Tìm hiểu về can thiệp động mạch vành qua da
Như đã nói ở trên, tắc nghẽn có thể xảy
ra sau khi can thiệp động mạch vành. Vì vậy,
bạn cần được theo dõi đều đặn và đi khám lại
ngay nếu có triệu chứng đau ngực trở lại. Khi
có những dấu hiệu cảnh báo như đau ngực,
đừng chần chừ bởi việc đến viện sớm sẽ làm
tăng cơ hội để bạn được điều trị kịp thời.
Cần phải nhấn mạnh, việc can thiệp đặt
stent ĐMV chỉ là một biện pháp bắt buộc phải
làm khi có sự tắc nghẽn ĐMV gây đe dọa tính
mạng bệnh nhân hoặc ảnh hưởng nghiêm
trọng chất lượng cuộc sống. Can thiệp ĐMV
không có nghĩa là chữa khỏi bệnh. Quá trình
xơ vữa ĐMV (và cả các động mạch khác) sẽ
vẫn tiếp tục và bạn se có thể bị hẹp, tắc ĐMV
ngay tại chỗ đã can thiệp hoặc chỗ nhánh
khác. Do vậy, các biện pháp điều trị cơ bản,
phòng ngừa vẫn mang tính chất quyết định.
Sau khi được can thiệp đặt stent động
mạch vành, bạn có thể lên kế hoạch tập luyện
để từng bước nâng cao sức khoẻ. Bạn cần kiên
trì điều chỉnh các yếu tố nguy cơ có thể làm cho
tình trạng động mạch vành xấu đi. Hãy kiểm
tra định kỳ lượng cholesterol trong máu. Nếu
cholesterol cao, hãy điều chỉnh lối sống và
dùng thuốc (theo đơn) để kiểm soát tốt lipid
máu. Kiểm soát tốt huyết áp và đường huyết
bằng chế độ ăn, giảm cân và uống thuốc đều
đặn. Nếu bạn hút thuốc lá, cần bỏ thuốc ngay
lập tức. Bằng việc thực hiện những điều này,
bạn có thể làm quá trình tiến triển của mảng
xơ vữa chậm lại và có một cuộc sống tốt đẹp
không triệu chứng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về can thiệp động mạch vành qua da, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ CHO NGƯỜI BỆNH86
CHUYEÂN ÑEÀ CHO NGÖÔØI BEÄNH
Tìm Hiểu Về Can thiệp Động Mạch Vành Qua Da
TS. Phạm Mạnh Hùng
(Tổng Thư Kí Hội Tim Mạch Học Việt Nam
Trưởng Đơn Vị Tim Mạch Can Thiệp – Viện Tim Mạch Việt Nam)
MOÄT SOÁ TÖØ CHUYEÂN NGAØNH NEÂN BIEÁT
- Catheter Một loại ống thông nhỏ làm
bằng chất liệu nhựa dẻo đặc biệt thường sử
dụng trong can thiệp động mạch vành qua da.
- Stent Khung Giá đỡ bằng kim loại đặc
biệt, hình ống, dạng lưới, khi được bơm lên
tối đa bằng bóng tại vị trí hẹp động mạch
vành làm lòng mạch được thông rộng. Có 2
loại stent: loại phủ thuốc chống tái hẹp và loại
không phủ thuốc.
Giới thiệu
Can thiệp mạch vành qua da là một kỹ thuật
dùng một loại ống thông nhỏ (catheter) để đưa một
bóng nhỏ vào lòng động mạch vành bị hẹp hoặc
tắc rồi nong rộng ra và/hoặc đặt Stent (giá đỡ) để
làm tái thông lòng mạch giúp dòng máu lưu thông
bình thường cung cấp máu nuôi dưỡng trái tim.
Trái với phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành cần mở
lồng ngực, can thiệp động mạch vành có thể thực
hiện chỉ bằng cách chọc một lỗ nhỏ trên da để đưa
catheter vào động mạch từ đùi hay cổ tay. Người
bệnh sẽ được gây tê tại vùng chọc nên nhìn chung,
thủ thuật này không gây đau hơn một lần lấy máu
làm xét nghiệm. Bệnh nhân vẫn luôn tỉnh táo trong
suốt quá trình thực hiện thủ thuật. Quá trình thực
hiện thủ thuật thường được tiến hành trong vòng
1 giờ và phần lớn bệnh nhân có thể về nhà sau 1 – 2
tính từ khi kết thúc thủ thuật.
Trong những năm vừa qua, phương pháp này
ngày càng phát triển và đạt được nhiều tiến bộ kể
cả về kỹ thuật và hiệu quả điều trị. Ngày nay, dụng
cụ nhỏ hơn và tốt hơn rất nhiều so với những dụng
cụ được sử dụng chụp động mạch vành lần đầu
tiên cách đây vài thập kỷ. Những loại thuốc mới
cũng góp phần làm kết quả can thiệp tốt hơn, duy
trì lâu dài hơn và giảm được nhiều biến chứng
trong quá trình thực hiện thủ thuật.
Động mạch vành và tầm quan trọng của nó.
Quả tim có bốn buồng và được cấu tạo
bởi một loại tế bào cơ chuyên biệt. Nó bơm
máu đi đến phổi và toàn bộ cơ thể để trao
đổi ô xy và nuôi cơ thể. Giống như các loại
cơ khác của cơ thể con người, cơ tim cũng cần
oxy để hoạt động.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 58 - 2011 87
Hình 1. Hình ảnh động mạch vành (ĐMV)
nuôi quả tim bên trái (1: động mạch chủ; 2:
ĐMV phải; 3: Động mạch liên thất trước; 4:
động mạch mũ; 5: động mạch phổi). Hình
ảnh xơ vữa gây tắc lòng ĐMV gây hoại tử
vùng cơ tim tương ứng (A: hình quả tim với
vùng cơ tim bị hoại tử do ĐMV bị tắc; B: hình
ảnh phóng to ĐMV bị tắc).
Các buồng tim chứa đầy máu nhưng cơ tim
không hấp thu được ôxi trực tiếp từ máu. Thay
vào đó, cần có những động mạch chuyên biệt
gọi là động mạch vành để đưa máu đến nuôi cơ
tim. Động mạch vành ở ngoài quả tim và nhánh
của nó đổ vào những động mạch nhỏ hơn. Cuối
cùng những nhánh động mạch nhỏ này thẩm
thấu và cung cấp máu giàu oxi cho tế bào cơ
tim. Lưu lượng máu chảy qua động mạch vành
thuộc loại nhiều nhất trong các tạng của cơ thể
(nếu tính trên khối lượng cơ tim).
Khi chụp mạch vành, bác sĩ của bạn sẽ
chỉ cho bạn động mạch vành bị hẹp/tắc,
vị trí tắc nghẽn và mức độ tổn thương có
cần được can thiệp nong và đặt stent hay
không. Tên và nhánh của các động mạch
vành được chỉ ở hình 1.
Khi có tình trạng hẹp hay tắc nghẽn trong
động mạch vành, cơ tim sẽ không được cung
cấp đủ ôxy. Kết quả là, bệnh nhân sẽ có những
cơn đau thắt ngực khi gắng sức hay thậm chí
một cơn nhồi máu cơ tim. Điều này sẽ được
nói đến trong phần sau.
Bệnh động mạch vành và cơn đau thắt ngực.
Nguyên nhân gây bệnh động mạch
vành chủ yếu là do xơ vữa động mạch. Theo
thời gian, mảng xơ vữa tích luỹ dần và phát
triển gây hẹp trong lòng động mạch vành.
Mảng xơ vữa là hậu quả của tình trạng lắng
đọng các chất béo trong máu (cholesterol)
và những thành phần khác ở thành động
mạch vành. Hút thuốc lá, tăng huyết áp,
đái tháo đường và tăng cholesterol, thiếu
hoạt động thể lực và béo phì... làm tăng
nguy cơ hình thành mảng xơ vữa và hẹp
tắc lòng mạch.
Hai vấn đề có thể xảy ra khi mảng xơ vữa
hình thành. Khi mảng xơ vữa to dần, nó có thể
làm hẹp dần lòng động mạch vành và giảm
lượng máu đi nuôi cơ tim. Mảng xơ vữa ít ảnh
hưởng tới dòng máu nuôi cơ tim cho đến khi nó
làm hẹp trên 70% đường kính động mạch vành.
Khi cơ tim không nhận đủ máu thì sẽ xảy
ra tình trạng thiếu máu cơ tim (đói ôxy). Tình
trạng này gây ra triệu chứng mà người bệnh
cảm thấy là cơn đau thắt ngực. Một số người
chỉ có cảm giác đau thắt ngực khi gắng sức.
Đó là do khi quả tim cần nhiều oxy hơn so với
bình thường để hoạt động, bình thường các
mạch máu sẽ giãn ra để tăng lượng máu đến
cơ tim nhưng do có sự tắc nghẽn trong động
mạch vành nên việc cung cấp máu cho tim bị
giảm sút dẫn đến đau thắt ngực.
Vấn đề thứ hai là mảng xơ vữa này có thể
nứt vỡ ra bất kỳ khi nào trong quá trình hình
thành và phát triển của nó. Khi đó, cục máu
đông có thể được hình thành trên đỉnh của vết
nứt. Nếu cục máu đông không quá lớn để gây
tắc dòng máu chảy qua mà chỉ gây hẹp nhanh
chóng đáng kể lòng mạch thì gây ra cơn Đau
thắt ngực không ổn định và cơn đau xảy ra lúc
nghỉ. Nếu cục máu đông làm tắc hoàn toàn
dòng máu trong động mạch vành kéo dài hơn
30 phút, cơ tim có thể bị tổn thương vĩnh viễn.
Tình trạng này được gọi là nhồi máu cơ tim.
Đây là một bệnh cấp cứu với nhiều biến chứng
chết người, và là một trong những nguyên nhân
gây tử vong hàng đầu.
Phương pháp chụp và can thiệp đặt stent
động mạch vành.
Chụp và can thiệp (nong, đặt stent) động
mạch vành qua da để giải quyết khá triệt để
tình trạng hẹp tắc trong động mạch vành,
giúp tưới máu cho cơ tim tốt hơn trong mọi
điều kiện hoạt động gắng sức của bệnh nhân
và do đó, cho phép bệnh nhân có thể hoạt
CHUYÊN ĐỀ CHO NGƯỜI BỆNH88
động trở lại mà không xuất hiện cơn đau thắt
ngực. Trong trường hợp nhồi máu cơ tim,
cùng với việc điều trị bằng thuốc tối ưu, thủ
thuật này là một biện pháp giúp tái tưới máu
động mạch vành để hạn chế bớt vùng cơ tim
tổn thương do thiếu máu, đồng thời cũng
giúp phòng tắc hẹp tái phát, hạn chế cơn đau
thắt ngực trở lại. Hiện nay, đây là biện pháp
được lựa chọn hàng đầu để tái thông động
mạch vành trong nhồi máu cơ tim cấp.
Trước khi chụp hay đặt stent động mạch
vành, bác sĩ sẽ giải thích cho bạn hoặc người
nhà của bạn tại sao cần thực hiện kỹ thuật
này, dự kiến phương pháp tiến hành ra sao và
những nguy cơ biến chứng có thể xảy ra trong
quá trình thực hiện. Ngày nay, với những tiến
bộ trong trang thiết bị, phương tiện hồi sức
và thuốc hỗ trợ, chụp và can thiệp động mạch
vành qua da đã an toàn hơn và nguy cơ của
nó đã giảm đi rất nhiều. Tuy nhiên, đây vẫn là
một thủ thuật xâm nhập gây chảy máu và có
thể xảy ra những nguy cơ nhất định.
Những nguy cơ của thủ thuật này bao gồm
chảy máu, nhiễm trùng, phản ứng dị ứng với
thuốc cản quang sử dụng trong khi chụp, nguy
cơ tổn thương mạch máu, đột quỵ và suy thận...
Ngoài ra, cũng có một tỷ lệ nhất định các Stent
đã đặt có thể đột ngột bị tắc lại gây ra nhồi máu
cơ tim cần phải can thiệp lại hoặc làm cầu nối
cấp cứu, thậm chí cả tử vong. Khả năng xảy ra
tai biến hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Theo thống kê của các nghiên cứu lớn trên
thế giới, nguy cơ tai biến cần can thiệp cấp cứu
hay tử vong liên quan đến kỹ thuật chụp động
mạch vành là khá thấp (chỉ 1 đến 2%).
Trước khi thực hiện chụp động mạch
vành, bạn cần được dùng đầy đủ một số
thuốc như aspirin, clopidogrel, cũng như
cần dừng một số loại thuốc khác bạn đang
dùng như thuốc đái tháo đường nhóm met-
formin hay coumadin. Bệnh nhân có tiền sử
dị ứng với thuốc cản quang có thể phải dùng
một số thuốc chống dị ứng trước thủ thuật
ít nhất 1 ngày để giảm nguy cơ xảy ra phản
ứng dị ứng nặng nề. Tốt nhất bạn hãy nói cho
bác sĩ biết nếu như bạn bị dị ứng với thuốc
nhuộm hay tôm cua...
Bạn cũng có thể sẽ được dùng một loại
thuốc an thần nhẹ trước khi tiến hành thủ thuật
để giúp thư giãn, tránh cảm giác căng thẳng.
Khi ở trong phòng can thiệp, bạn sẽ được
chuyển lên bàn can thiệp. Chụp và can thiệp
động mạch vành có thể được tiến hành qua
động mạch vùng bẹn, khuỷu hay cổ tay. Vùng
làm thủ thuật sẽ được làm sạch và cạo lông, sát
khuẩn sạch và phủ vải (khăn) vô khuẩn xung
quanh. Bác sĩ làm thủ thuật sẽ gây tê vùng đó
bằng thuốc tê trước khi chọc (mở) một lỗ nhỏ
vào lòng động mạch tại vùng đó. Tiếp theo,
một ống nhỏ (được gọi là sheath) sẽ được đưa
vào động mạch. Qua ống này, một catheter dẫn
đường đặc biệt sẽ được đưa vào để lái theo động
mạch đến động mạch vành. Sau đó, một dây
dẫn rất nhỏ và mỏng được luồn qua ống thông
trên để đưa đến vị trí tổn thương rồi xuyên qua
chỗ tắc trong lòng động mạch vành. Tuỳ thuộc
vào tổn thương của động mạch vành, bác sỹ có
thể dùng một bóng nhỏ đặc biệt đưa vào nong
chỗ hẹp/tắc trong động mạch vành hay không.
Quả bóng này giúp mở chỗ tắc bằng cách ép
mạnh mảng xơ vữa vào thành mạch làm mở
thông động mạch. Có thể cần nong một vài lần
tiếp theo với những cỡ bóng to hơn hay với áp
lực cao hơn để giảm mức độ tắc nghẽn. Thông
thường, nong động mạch vành bằng bóng có
thể làm mức độ hẹp giảm đi từ 20 – 30%. Cuối
cùng, một hoặc một vài stent sẽ được đặt vào vị
trí tổn thương để ổn định lòng mạch và giảm tỷ
lệ tái hẹp sau can thiệp.
Trong kỹ thuật đặt stent, một stent được
đặt bên ngoài quả bóng nong gắn trên đầu một
dây dẫn đặc biệt. Khi quả bóng nong được bơm
căng sẽ làm mở stent và ép vào thành động
mạch vành. Khi dây dẫn mang quả bóng được
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 58 - 2011 89
rút ra, stent sẽ nằm lại trong lòng mạch, có tác
dụng như một giá đỡ làm cho lòng mạch không
co hẹp lại. Với các loại stent thông thường, sau
khoảng 6 tháng, có một tỷ lệ (20%) xảy ra hiện
tượng tái hẹp lại, do sự phát triển của lớp cơ
trơn mạch và mảng xơ vữa lồi vào trong lòng
mạch qua các mắt stent.
Một tiến bộ gần đây là sự phát triển của loại
stent có phủ thuốc có tác dụng làm giảm nguy
cơ mảng xơ vữa phát triển trở lại sau một thời
gian. Thuốc được phủ lên các mắt lưới trên
stent. Sau khi stent được đưa vào trong động
mạch vành, thuốc dần dần được phóng thích
vào thành mạch trong vài tuần hoặc vài tháng.
Hình 2. Hình ảnh minh họa các bước đặt stent ĐMV
Khi động mạch vành bị tắc chỉ được điều
trị với nong bằng bóng đơn thuần, nguy cơ
của tắc cấp lại và hẹp tái phát gây triệu chứng
(đau ngực tái phát) là rất cao khoảng > 30%, do
mảng xơ vữa bị nong vỡ ra rất dễ xập lại xuống
cấp hoặc lâu dài thì phát triển tái hẹp lại rất
cao. Nếu đặt stent thường, nguy cơ này giảm
xuống khoảng 20% còn nếu đặt stent phủ thuốc
thì nguy cơ tái hẹp chỉ còn 5 – 10%. Nguy cơ
tái hẹp tùy thuộc vào tổn thương mạch vành,
tình trạng bệnh nhân... Nếu động mạch vành
càng nhỏ, tổn thương dài lan tỏa, nhiều tổn
thương, bệnh nhân đái tháo đường... là những
nguy cơ tái hẹp lại sau can thiệp rất cao. Bác sỹ
làm thủ thuật sẽ giải thích cho thân nhân của
người bệnh nên đặt stent thường (không phủ
thuốc) hay stent phủ thuốc tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể.
Bệnh nhân thường được bắt đầu điều trị
trước can thiệp bằng clopidogrel (Plavix) một
vài ngày trước khi chụp và đặt stent động
mạch vành. Clopidogrel là một thuốc có tác
dụng làm giảm kết dính tiểu cầu giống như
aspirin. Clopidogrel và những thuốc tương tự
cần được dùng ít nhất trong 1- 3 tháng sau
đặt stent không bọc thuốc và 12 tháng sau khi
được đặt stent bọc thuốc để dự phòng hình
thành huyết khối gây tắc stent.
Sau chụp và đặt stent động mạch vành
Sau khi chụp và đặt stent động mạch
vành, kim nhựa ở vùng chọc mạch (cổ tay
hay đùi) sẽ được rút ra. Vùng vết chọc sau đó
sẽ được ép chặt. Nếu can thiệp đường mạch
quay (chọc vùng cổ tay), bạn có thể đi lại được
nhưng tốt nhất nên nghỉ ngơi, gác cao tay và
để vùng tay đó được ổn định giúp cầm máu
tốt hơn. Sau khoảng 2 giờ, băng ép sẽ được
CHUYÊN ĐỀ CHO NGƯỜI BỆNH90
nới bớt và sau ít nhất 5 giờ, băng ép sẽ được
tháo hoàn toàn.
Đối với can thiệp đường mạch đùi, bệnh
nhân cần nằm bất động trong vòng 6 đến 8
giờ, đặc biệt là chân bên chọc mạch được cố
định để chắc chắn rằng vết chọc đã cầm máu.
Trong một số trường hợp, có thể cần một túi
cát nhỏ đặt lên trên vị trí chọc mạch (đã được
băng ép) để tăng lực ép lên vùng đó trong
khoảng 1 – 2 giờ đầu băng ép.
Sau thủ thuật, vết chọc có thể hơi đau tức
khi chạm vào. Vùng chọc cũng có thể hơi nề
hoặc tím nhẹ trong một vài ngày. Điều này có
thể bình thường nhưng nếu bạn đau, sưng nề
và vùng tím lan rộng, hãy nói với bác sỹ. Đôi
khi, bác sỹ có thể cần cho tiến hành một số
thăm dò và xét nghiệm để chắc chắn là không
có lỗ rò hay nhiễm trùng tại vùng chọc mạch
tuy rằng tỷ lệ này rất thấp.
Bạn nên tránh gắng sức thể lực trong 1 –
2 tuần sau thủ thuật. Sau đó, phần lớn bệnh
nhân có thể dần trở lại hoạt động với mức độ
phù hợp, kể cả quan hệ tình dục. Nên tập thể
dục vừa sức đều đặn hàng ngày.
Một khi stent đã được đặt vào động mạch
vành, nó sẽ nằm lại đó mãi mãi. Sau một vài
tháng, các tế bào nội mạc từ xung quanh sẽ
phát triển phủ lên trên lòng stent. Quá trình
này có thể lâu hơn nếu ta dùng stent phủ
thuốc. Trong suốt quá trình này, khoảng dưới
1% nguy cơ có cục máu đông hình thành bên
trong lòng stent làm tắc nghẽn dòng máu
trong động mạch. Nguy cơ này là lớn nhất
trong một vài tuần đầu tiên sau khi đặt stent.
Đay là một biến cố nặng có thể dẫn đến chết
người. Do vậy, bạn cần hiểu rằng, việc đặt
stent thành công không có nghĩa là khỏi bệnh,
mà việc giữ gìn tôn trọng chế độ thuốc men là
vô cung quan trọng.
Để giảm nguy cơ này, bạn cần dùng thuốc
chống ngưng tập tiểu cầu đều đặn, bao gồm
cả aspirin và clopidogrel để làm cho tiểu cầu
bớt kết dính. Bạn sẽ cần phải dùng cả 2 loại
thuốc trên ít nhất trong 1- 3 tháng nếu đặt
stent thường, hay ít nhất 12 tháng nếu bạn
dùng stent phủ thuốc và trong một vài trường
hợp, có thể thậm chí còn lâu hơn tuỳ theo chỉ
định của bác sỹ. Sau đó, bạn vẫn phải tiếp tục
dùng đều aspirin và những thuốc khác theo
chỉ định.
Như đã nói ở trên, tắc nghẽn có thể xảy
ra sau khi can thiệp động mạch vành. Vì vậy,
bạn cần được theo dõi đều đặn và đi khám lại
ngay nếu có triệu chứng đau ngực trở lại. Khi
có những dấu hiệu cảnh báo như đau ngực,
đừng chần chừ bởi việc đến viện sớm sẽ làm
tăng cơ hội để bạn được điều trị kịp thời.
Cần phải nhấn mạnh, việc can thiệp đặt
stent ĐMV chỉ là một biện pháp bắt buộc phải
làm khi có sự tắc nghẽn ĐMV gây đe dọa tính
mạng bệnh nhân hoặc ảnh hưởng nghiêm
trọng chất lượng cuộc sống. Can thiệp ĐMV
không có nghĩa là chữa khỏi bệnh. Quá trình
xơ vữa ĐMV (và cả các động mạch khác) sẽ
vẫn tiếp tục và bạn se có thể bị hẹp, tắc ĐMV
ngay tại chỗ đã can thiệp hoặc chỗ nhánh
khác. Do vậy, các biện pháp điều trị cơ bản,
phòng ngừa vẫn mang tính chất quyết định.
Sau khi được can thiệp đặt stent động
mạch vành, bạn có thể lên kế hoạch tập luyện
để từng bước nâng cao sức khoẻ. Bạn cần kiên
trì điều chỉnh các yếu tố nguy cơ có thể làm cho
tình trạng động mạch vành xấu đi. Hãy kiểm
tra định kỳ lượng cholesterol trong máu. Nếu
cholesterol cao, hãy điều chỉnh lối sống và
dùng thuốc (theo đơn) để kiểm soát tốt lipid
máu. Kiểm soát tốt huyết áp và đường huyết
bằng chế độ ăn, giảm cân và uống thuốc đều
đặn. Nếu bạn hút thuốc lá, cần bỏ thuốc ngay
lập tức. Bằng việc thực hiện những điều này,
bạn có thể làm quá trình tiến triển của mảng
xơ vữa chậm lại và có một cuộc sống tốt đẹp
không triệu chứng.
Chúc bạn thành công!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tim_hieu_ve_can_thiep_dong_mach_vanh_qua_da.pdf