hỗ trợ những chương trình nâng cao, cải thiện cuộc sống của đối tượng tiếp nhận. Vấn đề sở hữu trí tuệ tri thức truyền thống/tri thức bản địa cũng được thế giới đặt ra một cách nghiêm túc bởi những giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội mà nó đem lại. Hệ thống tri thức bản địa, vì vậy, từng bước có địa vị bình đẳng như bất cứ ngành khoa học nào. Tri thức bản địa cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong đó, các đường ranh phân chia địa hạt nghiên cứu mà người ta thường cố thiết lập trở nên mềm mại, nếu không muốn nói là không cần thiết. Một thực tế khác cũng đặt ra, đó là những hình ảnh quen thuộc của các xã hội truyền thống đã và đang lùi xa, mờ nhạt đi một cách nhanh chóng trước nhịp sống hiện đại. Vì thế, nghiên cứu tri thức bản địa không chỉ dừng lại ý nghĩa thực dụng - “gạn đục khơi trong” để đem lại lợi ích (kinh tế, xã hội, môi sinh ) cho con người - mà còn góp phần tái hiện lại “khẩn cấp”, “mô hình tư duy” trong quá khứ của một cộng đồng nhất định. Dưới góc độ nhân học, điều này thực sự có ý nghĩa quan trọng để chủ thể của mỗi nền văn hóa có thể nhận chân chính mình, không chỉ là những phẩm chất, những hình ảnh trong lịch sử mà cả trong quá trình tiếp biến văn hóa đang diễn ra một cách tất yếu trước yêu cầu của thời đại. Thông qua một khảo sát cụ thể về Yếu tố không gian và thời gian trong tri thức biển của của ngư dân Thuận An (Thừa Thiên Huế), chúng ta sẽ thấy được sự chi phối của điều kiện sống đến tâm lý, tư duy, văn hóa của một cộng đồng; những dạng thức bảo tồn, lưu giữ, truyền bá và tác dụng của những kinh nghiệm truyền thống trong cuộc sinh tồn của người dân địa phương. Báo cáo dài 23 trang, chia làm 3 phần

pdf14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Yếu tố không gian và thời gian trong tri thức đi biển của ngư dân Thuận An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
YÃÚU TÄÚ KHÄNG GIAN VAÌ THÅÌI GIAN TRONG TRI THÆÏC ÂI BIÃØN CUÍA NGÆ DÁN THUÁÛN AN - Nguyễn Thị Tâm Hạnh 1. Dẫn luận Xu hướng khai hóa, truyền bá văn minh trong thời kỳ thống trị của chính sách thuộc ñịa ít nhiều ñã tạo nên những quan niệm lệch lạc hoặc không thấy hết giá trị của tri thức bản ñịa. Trong những thập niên vừa qua, khi tiếp cận và lý giải nhiều bài toán hóc búa trong việc giải quyết môi trường, sinh kế, nạn nghèo ñói, kể cả những giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, tri thức bản ñịa ñã ñược ñặt ra và ñược nhìn nhận một cách khách quan, tích cực hơn nhiều. Người ta ñã nghĩ ñến việc phải học và tổng kết ñược tri thức bản ñịa một vùng ñất, một tộc người, một cộng ñồng trước khi chuyển giao hay hỗ trợ những chương trình nâng cao, cải thiện cuộc sống của ñối tượng tiếp nhận. Vấn ñề sở hữu trí tuệ tri thức truyền thống/tri thức bản ñịa cũng ñược thế giới ñặt ra một cách nghiêm túc bởi những giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội mà nó ñem lại. Hệ thống tri thức bản ñịa, vì vậy, từng bước có ñịa vị bình ñẳng như bất cứ ngành khoa học nào. Tri thức bản ñịa cũng là ñối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau 1. Trong ñó, các ñường ranh phân chia ñịa hạt nghiên cứu mà người ta 1 “Tri thức bản ñịa: ñó là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân, hình thành và tích lũy trong quá trình lịch sử lâu dài của cộng ñồng thông qua trải nghiệm trong quá trình sản xuất, quan hệ xã hội và thích ứng môi trường. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ ñời này sang ñời khác bằng trí nhớ và thực hành xã hội” (Ngô ðức Thịnh, 2004: 3). Người ta cũng có thể ñưa ra nhiều cách ñịnh nghĩa khác, tuy nhiên, dù quan niệm như thế nào, những khía cạnh không thể không nhắc ñến khi bàn về tri thức bản ñịa là: (1) Nội dung/lĩnh vực của tri thức: Có thể phân chia theo từng lĩnh vực gắn liền với ñời sống của con người: Tri thức về tự nhiên và môi trường; Tri thức về bản thân con người (cơ thể học, dưỡng sinh, trị bệnh…); Tri thức về sản xuất, khai thác và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và môi trường; Tri thức về ứng xử xã hội và quản lý cộng ñồng; Tri thức về sáng tạo nghệ thuật (Ngô ðức Thịnh, 2004). (2) Hình thức tồn tại của tri thức: Bằng trí nhớ, truyền miệng, hay bằng thực hành (thực hành sản xuất và thực hành xã hội). thường cố thiết lập trở nên mềm mại, nếu không muốn nói là không cần thiết. Một thực tế khác cũng ñặt ra, ñó là những hình ảnh quen thuộc của các xã hội truyền thống ñã và ñang lùi xa, mờ nhạt ñi một cách nhanh chóng trước nhịp sống hiện ñại. Vì thế, nghiên cứu tri thức bản ñịa không chỉ dừng lại ý nghĩa thực dụng - “gạn ñục khơi trong” ñể ñem lại lợi ích (kinh tế, xã hội, môi sinh…) cho con người - mà còn góp phần tái hiện lại “khẩn cấp” 2 “mô hình tư duy” trong quá khứ của một cộng ñồng nhất ñịnh. Dưới góc ñộ nhân học, ñiều này thực sự có ý nghĩa quan trọng ñể chủ thể của mỗi nền văn hóa có thể nhận chân chính mình, không chỉ là những phẩm chất, những hình ảnh trong lịch sử mà cả trong quá trình tiếp biến văn hóa ñang diễn ra một cách tất yếu trước yêu cầu của thời ñại. Thông qua một khảo sát cụ thể về Yếu tố không gian và thời gian trong tri thức biển của của ngư dân Thuận An 3 (Thừa Thiên Huế), chúng ta sẽ thấy ñược sự chi phối của ñiều kiện sống ñến tâm lý, tư duy, văn hóa của một cộng ñồng; những dạng thức bảo tồn, lưu giữ, truyền bá và tác dụng của những kinh nghiệm truyền thống trong cuộc sinh tồn của người dân ñịa phương. 2. Sự tri nhận không gian và thời gian của ngư dân vùng biển Thuận An 2.1. Không gian * Núi ñồi, sải tay - những ñơn vị không gian vật lý (3) Tính truyền thống và tính ñịa phương: Sự tích lũy và “chuyển giao” tri thức, kinh nghiệm qua nhiều thế hệ trong một cộng ñồng tương ñối hẹp trên một không gian ñịa lý nhất ñịnh và ñược cộng ñồng ñó thừa nhận. Như vậy, ngay trong khái niệm, tri thức bản ñịa ñã thể hiện mình là ñối tượng quan tâm của nhiều lĩnh vực khác nhau. 2 Từ ñầu thế kỷ XX, nhà nhân học Claude Levis Straus ñã tiên ñoán “Ngày xưa, nhân loại có nhiều nên văn minh khác nhau nhưng cách biệt không có liên lạc gì với nhau. Người ta có thể dự ñoán ñến thế kỷ 21 chỉ còn lại một thứ văn hóa, một thứ nhân loại. Do ñó, chúng ta (những nhà nhân học văn hóa) tựa những nhà thiên văn học ñứng ở ñịa ñiểm dễ quan sát sự xuất hiện những vì sao ñặc biệt và sẽ không còn xảy ra nữa. Trong hai thế kỷ và chỉ hai thế kỷ mà thôi, một nhân loại ñi qua bên cạnh một nhân loại khác và có thể quan sát nó. Chính vì thế mà chúng tôi nghĩ rằng, công việc của chúng tôi khẩn cấp hơn là việc nghiên cứu nguyên tử hay chinh phục không gian là những công trình không như nhân học, bị hạn chế bởi thời gian”. Dẫn theo: (Bùi Quang Thắng, 2001: 75). 3 Thuận An chính là một phần của làng Thai Dương ñược nhắc ñến trong “Ô Châu Cận lục” (thế kỷ XV), cách kinh thành Huế hơn 10 km về phía ðông Bắc. Sau lưng là biển cả, trước mặt là ñầm phá, cuộc sống của người dân nơi ñây gắn liền với ngư nghiệp từ ngày mới khai thiết lập làng. Do ñó, nhiều kinh nghiệm ñánh bắt ñã ñược ñúc rút và trao truyền qua nhiều thế hệ. Ngày nhìn núi, túi (tối) nhìn sao - lấy núi làm vật ñịnh vị là hình thức nhận biết các thuộc tính và quan hệ của không gian không xa lạ ñối với nhiều dân tộc. Trong sinh cảnh núi biển liền kề của miền Trung Việt Nam, núi song hành cùng biển, có núi “trên cao chót vót ñến tầng mây, dưới chạy dăng ñến bờ biển, gần như ñứng trong biển…” (QSQ Triều Nguyễn, 1997: 132), núi là hiện thực bày ra trước mắt của người ñi biển. Hay ñúng hơn, họ chăm chăm nhìn núi như một tiêu ñiểm, mà từ ñó, sẽ xác ñịnh ñược thị trường mưu sinh mang tính sống còn. Từ núi, những ý niệm ñầy cảm tính về không gian cũng hình thành và ñược thể hiện một cách giàu cảm xúc, giàu hình ảnh bằng ngôn ngữ tự nhiên của người dân ñịa phương. Trong hệ thống núi giữ vai trò như những “ngọn hải ñăng” của ngư dân vùng biển Thuận An, phải kể ñến hòn ðăng, hòn ðụn, hòn Bò, hòn núi Mẹ và ba hòn non/ba lao Kế ðợi. Thoạt nhìn, từ “hòn” ñứng trước mỗi tên núi không có gì ñặc biệt, bởi nó thường dùng ñể “mô tả hình khối, thường là tròn, gọn của ñơn vị sự vật: hòn bi, hòn ñạn, hòn núi, hòn ñảo…(Lý Toàn Thắng, 2005: 222). Song, trong tiếng Việt, nhóm các sự vật có hình khối, không gian ba chiều còn có thể ñi kèm với: ngọn (ngọn núi), quả/trái (quả/trái núi), viên (viên núi - ít dùng). Khoảng trống những từ chỉ loại này trong cách ñịnh danh trên khiến người ta có thể liên tưởng về một sự ñồng nhất thuộc tính không gian 4 của các núi. Trên thực tế, hòn ðăng ñối lập hoàn toàn với hòn ðụn về hình dáng, kích thước, khoảng cách và không có mối liên hệ nào với hòn Bò 5. Tương tự, nếu như hòn núi Mẹ nổi lên khá 4 Mặc dù quả, hòn, ngọn, viên ñều là những loại từ mô tả các sự vật có không gian ba chiều nhưng giữa chúng có sự phân biệt nhất ñịnh: - Quả/trái: mô tả hình như quả cây, thường là khối tròn, của ñơn vị sự vật - Ngọn: mô tả hình ngọn hoặc hình nón của sự vật - Hòn: mô tả hình khối, thường là tròn, gọn của ñơn vị sự vật - Viên: mô tả hình khối thường là nhỏ và tròn của ñơn vị sự vật 5 Hòn ðăng chính là núi Ngự Bình theo cách gọi khác của người vùng biển Thuận An; còn hòn ðụn chính là ngọn Kim Phụng (hay Thương Sơn). Về hình dáng khác nhau của hai núi này có thể thấy rõ với những gì ñược miêu tả trong ðại Nam Nhất Thống Chí: “Núi Ngự Bình ở phía Tây huyện Hương Trà, nổi vọt lên ở quãng ñất bằng như hình bức bình phong làm lớp án thứ nhất trước kinh thành, tục gọi núi Bằng (…), ñỉnh núi bằng phẳng khắp nơi trồng cây thông” (QSQ Triều Nguyễn, 1997: 121); “Núi Thương: ở phía Nam huyện Hương Trà, có tên nữa là núi Thiên Dữu, hình thể khum khum cao lớn, như vựa thóc tròn, nên gọi tên thế” (Thương có nghĩa là vựa thóc) (QSQ triều Nguyễn, 1997: 122 - 123). Trước ñó, “Ô Châu Cận Lục” cũng ñã ghi: “Núi Thương Sơn: tại ñầu nguồn huyện Kim Trà. Dáng núi ñẹp cao nhọn lên hơn hẳn các núi non bên ñơn ñộc thì ba hòn lao Kế ðợi sát bên nhau lùi khá xa về phía ðông Nam. Lý giải hiện tượng “ñồng nhất” này, theo chúng tôi, phải xuất phát từ khung quy chiếu và tầm mắt của người ñi biển. Giữa trời biển bao la, tỷ lệ kích thước giữa núi và mặt nước là quá lớn, sự thay ñổi kích thước hay ñường nét của núi dường như không ñáng kể ñể thay ñổi loại từ không gian 6. Hơn thế, núi càng lớn, người ñi biển càng lùi ra xa mới có thể nhìn nhận và mô tả nó như một hình khối. ðiều ñó có nghĩa là mẫu số (kích thước mặt nước) và tử số (kích thước núi) luôn luôn tỷ lệ thuận. ðể minh hoạ ñiều này, chúng ta có thể quan sát cách ñịnh vị của người ñi biển vùng Thuận An qua hệ thống núi ñã nêu. Trong khoảng chừng 5 hải lý trở vào, người ñi biển nhìn về phía Tây Nam, căn cứ vào hòn ðăng, hòn ðụn, hòn Bò ñể xác ñịnh vị trí. Theo thứ tự thấp trước, cao sau, ñỉnh của những ngọn núi này dần dần xuất hiện hiện trong tầm mắt của ngư dân và tạo thành một tam giác thẳng góc với mặt ñất 7, ñỉnh là hòn ðụn (ở giữa) và cạnh ñáy là ñoạn thẳng nối hai ñỉnh của hòn ðăng (phía Nam) và hòn Bò (phía hữu. Sánh nhìn bốn phía, trông như một kho ñụn” (Vô danh thị, 2001: 22); hòn Bò nằm ở phía Bắc của hòn ðụn, hình thể chỗ cao, chỗ thấp trông giống như ñầu bò nên dân gian gọi tên thế. Tên của hai ngọn núi này cũng ñược nhắc ñến trong hai câu ñối ghi ở ñình làng Thuận An: “Sa ñộng sức thanh cao, Phụng lãnh Bình sơn triều bão thiên nhiên kình tứ trụ; Hải Thành chiêm ngoạn cảnh, Cáp châu Hương thủy cảnh hồi ñịa thế xuất Tam Thai” (Lê Văn Kỳ, 2000: 124 - 125). 6 Các nhà ngôn ngữ học cho rằng: tùy thuộc vào tính nổi trội thuộc tính không gian của sự vật (hình dáng, tư thế, kích thước) ñược mô tả ở thời ñiểm nói, người ta có thể gắn cho nó những loại từ không gian khác nhau (ñịnh hướng không gian tương ñối). Ví dụ: nếu núi nổi trội hình dáng tròn thì gọi là quả núi, nếu nổi trội hình dáng nhọn thì gọi là ngọn núi. Trường hợp hòn núi và quả núi dường như không có sự phân biệt, nhưng ñặt trong liên tưởng với quả núi/ hòn non bộ thì rõ ràng chúng biểu thị những kích thước khác nhau (Lý Toàn Thắng, 2005: 224 - 225). Mặt khác, “hòn” trong từ ñiển Tiếng Việt còn có nghĩa là cù lao nhỏ mà cù lao có nghĩa là ñảo: “trong các ngôn ngữ thuộc dòng Nam ðảo, Bù - lao hay Pu - lao có nghĩa là ñảo. ðến Nam bộ, từ này ñược việt hóa thành Cù lao (Cù Lao Thượng, cù lao Thới)” (Nguyễn Duy Thiệu, 183). Xâu chuỗi những ñiều này lại với nhau, chúng tôi có thể liên tưởng ñến một quy luật, hay ít ra là một hiện tượng phổ biến, tất cả những ñịa hình lồi (núi, ñồi, ñảo), dù hình dáng, kích thước như thế nào, nếu ñược người ñi biển nhìn qua khung quy chiếu là mặt nước biển ñều ñược mô tả chung bằng từ loại hòn. Trong một số Nhật trình của người ñi biển, các núi hay ñảo cũng chủ yếu ñược gọi là hòn: hòn Sầm, hòn Nhạn, hòn Cầu, hòn Nan, hòn Mực, hòn Cương Gián, hòn Ông, hòn Mụ, hòn Vũng Tàu…Xem thêm: (Nguyễn Thăng Long, 2005: 104 - 108). ðây cùng là ñiểm khác biệt khá lý thú trong cách nhìn thế giới của người ñi biển. 7 Bằng trực giác, người ta có cảm tưởng như các ngọn núi trên cùng nằm trên một mặt phẳng. Bắc). Lấy hòn ðụn làm tiêu ñiểm, càng ñi về phía Bắc, người ta có cảm giác như cạnh bên: hòn ðụn - hòn ðăng ngắn hơn; ngược lại, càng ñi về phía Nam, hòn Bò dường như “chạy” tới gần hòn ðụn hơn. Từ sự thay ñổi ñộ dài ngắn này, người ta sẽ xác ñịnh ñược vị trí của các rạn như: rạn Bò, rạn Thầy, rạn Nhà Toan, rạn Dù…, những nơi tập trung nhiều tôm cá. Cũng có khi người ñi biển căn cứ vào vị trí tương ñối của các vệt dài (ñường mòn) trên núi so với một tiêu ñiểm khác gần bờ (ngọn cây dương, cửa Eo, trấn Hải ðài…) ñể bắt rạn hay tìm ñúng ổ mực. Khi bắt ñầu không thể thấy hòn ðụn, ngư dân vùng biển Thuận An sẽ nhìn sang hòn núi Mẹ (hướng ðông Nam). ðiểm nhìn này cùng là ranh giới giữa khơi và lôộng. So với vùng biển ñược xác ñịnh là khơi hiện nay, quan niệm truyền thống về khơi (ra khơi, vào lộông) rất hạn hẹp, thực chất, nó không xa hơn 10 hải lý và luôn chịu sự “neo lại” của những ngọn núi trong ñất liền. Với ngư dân ở Thuận An và vùng lân cận (Vinh Thanh, Vinh Hiền…), hòn núi Mẹ và ba hòn lao Kế ðợi 8 chính là những “cột neo” ñó. Và, cũng từ ñây, ngư dân Thuận An ñã hình thành một cách tính khoảng cách bằng cách ñếm số núi. Ban ñầu, người ñi biển chỉ nhìn thấy hòn núi Mẹ, nhưng nếu càng di chuyển về phía ðông hoặc ðông Nam, góc nhìn thay ñổi, ba hòn non dần dần ra khỏi tầm che khuất của núi Mẹ khiến người ta có cảm tưởng như chúng càng lúc càng lao ra biển. Số non có thể nhìn thấy càng nhiều, khoảng cách giữa người ñi biển so với bờ càng lớn. ðơn vị tính ñộ dài của không gian lúc này ñược biểu thị bằng: một non, hai non, hai non rưỡi, ba non, bốn non, năm non - vốn không hề có mặt trong hệ thống danh từ ñơn vị ñại lượng của tiếng Việt (như: mẫu, sào, thước, mét, sải, gang, nắm, vốc…). Trong cách ño khoảng cách bằng số lượng núi này, chúng tôi ñặc biệt chú ý ñến các ñơn vị: bốn non hở một cùi, năm non. Bốn non hở một cùi là góc nhìn mà 3 hòn lao Kế ðợi và hòn núi Mẹ tạo thành một hàng ngang, và núi Mẹ tách ra cách ba hòn còn lại với khoảng cách bằng một cùi tay. Cách nhìn này phản ánh một sự nhận thức ñầy cảm tính về không gian của người ñi biển, khái niệm hòn dường như không hề có không gian bên trong như nó cần phải có; khoảng cách thực giữa các ngọn núi ñược tính bằng một tỷ lệ xích rất ñộc ñáo, trong ñó, tử số chính là ñộ rộng của một phần cơ thể người: cùi tay. Cũng xuất phát từ lối tư duy ñầy hình ảnh về hình học, vật lý học, ngư dân vùng biển Thuận An còn có một cách ño bằng… tưởng tượng. Sau khi bốn non hở một cùi ñã khuất, không hề có một tiêu ñiểm nào có thể nhìn thấy, nhưng bằng cách dạt chừng, năm non vẫn hiện hữu trong tâm thức của họ 8 Hòn núi Mẹ, hòn lao Kế ðợi là những tên gọi dân gian do người ñịa phương ñặt cho các hòn núi và ñảo ở ðà Nẵng. Chúng tôi chưa xác ñịnh chính xác “tên chữ” của chúng. như một ñơn vị có thực. Từ góc ñộ tâm lý, thêm một lần nữa, chi tiết này giúp ta có thể thấy sự hạn hữu trong cách nhìn truyền thống về biển của ngư dân, cũng như của người Việt. Không chỉ ño khoảng cách so với bờ, dò ñộ sâu ở từng khu vực biển là việc làm rất cần thiết ñối với ngư dân. Bởi, nếu với những người làm nghề khô, mặt ñất ñược nhìn nhận như vật nâng ñỡ sự sống - hiểu theo nghĩa ñen lẫn nghĩa bóng - thì với người ñi biển, không gian bên dưới mặt nước mới thực sự ñem lại ý nghĩa cho cuộc mưu sinh. Cũng như nhiều vùng khác, sải 9 là ñơn vị ño ñộ sâu ñược ngư dân vùng biển Thuận An sử dụng. ðiểm ñáng lưu ý ở ñây là phương thức xác ñịnh và cách ñối chiếu mực nước của người bản ñịa. Câu chì (hay câu chìm, câu thẩm) không chỉ là một ngư cụ mà còn là một chiếc trường xích hữu hiệu. Mỗi lúc thả câu chì xuống nước, ngư dân có thể cảm nhận ñược khi viên chì to buộc ở ñầu dây câu, ngay phía trên lưỡi câu, chạm vào ñáy biển. Một cách hiển nhiên, ai cũng có thể nhìn thấy, căn cứ vào dây câu, người ta có thể tính ñược mực nước biển. ðiều thú vị là sợi dây câu mỏng mảnh ấy còn có khả năng “khảo sát ñịa hình” mà “bộ máy cảm ứng” chính là ñôi tay nhạy cảm của ngư dân. Nếu ñôi tay ñược thông báo cảm giác “rít” thì bên dưới chính là leẹc (luồng); ngược lại, cảm giác “va chạm” sẽ cho ngư dân biết họ ñang ñứng trên cồn. Từ những thông số thu ñược, ngư dân có thể quyết ñịnh sử dụng công cụ ñánh bắt một cách hợp lý, nhằm ñem lại hiệu quả tối ưu 10. Như một biện pháp dự phòng và tiết kiệm thời gian, từ những kinh nghiệm ño lường khoảng cách và ñộ sâu, ngư dân Thuận An ñã thiết lập ñược một “hệ tọa ñộ” cho phép họ xác ñịnh nhanh chóng vị trí của mình trên biển: ðịa hình ðộ sâu Nhận dạng khoảng cách Cồn Lộông khít bờ 8 sải Hòn ðăng, Hòn ðụn, Hòn Bò Luồng/leẹc bùn 15 – 17 sải Một non 9 Sải: ðộ dài ước tính bằng khoảng cách giữa hai ñầu của hai bàn tay dang ngang thẳng cánh (Nguyễn Như Ý, 1999: 1425). ðây cũng là ñơn vị/phương thức ño mực nước phổ biến trên thế giới. Trong tiếng Anh, (fathom: sải) không chỉ mang ý nghĩa là ñơn vị ño chiều sâu 1,82m mà với tư cách ñộng từ, nó còn có nghĩa tìm hiểu, ño ñộ sâu (của nước). 10 Tùy theo ñộ sâu của nước, ngư dân ñặt các loại trà (hay còn gọi là phao, chà: là dụng cụ ñể dụ cá ñến, ñược làm bằng cây tre, có ñá và phao dằng bên dưới và xung quanh) khác nhau: trà 17, trà 18, trà 20… tương ứng với các ñộ sâu: 17sải, 18 sải, 20 sải… Cồn Chớn 12 sải Hai non Leẹc 16 16 – 18 sải Ba non Cồn 17 12 - 13 sải Bốn non Leẹc 18 18 – 20 sải 4 non hở 1 cùi Mù khơi >30 sải 5 non Như vậy, trong trường hợp ñiều kiện thời tiết không cho phép nhìn núi, căn cứ vào ñộ sâu người ta có thể xác ñịnh khoảng cách so với bờ; ngược lại, chỉ cần nhìn núi, ngư dân cũng có thể quyết ñịnh loại ngư cụ nào nên sử dụng. Về cách nhìn sao, ngoài sao Hôm (phía Tây), sao Mai (phía ðông), sao Bắc ñẩu (dân ñịa phương gọi là sao bánh lái - ở phía Bắc), người ñi biển còn căn cứ vào sao Cây dừa (phía Nam). ðặc biệt, sao ñòn cân nằm về phía ðông Bắc và hầu như không di chuyển trong giới hạn góc nhìn từ ngư trường của người ñi biển vùng Thuận An nên nó là cơ sở ñể ñịnh hướng chính xác nhất. * Côi (trên), ñưới (dưới), trong, ngoài và lên, xuống, vào, ra Lên/xuống, vào/ra là những cặp ñối lập, biểu hiện lối tư duy lưỡng hợp 11 của người Việt, là “các cấu trúc tri nhận ñơn giản và cơ bản ñược phái sinh ra từ tương tác của chúng ta với thế giới mỗi ngày” (Lý Toàn Thắng, 2005: 243). Tuỳ theo khung quy chiếu, vùng ñịnh hướng không gian có những khu biệt nhất ñịnh, dưới sự chi phối của nhiều nhân tố: vị trí ñịa lý, ñịa hình, lịch sử, xã hội… Với người Việt, trong ñó có các ngư dân sinh sống ven biển như Thuận An, vào trong Nam, ra ngoài Bắc; lên trên rừng (Tây), xuống dưới biển (ðông) 12 là hướng ñịnh 11 Tính lưỡng hợp (dualism) của tư duy ñã chi phối mạnh mẽ nhận thức thế giới hiện tượng cũng như các khái niệm rút ra từ ñó ñều ñược phân thành các cặp ñối lập: ñất/nước, chim/thú, ñực/cái…” (Hà Văn Tấn, 1994), “Quá trình hình thành và bản sắc văn hóa Việt”, trong Văn hóa và phát triển kinh tế xã hội, Hà Nội, tr.42. Dẫn theo: (Lý Toàn Thắng, 2005: 265). 12 Từ năm 1955, Phan Khôi ñã có một so sánh khá tinh tế: “Người ta cũng nói ñi từ ñông ñến tây là lên, ñi từ tây ñến ñông là xuống, ñi từ bắc ñến nam là vào, ñi từ nam ñến bắc là ra. Là vì ở nước ta, suốt cả nước, phía tây ñều là cao nguyên hay núi ,cao hơn phía ðông, phía ñông ñều là biển thấp kém phía Tây; phía Bắc mở mang trước coi như quang, phía nam mở mang sau, coi như kín. Cho nên khi nói lên tây, xuống ñông, vào nam, ra bắc, cũng tức là cái nghĩa: từ chỗ thấp ñến chỗ cao, từ chỗ cao ñến chỗ thấp, từ chỗ quang ñến chỗ kín, từ chỗ kín ñến chỗ quang (…) tiếng Pháp nói lên phía Bắc, xuống phía Nam là họ theo hình quả ñất phía Bắc ở trên (…) người vị cơ bản. Tuy nhiên, ngay khi rời ñất liền ñể ñến với biển, sự hình dung về hướng di chuyển của họ hoàn toàn thay ñổi: lên côi (lên trên) - lên Bắc; về thấp - về Nam; ra (ngoài) - ra ðông, vào (trong) - vào Tây. Từ ñây, một “hệ ñẳng thức” ñược thiết lập khi người ñi biển cần nhận biết các hiện tượng tự nhiên khác: Gió ðông Nam (Nam ngoài/gió nồm) = mọ dưới = mòi nồm (mòi dưới) Gió Tây Nam (Nam trong/gió làng) = mọ dưới Gió ðông Bắc = mọ côi = mòi côi Mọ là âm thanh ñược tạo thành do sự va ñập giữa sức gió và sóng biển, nghe rất rõ vào ban ñêm (có gió mọ mới xao). Từ trong ñất liền, nếu nghe thấy mọ côi tức là ñang có gió mùa ðông Bắc thổi về, báo hiệu biển ñộng; ngược lại, với mọ dưới, ngư dân có thể yên tâm căng buồm ra biển. Sự tương tác lực giữa gió và mặt nước biển còn tạo ra mòi - những gợn nước nhỏ cùng với hướng gió, chỉ xõa nhẹ, không vỗ vào bờ như sóng. Trong trường hợp sương mù hay ñêm tối, ñể tránh ñi sai vị trí của các rạn hay những nơi ñã ñặt trà, bằng cách chia mòi, ngư dân cũng có thể xác ñịnh ñúng phương hướng cần ñến. Ví dụ, từ bờ (hướng Tây Bắc - ðông Nam), nếu muốn ñi ra hướng chính ðông, mũi thuyền phải “chia” phần trên (phía Bắc) của mòi côi (hướng Tây Bắc - ðông Nam, do tác ñộng của gió ðông Bắc) ngắn hơn phần dưới; ngược lại, nếu có gió ðông Nam, mũi thuyền phải chia phần trên của mòi dưới (hướng ðông Bắc - Tây Nam) dài hơn. ðây chính là những công thức chế nước mà các nhà “vật lý dân gian” ñã ñúc rút bằng kinh nghiệm truyền ñời. Song, nếu có kinh nghiệm nhưng thiếu sự nhạy cảm của các giác quan thì ñôi lúc cũng dễ dàng dẫn ñến sai một ly ñi một dặm, thậm chí cứ ñi quẩn quanh một chỗ. Ngoài ñôi mắt phải tinh, ñôi tai phải thính, người ñi biển còn phải dùng xúc giác ñể ñịnh hướng. Nếu gió ñang tạt vào bên má bỗng Tàu cũng vậy, họ cũng nói xuống phía Nam, lên phía Bắc, tức như nam hạ, bắc thưởng, hay là hạ Giang Nam, thưởng Bắc Kinh. ðó là vì người Tàu ñã quen phân biệt ñịa thế nước mình như người xưa có nói: phía Bắc ñất cao, nhiều rừng núi, phía nam ñất thấp, nhiều chỗ chằm” (Phan Khôi, 1997: 118 – 119). Theo Nguyễn Tài Cẩn, cách nói vào trong Nam ra ngoài Bắc xuất hiện ít nhất là từ thế kỷ XV, khi cương giới của Việt Nam chỉ từ Thừa Thiên Huế trở ra. Ông cho rằng, vì so với ñồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ có không gian hẹp hơn, lại là nơi mới khai phá còn “man rợ” nên mới có cách ñịnh hướng vào Nam, ra Bắc. Hiện nay, quốc lộ Một và việc phân chia ñịa giới hành chính ñược xem là những nhân tố quan trọng chi phối việc ñịnh hướng vào Nam ra Bắc. Xem thêm: (Lý Toàn Thắng, 2005). dưng lại thổi từ sau gáy, người cầm lái nhận ra ngay mình bắt ñầu lệch hướng và phải ñiều chỉnh lại như ban ñầu. 2.2. Thời gian * Lịch con nước Vòng quay của mặt trăng và mặt trời là những cơ sở ñể con người tạo ra lịch - một loại thước ño thời gian với những ñơn vị cơ bản: ngày, tháng, năm. Vốn là nguyên nhân sinh ra thủy triều, chu kỳ mặt trăng cũng giúp người ñi biển xác lập cho mình một loại lịch riêng: lịch con nước - giúp họ tránh ra khơi nhằm vào ngày sinh nước 13. ðể dễ thuộc, dễ nhớ, một phương pháp cổ truyền ñược ngư dân Thuận An vận dụng là “làm lịch ” bằng....văn vần 14: Tháng Hai mười bảy mùng ba Tháng Giêng mùng năm mười chín vậy là nước lên Tháng Ba ôm rằm, mồng một thanh minh Mỗi tháng hai con nước Thìn sinh Tỵ hồi 15 “Cuốn lịch” trên còn có thêm một số “phàm lệ”: 13 “Một chu kỳ biến ñộng của mực nước - từ lúc nước biển rút xuống tới mức tối thiểu, cho tới lúc nước biển lên cao tới mức tối ña - kéo dài 15 ngày, và ñược gọi là một con nước (…). Ngày bắt ñầu một chu kỳ ñược gọi là ngày sinh nước. Trong quan niệm của người ñi biển, ngày này rất quan trọng. Qua kinh nghiệm, họ biết rằng ñây là ngày thiên nhiên có nhiều biến ñổi: trời mưa to, gió lớn hoặc nước trong lòng biển xoáy ngầm, chảy xiết…” (Nguyễn Duy Thiệu, 2002: 186 - 187). 14 ðây cũng là cách mà ngư dân dọc các tỉnh miền Trung sử dụng ñể tính chu kỳ con nước. Ở vùng Cửa Sót (Hà Tĩnh), ngư dân có “bài lịch con nước” như sau: Tháng giêng, tháng bảy cho mình. Mồng năm, mười chín dần sinh tỵ hồi. Tháng 8 cho nhận tháng ñôi. Mồng ba mười bảy Ngọ lai, Tỵ hoàn” (Nguyễn Duy Thiệu, 2002: 188 - 189). Vùng biển Bảo Ninh (Quảng Bình) cũng có bài ca tương tự: Tháng Giêng, tháng Bảy giao mình Tháng Tư, tháng Mười cập kê Mồng năm, mười chín Thìn sinh Tỵ hồi Mười ba, hai bảy nước cường ngập ñê Tháng Hai, tháng Tám ñi ñôi Tháng Năm, Mười Một cùng chung Mồng ba, mười bảy, hai chín nước trồi một con Hai ba, mồng chín ñúng tuần không sai Tháng Ba, tháng Chín lãi tròn Tháng Sáu với tháng Mười hai Hai lăm, mười một nước kề hai con Mồng bảy, hai mốt chàng ơi chớ lầm (Hồ Viết Hoàng, 2006: 97). 15 Giờ Thìn: 7 - 9 giờ; Tị: 9 - 11 giờ. - Các tháng phải ñược tính theo chu kỳ mặt trăng (Âm lịch) - Ngày sinh nước của tháng sau phải lùi hai ngày so với tháng trước - “Tháng Ba ba con nước” - Với những năm nhuận, nhuận nhằm tháng nào thì ngày nước sinh của tháng ñó vẫn không ñổi. Ví dụ: tháng Hai, nước sinh vào ngày 3 và 17 thì tháng Hai nhuận cũng có ngày nước sinh là 3, 17. Như vậy, lịch con nước của vùng biển Thuận An như sau: Tháng (Âm Lịch) Ngày sinh con nước Giêng 05, 19 Hai 03, 17 Ba 01, 15, 29 Bốn 13, 27 Năm 11, 25 Sáu 09, 23 Bảy 07, 21 Tám 05, 19 Chín 03, 17 Mười 01, 15 Mười một 13, 27 Mười hai 11, 25 Ngoài lịch ngày nước sinh, việc tính lịch dòng triều hằng ngày cũng rất quan trọng. ðiểm ñặc biệt của vùng biển Thuận An so với cả nước là có chế ñộ bán nhật triều ñều với biên ñộ dao ñộng thuỷ triều rất nhỏ 16 (Sở Khoa học và công nghệ Thừa Thiên Huế, 2004). Như vậy, trong một ngày, nơi ñây có hai lần triều lên và hai lần triều xuống. Thời ñiểm trăng mọc và trăng lặn cũng ñồng thời là lúc thuỷ triều lên (trăng mọc nước lên, trăng lặn nước cũng lên, trăng nghiêng nước xuống). Tất nhiên, không phải ngày nào cũng giống nhau mà trăng mọc/lặn ngày sau thường muộn hơn khoảng nửa canh giờ so với ngày trước. Việc nắm bắt lịch con nước không nằm ngoài mục ñích giúp ngư dân có thể ñánh bắt có hiệu quả, vì mỗi loại hải sản ñều có một tập quán riêng, gắn liền với từng dòng chảy, từng thời ñiểm khác nhau. * Thời tiết và lịch mùa vụ Nếu như lịch con nước liên quan ñến hiệu quả sản xuất thì thời tiết quyết ñịnh trực tiếp sinh mệnh của người ñi biển, nhất là trong ñiều kiện phương tiện ñánh bắt vốn rất thô sơ 17. Vì vậy, như nhiều vùng khác, ngư dân Thuận An rất chú trọng nắm bắt những thời ñiểm dễ xảy ra thiên tai: - Tháng giêng, tháng hai kéo chài không kịp - Tháng giêng tố dài, tháng hai tố cụt - Tháng bảy xem ra, tháng ba xem vào 18 - Hỡi ai ñi lộng về khơi - Mồng hai tháng tám bão rơi phải về - Tháng năm thì chười, tháng mười thi ăn - Trong mây, ngoài chướng - ðêm nằm lão nói với trai - Chớp trên bãi Dài thì chớ ra khơi 19 16 ðây là nguyên nhân khiến vùng biển này có những ngày nước lên rồi ñứng thế mãi, không chịu xuống như nhiều người Thuận An phản ánh. 17 Không phải ngẫu nhiên trong vốn từ vựng của người Thuận An lại có từ hầu sóng. Thay vì cưỡi sóng, rẽ sóng, những chiếc ghe nhỏ bé làm bằng tre chỉ cho phép họ chờ những con sóng lớn qua ñi, mặt nước êm trở lại, mới chèo hết tốc lực ñể rời/vào bờ nhằm tránh ñợt sóng tiếp theo. 18 Nếu vào tháng bảy, sấm chớp ở phía ðông Bắc của biển ðông thì trời thuận; tháng ba nhìn vào phía Tây Nam nếu có sấm chớp thì trời thuận. Nhưng ngược lại thì phải tránh ra khơi. 19 Thuận An xưa (Thai Dương Hạ, hạ giáp) phân bố trên các cồn bãi: Cồn Dài, Cồn Nại, cồn Dâu - Cồn Ngang, cồn Cỏ, Hạp Châu, cồn Tè (Lê Văn Kỳ [Ch.b], 2000: 27). Bảy cồn này phân bố ... Sự chi phối của thời tiết ñến cuộc mưu sinh của ngư dân còn thể hiện ở chỗ họ lấy hướng gió ñể gọi tên mùa vụ : Vụ Bấc (gió ðông Bắc) và vụ Nam (gió ðông Nam và Tây Nam). Mặt khác, sản phẩm ñánh bắt cũng là cơ sở ñể họ “lên lịch” mùa vụ: Mùa mực Tháng 2 ñến tháng 8 Âm lịch, cao ñiểm là tháng 3, tháng 4 Mùa cá nục Tháng 2 ñến tháng 6 Âm lịch Mùa cá phèn Tháng 8 Âm lịch ñến tháng 2 năm sau Mùa ruốc Tháng 7 ñến tháng 9 Âm lịch Mùa khuyết Tháng 8 Âm lịch ñến tháng 2 năm sau … … 3. Kết luận Những kinh nghiệm của ngư dân Thuận An ñược trình bày trên ñây là biểu hiện sinh ñộng về giá trị của những kinh nghiệm cảm tính trong ñời sống truyền thống của một cộng ñồng gắn liền với nghề biển. ðặt trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng, ý nghĩa thực dụng của những cách nhìn núi, nhìn sao, nhìn trời, nhìn nước… không còn ñáng kể so với những hỗ trợ lớn của máy móc. ðiều ñó cũng ñồng nghĩa với sự “lắng nghe” và “thấu hiểu” của con người ñối với thiên nhiên không còn nhạy cảm như họ từng có. Thiên nhiên cũng trở nên “trái tính, trái nết” bởi sự “ơ hờ” của con người. Trên thực tế, chúng tôi ñã không dễ dàng khơi gợi lại ký ức của người già ñể họ kể về những “thủ thuật” của mình thời quá vãng. Người trẻ hầu như không biết/không cần kinh nghiệm của cha ông; ngược lại họ nhận ñược nhiều lời khen của thế hệ trước về năng lực ñánh bắt bằng phương pháp hiện ñại. Tuy nhiên, chúng ta không dừng lại ở sự còn/mất của những tri thức biển hay vấn ñề sinh thái nhân văn truyền thống bởi ñó là câu chuyện chung cho tất cả vốn văn hóa dân gian. ðiều ñáng nói ở ñây là tri thức bản ñịa của một cộng ñồng, cho dù chỉ là ñơn vị ño lường, nếu ñược nghiên cứu nghiêm túc, sẽ phản chiếu ñặc ñiểm không chỉ của chính nó mà có khi còn là căn cứ ñể khái quát ñặc trưng văn hóa theo hướng Tây Bắc - ðông Nam. Khi thấy chớp trên bãi Dài tức là chớp về phía ðông - Nam, ngư dân chỉ nên ñi lôộng mà không ra khơi vì ½ ngày sau biển sẽ ñộng. của một vùng mà nó chỉ là một bộ phận. Những gì ñã mô tả, phân tích về sự tri nhận không gian và thời gian của ngư dân vùng biển Thuận An ít nhất cũng cho chúng ta hiểu hơn về: - Khái niệm ñi khơi - ñi lộng của người bản ñịa. Thực chất, ranh giới giữa khơi và lộng là không ñáng kể và chúng không vượt ra khỏi “tầm kiểm soát” của những tiêu ñiểm trên ñất liền. - Tầm nhìn hạn chế về biển của người bản ñịa. Nó là hệ quả của: + Quan niệm về hải sản trong tri thức bản ñịa. Người ta không xem ñây là nguồn lợi chiến lược, chúng chỉ ñược khai thác cầm chừng, bằng những phương tiện và kỹ thuật hết sức thô sơ, với tính chất là nguồn thu bổ trợ. + Sự hạn chế trong “hành trình chinh phục” khoảng cách vật lý lẫn tâm lý của của cư dân lấy nông nghiệp làm trọng. Vốn quen với ruộng ñồng, người bản ñịa không ñủ sức ñể tạo ra những phương tiện giúp họ có thể ñi quá xa ñất liền; nếu như giao thương có thể là một ñộng lực ñể họ “mặn mà” với biển thì cuối cùng, họ cũng ñành quay lưng bởi trật tự sĩ, nông, công, thương của quan niệm Nho giáo. N.T.T.H (trích từ Thông tin Khoa học, Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Thông tin tại Huế, số tháng 9/2007, trang 56-71) Tài liệu tham khảo 1. Bùi Quang Thắng (2001), Quan ñiểm và phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa học [Luận án tiến sĩ Văn hóa học], Hà Nội: Viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Mã số: 5.03.13. 2. Hồ Việt Hoàng (2006), Tri thức bản ñịa về môi trường sống và ñánh bắt thuỷ hải sản của cư dân làng biển Bảo Ninh - ðồng Hới - Quảng Bình [Khóa luận tốt nghiệp cử nhân sử học], Huế: Trường ðại học Khoa học Huế. 3. Lê Văn Kỳ [Ch.b], Trịnh ðình Niên, Trương Duy Bích, Nguyễn Hương Liên (2000), Văn hóa truyền thống vùng biển Thuận An, Hà Nội: Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian. 4. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận, Hà Nội: Nxb. KHXH. 5. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng ñồng ngư dân ở Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội 6. Nguyễn Hữu Thông (2006), “Cây lúa trên lưng và con ñường trước mắt”, trong Thông tin khoa học, Phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế, số tháng 9, Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hóa - Thông tin tại Huế. 7. Nguyễn Như Ý [Ch.b] (1999), ðại từ ñiển tiếng Việt, Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin 8. Nguyễn Thăng Long (2005), “Nhật trình ñi biển của ngư dân Lý Hoà và dấu ấn văn hóa của người Việt”, trong Thông tin khoa học - số tháng 09, Huế: Phân viện Nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế. 9. Ngô ðức Thịnh (2004), “Thế giới quan bản ñịa”, trong T/c Văn hóa dân gian, số 4. 10. Nguyễn Văn Kỳ (2005), ðặc ñiểm từ ngữ nghề cá ở Thừa Thiên Huế [Luận văn Thạc sĩ Khoa học], Huế: Trường ðại học Khoa học, Mã số: 5.04.08 11. Phan Khôi (1997), Việt ngữ nghiên cứu, ðà Nẵng: Nxb. ðà Nẵng. 12. QSQ triều Nguyễn, [Phạm Trọng ðiềm dịch], [ðào Duy Anh hiệu ñính] (1997), ðại Nam nhất thống chí [tập I], Huế: Nxb. Thuận Hóa. 13. Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế (2004), ðặc ñiểm khí hậu thuỷ văn Thừa Thiên Huế, Huế: Nxb. Thuận Hóa. 14. Vô danh thị, [Dương Văn An nhuận sắc tập thành], [Trần ðại Vinh, Hoàng Văn Phúc tân dịch hiệu chú] (2001), Ô Châu cận lục, Huế: Nxb. Thuận Hóa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxh6.PDF
Tài liệu liên quan