KẾT LUẬN
Lũ là hiện tượng tự nhiên xảy ra hằng năm tại
tỉnh An Giang, mang lại những tác động tích cực
cho đời sống sinh kế hộ dân vùng đầu nguồn như
bồi đắp bù sa, nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, những
tác động tiêu cực cũng diễn ra song song. Qua
đánh giá năm nguồn vốn sinh kế hộ trong bối cảnh
đã xây dựng đê bao khép kín, kết quả chỉ ra rằng,
trong điều kiện hiện tại nông hộ có nguồn lao động
dồi dào nhưng số người phụ thuộc cũng khá cao
(2 người/hộ), vì vậy đặt gánh nặng về nhu cầu chi
phí sinh hoạt, trình độ học vấn của hộ được khảo sát
nhìn chung ở mức thấp với tỷ lệ cấp 1 và 2 chiếm từ
60 - 90%, vì vậy khi các mô hình canh tác gặp diễn
biến lũ biến động thì hộ khó có thể ứng phó và tìm
công việc khác để tạo thu nhập. Bên cạnh đó, diện
tích canh tác của hộ cũng ở mức khá cao, lớn hơn từ
1 - 2 ha/hộ, tuy nhiên trong điều kiện nước sản xuất
đang gặp vấn đề về ô nhiễm do thiếu nước và thâm
canh tăng vụ đã làm cho hiệu quả sản xuất của hộ
giảm rất nhiều. Bên cạnh đó về mặt tài chính, mức
độ da dạng nguồn thu nhập hộ không cao chỉ từ 1 - 2
nguồn thu, trong khi đó, mô hình canh tác lúa được
xem là chủ lực của tỉnh thì có mức thu nhập thấp
nhất trong các mô hình canh tác. Về vốn xã hội, tỷ
lệ tham gia hội đoàn ở mức thấp làm hạn chế khả
năng tiếp cận thông tin của hộ. Về vốn tài sản, nông
hộ đa phần hài lòng về giao thông, thủy lợi, đê bao,
chỉ có hộ canh tác lúa còn chưa hài lòng về đê bao
do chế độ vận hành ảnh hưởng đến năng suất lúa.
Những tác động trực tiếp của lũ hầu như rất thấp,
chỉ còn lại những tác động gián tiếp như làm bạc
màu đất, dịch bệnh lưu tồn trong đất ảnh hưởng
đến mô hình canh tác, cụ thể lên mô hình canh tác
lúa là nhiều nhất, kế đến canh tác hoa màu và cuối
cùng là thủy sản. Vì vậy, có thể thấy được rằng về
mặt tổng thể mô hình thủy sản là một mô hình tiềm
năng dựa trên sự hiệu quả về kinh tế và có 5 nguồn
vốn sinh kế khá phù hợp để bổ trợ và phát triển
mô hình trong điều kiện nhiều rủi ro như hiện nay.
Về mặt giải pháp, nghiên cứu nhận thấy rằng
việc điều tiết đê bao xã lũ là cần thiết và định hướng
chuyển đổi mô hình canh tác nhằm cải thiện thu
nhập hộ. Và cần tập trung vào phát triển theo chuỗi
sản phẩm từ đầu vào lẫn đầu ra để hộ dân yên tâm
canh tác. Song song đó, quan tâm đẩy mạnh đến tập
huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác cho hộ.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính bền vững và hiệu quả kinh tế các mô hình sinh kế nông hộ vùng lũ đê bao khép kín tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
95
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
to determine levels and factors affecting the satisfaction of households inside the model. The result showed that
households inside the associate fields had higher yield and profit (7.6% and 31.4%) in comparison to those outside.
The farmers were quite satisfied about participation in the associate fields by the highest scale of Benefit variable
(> 4.2). Main factors affecting the satisfaction were Economy (β = 0.528), Engineering (β=0.373), Personal and
Society Benefits (β = 0.156); the Government Policy was the lowest impact on household’s satisfaction (β = 0.105).
Adjustment of the local supportive policies will attract farmer’s participation with the associate fields in the future.
Keywords: Associate fields, farm household, satisfaction, Tra On district, Vinh Long province
Ngày nhận bài: 02/4/2020
Ngày phản biện: 08/5/2020
Người phản biện: TS. Lê Quang Long
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
TÍNH BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH
SINH KẾ NÔNG HỘ VÙNG LŨ ĐÊ BAO KHÉP KÍN TỈNH AN GIANG
Lâm Thành Sĩ 1, Châu Mỹ Duyên2
TÓM TẮT
An Giang là tỉnh chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp lũ hằng năm, lũ gây ra các rủi ro như gây ngập úng, thiệt
hại sản xuất, hạn chế giao thông, xói lở và ảnh hưởng đến sinh kế hộ dân. Nghiên cứu sử dụng khung sinh kế bền
vững (DFID, 1999) nhằm khám phá các yếu tố thúc đẩy và cản trở sinh kế của nông hộ, đồng thời so sách các nguồn
lực sinh kế hộ trong đê và ngoài đê nhằm đề xuất những giải pháp cho cải thiện sinh kế nông hộ. Kỹ thuật tham
vấn người am hiểu (KIP), thảo luận nhóm (FGD) và phỏng vấn hộ được sử dụng. 182 hộ dân trong và ngoài đê ở
02 huyện An Phú, Phú Tân và thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang được phỏng vấn. Công cụ thống kê mô tả và phân
tích Anova sử dụng để thể hiện các chiến lược sinh kế, nguồn vốn sinh kế và tính tổn thương của chiến lược sinh kế.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong điều kiện hiện tại nông hộ có nguồn lao động dồi dào nhưng số người phụ
thuộc nhiều tạo khó khăn trong chi phí sinh hoạt, trình độ học vấn ở mức thấp. Tuy nhiên, về vốn nguồn lực tự
nhiên, diện tích sỡ hữu của các mô hình thì khác nhau khá lớn. Về mặt kinh tế, mức độ đa dạng nguồn thu nhập hộ
không cao. Về vốn xã hội, tỷ lệ tham gia hội đoàn ở mức thấp làm hạn chế khả năng tiếp cận thông tin của hộ. Về vốn
tài sản, nông hộ đa phần hài lòng về giao thông, thủy lợi, đê bao. Đối với 3 mô hình sinh kế chính thì có khác biệt
ý nghĩa thống kê về hiệu quả kinh tế và mô hình nuôi trồng thủy sản là một mô hình triển vọng cho thu nhập hộ.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, dễ tổn thương, vùng lũ, sinh kế
1 Nghiên cứu sinh ngành Phát triển nông thôn, Đại học Cần Thơ
2 Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng sản xuất nông
nghiệp trọng điểm của cả nước và giữ vai trò quan
trọng trong đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia
(Sánh, 2009; Thắng và Toản, 2016). Vì vậy, sản xuất
và dịch vụ nông nghiệp đã trở thành nguồn sinh kế
chính của nông dân vùng ĐBSCL. Trong điều kiện
cực đoan như hiện nay, ĐBSCL nói chung và lĩnh
vực nông nghiệp ở ĐBSCL nói riêng bị ảnh hưởng
nặng nề bởi tác động của biến đổi khí hậu, hiểm
họa tự nhiên (Wassmann, 2004; Dasgupta, 2007;
Carew-Reid, 2007) và chịu ảnh hưởng của thay
đổi sử dụng nước ở thượng nguồn (Greancen and
Palettu, 2007) cụ thể những hiện tượng cực đoan
này đã ảnh hưởng đến diễn biến lũ trở nên thay đổi
và thất thường hơn (Cấn Thu Văn và Nguyễn Thanh
Sơn, 2016; Thắng và Toản, 2016).
Tỉnh An Giang là tỉnh đầu nguồn có biên giới
giáp với Campuchia, nơi có dòng Sông Tiền và Sông
Hậu thuộc Sông Mekong từ thượng nguồn chảy về
và là tỉnh chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp bởi
lũ hằng năm (Tú và ctv., 2012). Theo tác giả Nguyễn
Thị Hoàng Hoa năm 2017 đã chỉ ra rằng, lũ mang
lại nhiều lợi ích cho ĐBSCL nói chung như cung
cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt, hệ sinh thái, ngăn
xâm nhập mặn và cung cấp phù sa và nguồn thủy
sản (Hoa, 2017). Tuy nhiên, lũ cũng gây ra các rủi ro
như gây ngập úng, thiệt hại mùa màng, cản trở giao
thông, xói lở và ảnh hưởng đến sinh kế hộ dân. Do
đó, An Giang đã tập trung vào các giải pháp công
trình như xây dựng đê bao khép kín để phục vụ cho
sản xuất và đảm bảo an toàn cho người dân (Thiệu
và Dung, 2014) và giải pháp phi công trình “sống
chung với lũ” nhằm nâng cao ý của hộ dân trong
96
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
ứng phó với lũ và tận dụng những lợi ích và hạn chế
thiệt hại do lũ (Tú và ctv., 2012). Tuy nhiên, trong
bối cảnh mới, sinh kế hộ dân vùng lũ cũng có những
tác động trái chiều đang diễn ra. Mặc dù, trong thời
gian diễn ra lũ, các giải pháp công trình phát huy
hiệu quả về đảm bảo sản xuất và an toàn cho người
dân, nhưng một bộ phận người dân sống phụ thuộc
vào mùa lũ lại mất đi nguồn sinh kế (Thịnh và ctv.,
2016). Bên cạnh đó, nhiều yếu tố ngoại tác đang tác
động trực tiếp và gián tiếp đến sinh kế hộ dân như
lưu lượng và diễn biến lũ, công trình thủy lợi và biến
đổi khí hậu vẫn tiếp tục diễn ra. Vì vậy, sau 10 năm
thực hiện những công trình kiểm soát lũ và các chủ
trương giảm thiểu tác động do lũ thì việc xác định
phân tích nguồn lực sinh kế của hộ dân trong bối
cảnh mới là cần thiết, trong nghiên cứu này đề tài
tập trung so sách các nguồn lực sinh kế hộ trong đê
và ngoài đê, bên cạnh đó so sánh hiệu quả tài chính
các mô hình sinh kế và đưa ra những giải pháp cụ
thể nhằm giúp cải thiện sinh kế cho hộ dân vùng lũ
trong bối cảnh hiện tại.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trên đối tượng là các nguồn sinh kế
chính của hộ dân sống trong vùng lũ và các yếu tố
tác động.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Cách tiếp cận
Nghiên cứu tiếp cận theo khung sinh kế bền vững
(DFID, 1999) nhằm khám phá các yếu tố thúc đẩy và
cản trở sinh kế của nông hộ. Bên cạnh đó, cách tiếp
cận có sự tham gia thông qua sử dụng bộ công cụ
PRA (Đánh giá nông thôn có sự tham gia) (Cần và
Vromant, 2009).
Hình 1. Khung sinh kế bền vững
Nguồn: Birkmann (2006).
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
a) Phương pháp PRA
Phương pháp PRA là phương pháp đánh giá nông
thôn có sự tham gia của nông hộ (Cần và Vromant,
2009) cách tiếp cận này đã được thực hiện ở 3 cấp độ
là tỉnh/huyện, xã và cộng đồng thông qua phỏng vấn
KIP (người am hiểu) và thảo luận nhóm.
b) Điều tra nông hộ
Sau khi có được những thông tin cơ bản thông
qua tham vấn KIP và thảo luận nhóm, phiếu điều
tra được soạn sẵn dựa trên những thông tin đã thu
thập để tiến hành phỏng vấn chi tiết theo mẫu từng
hộ dân trong đê và ngoài đê (Bảng 1). Trong đó, có
ba mô hình điển hình được chọn là canh tác lúa, hoa
màu và thủy sản.
Bảng 1. Thông tin về số lượng hộ khảo sát
theo mô hình và vị trí canh tác của hộ
Mô hình
An Giang
Trong đê Ngoài đê
Lúa 31 31
Hoa màu 30 30
Thủy sản 30 30
Tổng 91 91
Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2019.
2.2.3. Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng các công cụ thống kê mô tả như tần số
để thể hiện các chiến lược sinh kế, nguồn vốn sinh
kế và tính tổn thương của chiến lược sinh kế và sử
dụng phương pháp phân tích anova để so sánh hiệu
quả kinh tế các mô hình sinh kế. Bên cạnh đó, dựa
97
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
vào các số liệu thứ cấp (PRA và KIP) và kết quả
nghiên cứu sẽ đề xuất các giải pháp ứng phó với lũ
cho nông hộ.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 02/2019 đến
tháng 02/2020 tại huyện An Phú, Phú Tân và Thị xã
Tân Châu, thuộc vùng lũ tỉnh An Giang gồm trong
đê và ngoài đê.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các mô hình sinh kế chính của tỉnh An Giang
Trong nghiên cứu, đề tài đã chọn 3 mô hình canh
tác để khảo sát là mô hình canh tác lúa gồm lúa 2 và
3 vụ, mô hình canh tác hoa màu và nuôi trồng thủy
sản. Trong đó, mô hình nuôi trồng thủy sản bao gồm
nuôi bè trên sông và nuôi cá ao.
An Phú được chọn tiêu biểu cho mô hình canh
tác lúa trong đê và ngoài đê gồm hai xã Phú Hữu
và Quốc Thái. Tại huyện Phú Tân, tác giả tập trung
khảo sát mô hình nuôi trồng thủy sản trong đê và
ngoài đê gồm hai xã Hòa Lạc và Long Hòa. Thị xã
Tân Châu được chọn khảo sát đại diện cho mô hình
canh tác hoa màu trong đê và ngoài đê gồm hai xã
Long An và Tân An.
Sơ lược về tình hình xây dựng đê bao khép kín,
tại tỉnh An Giang các giải pháp công trình như xây
dựng đê bao khép kín và đê bao tháng 8 được bắt
đầu phát triển từ năm 2000, dần trở nên hoàn chỉnh
và phát triển mạnh năm 2011. Trong đó, tính đến
năm 2019 có 572 tiểu vùng, với chiều dài 4.620 km
đê bao kiểm soát lũ bảo vệ sản xuất nông nghiệp của
tỉnh hơn 242.000 ha. Trong đó có 341 tiểu vùng đê
bao với chiều dài 1.920 km kiểm soát lũ cả năm cho
hơn 156.800 ha đất sản xuất 3 vụ/năm. Nhìn chung,
việc xây dựng đê bao khép kín đã ảnh hưởng nhiều
đến việc chuyển đổi mô hình canh tác và cơ bản
mang nhiều lợi ích tích cực về hạn chế lũ và tăng thu
nhập hộ canh tác lúa.
3.2. Tình hình lũ và nhận thức của hộ dân về lũ
trong thời gian gần đây
Diễn biến mực nước (Hình 1) giai đoạn 2002 -
2018 tại trạm Tân Châu và Châu Đốc cho thấy mực
nước cao nhất giảm đều theo các năm từ 2002 - 2008
và từ 2008 đến 2018 thì diễn biễn mực nước trở nên
thất thường hơn và xu hướng tại hai trạm quan trắc
là khá tương đồng. Nhìn chung, mực nước dao động
hiện nay khó dự đoán và có biên độ dao động lớn.
Ngoài ra, theo nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, lũ
được xem là xuất hiện muộn hơn (gần 15 ngày) và
thời gian lũ lại ngắn hơn so với trước đây, đặc biệt
là các năm 2013 và 2015, nguyên nhân gây ra hiện
trạng này được đánh giá là do ảnh hưởng từ sự tích
trữ nước ở các hồ thủy điện phía thượng nguồn
(Tô Quan Toản và ctv., 2016).
Hình 1. Diễn biến mực nước cao nhất và thấp nhất ở trạm quan trắc
Tân Châu và Châu Đốc giai đoạn 2002 - 2018
Nguồn: Tổng cục thống kê (2020).
Bên cạnh đó, nhận thức về lũ của người dân tại
địa bàn nghiên cứu cũng được khảo sát, kết quả trùng
khớp với diễn biến lũ đã được thống kê trong nghiên
cứu này. Qua thảo luận nhóm với những hộ dân có
nhiều kinh nghiệm và sống lâu năm tại địa phương,
có hơn 90% ý kiến nhận định rằng từ năm 2000 trở
về trước thì lũ ổn định và từ năm 2000 trở lại đây thì
lũ trở nên thất thường, lên nhanh và xuống nhanh,
đặc biệt là năm 2016 và 2018. Có những ý kiến khác
cho rằng, lũ hiện nay về thấp hơn, thời gian lũ ngắn
hơn trước đây và nước ô nhiễm hơn (Kết quả thảo
luận nhóm, 2019). Nhìn chung, qua thời gian hơn
98
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
10 năm phát triển đê bao khép kín thì bên cạnh
những mặt tích cực và thiệt hại do lũ, hộ dân đang
nhận thức rõ những thay đổi và họ đang phải đối
mặt với những thách thức mới.
3.3. Phân tích nguồn vốn sinh kế hộ vùng lũ trong
bối cảnh mới
3.3.1. Vốn con người
Nguồn lực về vốn con người giữ vai trò cốt lỗi
trong năm nguồn lực sinh kế hộ. Trong đó, phải kể
đến lực lượng lao động và trình độ của chủ hộ. Ở
Bảng 2, trong 3 mô hình canh tác thì quy mô hộ
tại địa bàn nghiên cứu là tương đồng từ 4 - 5 thành
viên hộ, tuy nhiên có hộ có cao nhất từ 7 - 9 thành
viên, đây cũng là một khó khăn trong trang trải
kinh tế hộ. Bên cạnh đó, lao động hộ ở cả 3 mô hình
có 3 lao động chính và số lượng người phụ thuộc
trung bình là 2 người. Có nghĩa là mỗi lao động có
thể chăm sóc cho không đến một người, cho thấy
theo xu hướng này thì hộ có thể trang trải và đủ lo
cho cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, người phụ thuộc
ở địa bàn nghiên cứu thuộc hai đối tượng chính là
người già và trẻ em, điều này dẫn đến một mối lo
ngại rằng, trang trải cuộc sống không chỉ đơn giản
là chi phí sinh hoạt và phải kể đến chi phí y tế, giáo
dục. Vì vậy, trong điều kiện canh tác ổn định với
nguồn lực này hộ có thể đảm bảo cuộc sống, nhưng
đặc trong bối cảnh lũ như hiện tại, các mô hình
canh tác trở nên bấp bênh thì chi phí trang trải sẽ là
một mối lo ngại lớn cho hộ.
Bảng 2. Đặc điểm hộ
Đơn vị: người
Chỉ tiêu
Canh tác lúa
Trong đê Ngoài đê
Max Min TB Max Min TB
Quy mô hộ 8,0 1,0 4,4 7,0 2,0 4,7
Lao động của hộ 7,0 0,0 2,7 5,0 1,0 2,7
Người phụ thuộc 4,0 0,0 1,6 4,0 0,0 1,8
Canh tác hoa màu
Quy mô hộ 7,0 2,0 4,2 9,0 3,0 5,4
Lao động của hộ 5,0 2,0 2,9 6,0 1,0 3,1
Người phụ thuộc 4,0 0,0 1,7 5,0 0,0 2,1
Canh tác thủy sản
Quy mô hộ 9,0 3,0 4,9 9,0 2,0 4,1
Lao động của hộ 7,0 2,0 3,4 6,0 1,0 2,8
Người phụ thuộc 4,0 0,0 2,0 3,0 0,0 1,3
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
Bên cạnh đó, tuổi tác của người quản lý hộ cũng
giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động tạo thu
nhập cho hộ. Kết quả bảng 3 cho thấy rằng, đối với
mô hình canh tác lúa và rau màu thì độ tuổi trung
bình chiếm tỷ lệ cao nhất là từ 40 - 60 tuổi, ở độ
tuổi này cho thấy nông dân có kinh nghiệm canh tác
khá lâu năm, điều này giúp ít nhiều trong quá trình
canh tác, tuy nhiên do thói quen canh tác lâu năm
nên cũng có nhiều khó khăn trong thay đổi tập quán
canh tác và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đối với mô hình nuôi cá, nguồn nước là rất quan
trọng, nên hộ trẻ tuổi còn non kinh nghiệm thì
chọn nuôi hầm vì dễ quản lý về chất lượng nước và
số lượng cá, đối với hộ lớn tuổi hơn có nhiều kinh
nghiệm thì chấp nhận rủi ro cao hơn khi nuôi trực
tiếp trên sông lớn. Nhưng nhìn chung, khi lượng
nước, dòng chảy và chất lượng nước thay đổi sẽ là
thách thức đối với cả hai mô hình theo nhận định
của nông hộ.
Bảng 3. Phân bố tuổi của người quản lý hộ
Đơn vị: %
Tuổi
Trồng lúa Trồng màu Thủy sản
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
30 - 45 6,45 38,71 20,00 16,67 53,33 23,33
40 - 60 51,61 48,39 73,33 46,67 36,67 53,33
Trên 60 41,94 12,90 6,67 36,67 10,00 23,33
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
Bảng 4 thể hiện trình độ học vấn của chủ hộ,
trình độ học vấn quyết định đến sự tiếp thu, học
hỏi và trau dồi kiến thức của lao động khi thực hiện
mô hình canh tác. Kết quả khảo sát chỉ ra rằng, ở
cả 3 mô hình thì chủ hộ có trình độ cấp 1 và 2 là
chiếm tỷ trọng cao nhất, riêng chủ hộ nuôi trồng
thủy sản trong đê có tỷ lệ học cấp 3 và cao đẳng, đại
học cao nhất so với các mô hình còn lại. Điều này
cũng dễ giải thích, vì đầu tư nuôi trồng thủy sản là
ngành nghề nhiều rủi ro, đòi hỏi kỹ thuật và đầu tư
cao nên những chủ hộ trẻ tuổi và có trình độ có xu
hướng thực hiện mô hình canh tác này. Tuy nhiên,
đặt trong bối cảnh lũ thất thường thì chủ hộ có trình
độ học vấn thấp sẽ là một thách thức trong tiếp cận
thông tin, cập nhật và học hỏi để giải quyết những
khó khăn do lũ.
99
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 4. Trình độ học vấn của chủ hộ
Đơn vị: %
Trình
độ
Trồng lúa Trồng màu Thủy sản
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Không
đi học 6,45 6,45 0,00 3,33 0,00 6,67
Cấp 1 35,48 38,71 43,33 43,33 33,33 30,00
Cấp 2 35,48 35,48 46,67 30,00 20,00 36,67
Cấp 3 19,35 16,13 6,67 20,00 36,67 26,67
CĐ,
ĐH 3,23 3,23 3,33 3,33 10,00 0,00
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
3.3.2. Vốn nguồn lực tự nhiên
Vốn tự nhiên quan trọng phải kể đến là diện tích
đất sở hữu của hộ (Bảng 5).
Bảng 5. Diện tích đất của hộ theo mô hình
Đơn vị: ha
Mô hình
Trong đê Ngoài đê
Max Min TB Max Min TB
Lúa 4,1 0,2 1,5 4,1 0,2 1,8
hoa màu 5,1 0,2 1,4 3,6 0,1 1,0
Thủy sản 3,2 0,2 1,3 3,3 0,0 0,3
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
Theo Phạm Ngọc Nhàn (2017), đất đai được xem
là tài sản sinh kế quan trọng gắn với nguồn tư liệu
sản xuất chính của nông hộ, quan trọng hơn hết tùy
thuộc vào điều kiện đất đai, nông hộ đưa ra những
quyết định chuyển đổi mô hình canh tác với cây
trồng và vật nuôi phù hợp với sự thay đổi của môi
trường và khí hậu (Nhàn, 2017). Trong nghiên cứu
này kết quả chỉ ra rằng, nông hộ canh tác lúa có diện
tích đất trung bình cao nhất so với hai mô hình hoa
màu và thủy sản cả trong đê và ngoài đê, dao động
từ 1,5 - 1,8 ha/hộ, diện tích này là khá lớn so với mặt
bằng chung ở ĐBSCL.
3.3.3. Vốn xã hội
Vốn xã hội là các yếu tố xã hội bên ngoài, có khả
năng tác động đến sinh kế của hộ. Trong nghiên cứu
này (Bảng 6), đối với yếu tố đầu tiên là tham gia hội
đoàn, ở cả ba mô hình thì tỷ lệ tham gia hội đoàn
khá thấp từ 13 - 26% trên tổng số hộ được khảo sát,
việc này làm hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin
của hộ cho canh tác, cũng như đời sống. Bên cạnh
đó, yếu tố nhận sự giúp đỡ ở cả ba mô hình là khá
cao từ 50 - 80%. Đây là một điểm mạnh của nông hộ
khi đối mặt với các khó khăn, kể cả khó khăn gây ra
bởi lũ. Ngoài ra, có thể thấy từ 50% đến hơn 80% hộ
cho rằng việc hợp tác trong canh tác hiện tại ở địa
phương là tốt, nông dân cùng giúp đỡ nhau. Cụ thể
những giúp đỡ như chia sẽ thông tin, kỹ thuật canh
tác. Cuối cùng là yếu tố về hỗ trợ kỹ thuật tốt, trong
đó nhóm hộ nuôi trồng thủy sản ngoài đê (nuôi bè)
có tỷ lệ thấp nhất, nhóm hộ này chia sẽ rằng, họ chưa
tiếp cận được nhiều hỗ trợ kỹ thuật, chủ yếu làm
theo kinh nghiệm, tự phát và hỏi cơ sở cung cấp vật
tư, về phía địa phương thì chưa có nhiều tập huấn
cho hộ. Còn lại, đối với mô hình canh tác màu có
hơn 50% số hộ được khảo sát cho là hỗ trợ kỹ thuật
tốt. Bên cạnh đó, có sự chênh lệch khá lớn giữa hộ
canh tác lúa ngoài đê và trong đê, có 38% hộ trong đê
cho rằng hỗ trợ kỹ thuật tốt, nhưng nhóm hộ ngoài
đê có đến hơn 67% ý kiến về yếu tố này, điều này có
thể hiểu rằng, hộ trong đê đang gặp nhiều khó khăn
hơn trong canh tác như đã kể trên, nhưng những hỗ
trợ kỹ thuật đã chưa thật sự giải quyết vấn đề của họ.
Bảng 6. Vốn xã hội của nông hộ
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Trồng lúa Trồng màu Thủy sản
Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê
Tham gia hội đoàn 22,6 25,8 13,3 20,0 20,0 13,3
Nhận giúp đỡ 54,8 77,4 56,7 80,0 56,7 60,0
Hợp tác 61,3 61,3 80,0 63,3 83,3 53,3
Hỗ trợ kỹ thuật tốt 38,7 67,7 53,3 50,0 33,3 20,0
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
3.3.4. Vốn tài chính
Vốn tài chính quyết định đến thu nhập hộ và khả
năng duy trì hoạt động sinh kế của hộ. Trong nghiên
cứu, kết quả về vốn tài chính được thể hiện ở bảng 7
và 8. Số hoạt động tạo ra thu nhập của cả ba mô hình
trung bình 2 nguồn thu nhập. Từ việc có 2 nguồn
thu nhập hộ sẽ giảm rủi ro hơn trong quản lý kinh
tế hộ. Trong đó, chỉ có mô hình canh tác lúa trong
100
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
đê có tỷ lệ thấp nhất, cho thấy chỉ có một số có 2 và
lớn hơn 2 nguồn thu và đa phần chỉ có 1 nguồn thu
duy nhất từ canh tác lúa, nếu điều kiện lũ biến động
và môi trường như hiện tại thì nhóm hộ nào khó có
thể phát triển kinh tế hộ bền vững. So về thu nhập,
về mô hình canh tác lúa thì thu nhập của hộ trong
đê và ngoài đê là như nhau trên ha/năm, cho thấy
làm lúa 3 vụ trong đê không mang lại thu nhập cao
hơn làm lúa 2 vụ ngoài đê. Bên cạnh đó, mô hình
trồng màu trong đê và ngoài đê có sự khác biệt rõ
rệt, mô hình màu trong đê cho thu nhập thấp hơn vì
liên quan đến năng suất và giá cả, năng suất còn phụ
thuộc vào kỹ thuật, chất lượng nước và chất lượng
đất, nhưng với điều kiện trong đê thì chất lượng đất
bạc màu, nước ô nhiễm như hiện tại cũng phần nào
ảnh hưởng đến thu nhập của mô hình này. Đối với
mô hình nuôi cá hầm mang lại thu nhập cao hơn mô
hình nuôi cá bè. Vì như đã kể trên, nguồn nước, chất
lượng nước rất quan trọng cho mô hình nuôi cá, hộ
nuôi cá bè tiếp xúc trực tiếp với nguồn nước sông
lớn, vì vậy những biến động thay đổi của mực nước
trên sông ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động canh
tác của hộ.
Bảng 7. Tình hình đa dạng thu nhập của hộ và thu nhập hộ
Đơn vị: %
Nguồn thu
Trồng lúa Trồng màu Thủy sản
Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê
1 - 2 93,55 87,10 70,97 90,00 76,67 93,33
> 2 6,45 12,90 29,03 10,00 23,33 6,67
Số nguồn TB 1,39 1,77 2,28 1,59 2,10 1,80
Thu nhập TB hộ
(triệu đồng) 61,99 62,05 127,40 200,82 1097,35 405,68
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
Ở bảng 8, tỷ lệ hộ cho rằng có đủ vốn canh
tác chiếm tỷ lệ khá lớn từ 65 - 76%. Song song đó,
tỷ lệ hộ có vay vốn ngân hàng cũng dao động từ
29 - 65% số hộ được phỏng vấn. Hộ có tỷ lệ vay vốn
ngân hàng cao nhất là nhóm hộ canh tác lúa ngoài
đê với 64,5% và nhóm hộ canh tác màu ngoài đê là
60%, tỷ lệ này khá cao, nguyên nhân vay vốn của các
hộ này nhằm trang trải cuộc sống, lo chi phí đến
trường cho con cái và đầu tư sản xuất. Bên cạnh đó,
nhóm hộ nuôi trồng thủy sản có tỷ lệ vay vốn là 40%
vì mô hình này cần tiền vốn đầu tư cao cho sản xuất.
Và tỷ lệ hộ cho ý kiến rằng tiếp cận vốn vay hiện nay
dễ rất cao từ 65 - 100%, cho thấy vấn đề tiếp cận vốn
không gây khó khăn cho nông hộ và họ có thể tiếp
cận vốn để trang trải trong hộ.
Bảng 8. Tình hình vốn và vay vốn ngân hàng của hộ
Đơn vị: %
Tình hình vay vốn
Trồng lúa Trồng màu Thủy sản
Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê
Đủ vốn 74,2 64,5 73,3 63,3 76,7 66,7
Có vay vốn 29,0 64,5 53,3 60,0 40,0 40,0
Tiếp cận vay dễ 100,0 65,0 92,9 83,3 83,3 72,7
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
3.3.5. Vốn tài sản
Nguồn vốn tài sản đóng vai trò khá quan trọng,
tác động đến các hoạt động sinh kế và đời sống sinh
hoạt của nông hộ để ổn định sinh kế. Trong nghiên
cứu, tác giả tập trung thu thập đánh giá hộ về các
nguồn vốn vật chất phục vụ đời sống và sản xuất như
giao thông, thủy lợi, đê bao, tài sản sản xuất và đặc
điểm nhà cửa, cuối cùng là thiệt hại do lũ trong các
năm vừa qua, kết quả được tổng hợp ở bảng 9. Kết
quả chỉ ra rằng, về giao thông nông thôn chỉ có mô
hình canh tác lúa cả trong đê và ngoài đê có tỷ lệ
không hài lòng khá cao, vì nhóm hộ này cho rằng
giao thông vẫn chưa thuận lợi cho di chuyển trong
sinh hoạt và sản xuất lúa. Về thủy lợi, đa phần được
nông hộ hài lòng và tỷ lệ không hài lòng là khá thấp
chỉ từ 3 - 10% số hộ được phỏng vấn. Đối với hệ
101
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
thống đê bao, nhóm hộ canh tác lúa trong đê có tỷ
lệ không hài lòng về đê bao nhiều nhất với 38,7%
trên tổng số ý kiến được thu thập, vì nhóm hộ này
cho rằng đê bao khép kín chưa thực hiện xã lũ nên
đất đai bạc màu, dịch bệnh còn trong đất nên ảnh
hưởng đến năng suất lúa do đó hộ dân vẫn chưa hài
lòng cách vận hành đê bao này. Bên cạnh đó, tài sản
sản xuất là những dụng cụ được sử dụng trong quá
trình sản xuất của hộ, khi được khảo sát cả 3 nhóm
mô hình đều cho rằng tỷ lệ thiếu tài sản sản xuất là
thấp chỉ từ 3 - 10%, có thể thấy được rằng, hiện nay
hộ đã có đủ khả năng trang bị khá đầy đủ những
dụng cụ sản xuất, để phục vụ một cách chủ động cho
canh tác của hộ.
Đối với việc nhạy cảm với lũ, nghiên cứu cũng
quan tâm về đặc điểm nhà cửa của hộ, hiện nay tại
3 mô hình canh tác chính, số hộ có nhà kiên cố
chiếm tỷ trọng cũng khá lớn, thấp nhất là 54,8% của
hộ trồng lúa và cao nhất là 86,7% đối với hộ nuôi
trồng thủy sản trong đê. Con số này cho thấy rằng,
hộ dân đã quan tâm và củng cố nhà cửa khá tốt để
ứng phó với lũ hằng năm. Bên cạnh đó, khi được hỏi
về thiệt hại do lũ, đối với nhóm hộ nuôi trồng thủy
sản hoàn toàn không có thiệt hại do lũ trong những
năm gần đây, và mô hình trồng màu cũng tương tự
hoặc có tỷ lệ thiệt hại khá thấp. Chỉ riêng nhóm hộ
canh tác lúa vẫn có thiệt hại do lũ từ 9 - 12% số hộ
được phỏng vấn, con số này cũng không nhiều. Hộ
dân trong quá trình phỏng vấn chia sẽ rằng, do địa
bàn là vùng đầu nguồn nên việc ứng phó đã được
chuẩn bị từ lâu như xây dựng nhà cửa, dằn néo và
chuẩn bị về mặt tâm lý, thêm vào đó hiện nay đã có
đê bao, nông dân cũng thêm phần vững tin, do đó
thiệt hại trực tiếp do lũ hiện nay là không nhiều.
Bảng 9. Đánh giá tài sản vật thể của hộ
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
Trồng lúa Trồng màu Thủy sản
Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê Trong đê Ngoài đê
Chưa hài lòng về giao thông 45,2 58,1 3,3 13,3 10,0 0,0
Chưa hài lòng về thủy lợi 3,2 3,2 3,3 10,0 6,7 10,0
Chưa hài lòng về đê bao 38,7 22,6 0,0 16,7 0,0 6,7
Thiếu tài sản sản xuất 6,5 9,7 3,3 10,0 10,0 3,3
Loại nhà kiên cố 54,8 54,8 66,7 60,0 86,7 70,0
Thiệt hại do lũ 12,9 9,7 0,0 3,3 0,0 0,0
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
Nhìn chung, 5 nguồn vốn sinh kế của nông hộ
tại địa bàn nghiên cứu phục vụ một cách phù hợp
và tương đối cho 3 mô hình sinh kế chính như canh
tác lúa, trồng màu và nuôi trồng thủy sản. Trong đó,
mô hình canh tác lúa là mô hình truyền thống có từ
lâu đời nên các nguồn vốn sinh kế phục vụ khá tốt;
tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên thay đổi, cụ thể là lũ
ảnh hưởng nên dẫn đến những khó khăn nhất định
và dần dần mô hình trở nên kém hiệu quả. Thay vào
đó, mô hình canh tác màu và nuôi trồng thủy sản là
các mô hình mới phát triển nhưng mang lại hiệu quả
cao và các nguồn vốn sinh kế đã dần dần được đầu
tư, trở nên phù hợp và bền vững hơn với điều kiện
hiện tại như ít bị ảnh hưởng bởi lũ, nguồn nhân lực
trình độ cao, cơ sở hạ tầng tốt. Trong đó, mô hình
nuôi trồng thủy sản là mô hình được kỳ vọng và có
tiềm năng mở rộng phát triển trong tương lai.
3.4. Phân tích hiệu quả kinh tế các mô hình sinh kế
Dựa trên thông tin thu thập, tác giả kiểm định
3 mô hình sinh kế chính cùng với vị trí của mô hình
bằng mô hình Anova để thấy rõ sự khác biệt về hiệu
quả kinh tế giữa các mô hình sinh kế. Kết quả ở bảng
10 chỉ ra rằng, đối với mô hình canh tác lúa trong đê
và ngoài đê không có sự khác biệt về mặt diện tích,
chi phí, thu nhập và lợi nhuận/hộ. Điều này trùng
khớp với kết quả ở phía trên, cho thấy rằng mô hình
canh tác lúa 3 vụ trong đê thật sự không mang lại
sự khác biệt về mặt kinh tế so với mô hình lúa 2 vụ
ngoài đê. Bên cạnh đó, về mặt diện tích có sự khác
biệt có ý nghĩa giữa 3 mô hình canh tác. Về chi phí
cũng tương tự, mô hình thủy sản khác biệt với mô
hình canh tác màu và lúa, và có chi phí cao nhất so
với 2 mô hình còn lại. Về thu nhập cũng thể hiện rõ
sự khác biệt giữa các mô hình, trong đó mô hình thủy
sản có thu nhập cao nhất, đến canh tác màu và cuối
cùng là lúa. Song song đó, về lợi nhuận, có sự khác
biệt có ý nghĩa giữa các mô hình, trong đó mô hình
nuôi cá trong đê là có khác biệt nhiều nhất so với
các mô hình còn lại. Nhìn chung, từ việc khác biệt
về mặt diện tích, chi phí, thu nhập và lợi nhuận giữa
102
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
các mô hình, có thể thấy được rằng việc sở hữu diện
tích canh tác lớn không thể quyết định thu nhập hộ
và mô hình nuôi trồng thủy sản là một mô hình triển
vọng cho nông dân vùng lũ, tuy nhiên phải tuân theo
quy hoạch và định hướng của địa phương.
Bảng 10. So sánh hiệu quả kinh tế các mô hình sinh kế
Mô hình
Các chỉ tiêu đánh giá
Diện tích MH
(ha)
chi phí/hộ
(triệu đồng)
Thu nhập/hộ
(triệu đồng)
Lợi nhuận/hộ
(triệu đồng)
Lúa
Trong đê 1,405a 81,63d 134,25d 52,62d
Ngoài đê 1,74a 66,53d 110,35d 43,82d
Màu
Trong đê 0,42c 79,38d 416,56cd 51,38d
Ngoài đê 0,67b 168,47c 662,03c 205,62c
Thủy sản
Trong đê 0,54bc 1676,01a 2676,97a 1000,97a
Ngoài đê 0,00d 791,43b 1157,95b 366,52b
Nguồn: Kết quả điều tra (2019).
Ghi chú: Trong cùng 1 cột và đồng thời cùng yếu tố có các ký tự (a, b,) khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05).
3.5. Các giải pháp ứng phó với diễn biến của lũ
trong điều kiện hiện tại
3.5.1. Giải pháp ứng phó của nông hộ
Hiện nay, nông hộ nhận thức được rằng diễn biến
lũ ngày càng phức tạp và khó dự đoán. Mặc dù có đê
bao khép kín phần nào hạn chế những tác động trực
tiếp của lũ, nhưng những tác động gián tiếp vẫn tiếp
tục xảy ra. Vì vậy, cấp độ nông hộ thông qua thảo
luận nhóm nông hộ đưa ra các giải pháp như sau:
cần điều tiết vận hành xã lũ vùng đê bao khép kín,
chuyển đổi mô hình canh tác từ 3 vụ sang 2 vụ và
kết hợp thêm cây trồng khác. Song song đó, việc tập
huấn kỹ thuật cần được quan tâm thường xuyên và
hoàn thiện kênh nội đồng. Bên cạnh đó, nhiều hộ
dân có đề xuất về đẩy mạnh liên kết sản xuất và hỗ
trợ chính sách bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ vay vốn để
người dân ổn định sản xuất.
3.5.2. Giải pháp ứng phó của cấp quản lý
Về cấp quản lý, thông qua phỏng vấn KIP cấp tỉnh
và huyện đã đưa ra các giải pháp ứng phó trong giai
đoạn hiện tại như thay đổi vận hành xã lũ theo khu
vực, khuyến cáo chuyển đổi mô hình canh tác thích
nghi và tăng cường tập huấn chuyển giao kỹ thuật
cho nông hộ. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển các
HTX sản xuất để tạo cơ hội đầu ra cho nông sản.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền vận động người dân
trong nâng cao ý thức phòng chống lũ lụt luôn được
quan tâm và đẩy mạnh, tăng cường công tác dự đoán
dự báo để tạo điều kiện thuận lợi cho hộ dân trong
canh tác.
IV. KẾT LUẬN
Lũ là hiện tượng tự nhiên xảy ra hằng năm tại
tỉnh An Giang, mang lại những tác động tích cực
cho đời sống sinh kế hộ dân vùng đầu nguồn như
bồi đắp bù sa, nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, những
tác động tiêu cực cũng diễn ra song song. Qua
đánh giá năm nguồn vốn sinh kế hộ trong bối cảnh
đã xây dựng đê bao khép kín, kết quả chỉ ra rằng,
trong điều kiện hiện tại nông hộ có nguồn lao động
dồi dào nhưng số người phụ thuộc cũng khá cao
(2 người/hộ), vì vậy đặt gánh nặng về nhu cầu chi
phí sinh hoạt, trình độ học vấn của hộ được khảo sát
nhìn chung ở mức thấp với tỷ lệ cấp 1 và 2 chiếm từ
60 - 90%, vì vậy khi các mô hình canh tác gặp diễn
biến lũ biến động thì hộ khó có thể ứng phó và tìm
công việc khác để tạo thu nhập. Bên cạnh đó, diện
tích canh tác của hộ cũng ở mức khá cao, lớn hơn từ
1 - 2 ha/hộ, tuy nhiên trong điều kiện nước sản xuất
đang gặp vấn đề về ô nhiễm do thiếu nước và thâm
canh tăng vụ đã làm cho hiệu quả sản xuất của hộ
giảm rất nhiều. Bên cạnh đó về mặt tài chính, mức
độ da dạng nguồn thu nhập hộ không cao chỉ từ 1 - 2
nguồn thu, trong khi đó, mô hình canh tác lúa được
xem là chủ lực của tỉnh thì có mức thu nhập thấp
nhất trong các mô hình canh tác. Về vốn xã hội, tỷ
lệ tham gia hội đoàn ở mức thấp làm hạn chế khả
năng tiếp cận thông tin của hộ. Về vốn tài sản, nông
hộ đa phần hài lòng về giao thông, thủy lợi, đê bao,
chỉ có hộ canh tác lúa còn chưa hài lòng về đê bao
do chế độ vận hành ảnh hưởng đến năng suất lúa.
Những tác động trực tiếp của lũ hầu như rất thấp,
chỉ còn lại những tác động gián tiếp như làm bạc
103
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
màu đất, dịch bệnh lưu tồn trong đất ảnh hưởng
đến mô hình canh tác, cụ thể lên mô hình canh tác
lúa là nhiều nhất, kế đến canh tác hoa màu và cuối
cùng là thủy sản. Vì vậy, có thể thấy được rằng về
mặt tổng thể mô hình thủy sản là một mô hình tiềm
năng dựa trên sự hiệu quả về kinh tế và có 5 nguồn
vốn sinh kế khá phù hợp để bổ trợ và phát triển
mô hình trong điều kiện nhiều rủi ro như hiện nay.
Về mặt giải pháp, nghiên cứu nhận thấy rằng
việc điều tiết đê bao xã lũ là cần thiết và định hướng
chuyển đổi mô hình canh tác nhằm cải thiện thu
nhập hộ. Và cần tập trung vào phát triển theo chuỗi
sản phẩm từ đầu vào lẫn đầu ra để hộ dân yên tâm
canh tác. Song song đó, quan tâm đẩy mạnh đến tập
huấn, chuyển giao kỹ thuật canh tác cho hộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cần, N. D., & Vromant, N., 2009. PRA - Đánh giá
nông thôn với sự tham gia của người dân. NXB Nông
nghiệp Hà Nội, 55 Trang.
Hoa, N. T., 2017. Đánh giá giá trị môi trường bị tác động
bởi dự án phát triển thủy điện. Trường Đại học Thủy
Lợi, 92-96.
Hùng, Đ. V., & Lê, P. V., 2000 - 2011. Báo cáo tổng kết
công tác phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn
2000 - 2011 tỉnh An Giang. Ban chỉ huy PCLB tỉnh
An Giang.
Nhàn, P. N., 2017. So sánh hiệu quả tài chính của mô
hình canh tác 2 lúa - 1 màu với 3 lúa tại tỉnh Hậu
Giang. Tạp chí khoa học và phát triển nông thôn, (2):
99-105.
Sánh, N. V., 2009. An ninh lương thực quốc gia: nhìn
từ khía cạnh nông dân trồng lúa và giải pháp liên kết
vùng và tham gia “4 nhà” tại vùng ĐBSCL. Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 12: 171-181.
Thiệu, N. V., & Dung, N. T., 2014. Yếu tố ảnh hưởng
đến sinh kế và giải pháp sinh kế bền vững. Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 31: 39-45.
Thịnh, N. X., Tân, T. T., Hằng, T. T., & Trí, V. P., 2016.
Đánh giá tổng hợp hiệu quả dự án kiểm soát lũ Đồng
bằng sông Cửu Long - Điểm nghiên cứu Nam Vàm
Nao. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt
Nam, 66 (5): 95-102. .
Toản, T. Q., Thắng, T. Đ., Hoằng, T. B., Hùng, L. M. &
Minh, D. X., 2016. Tác động của biến đổi khí hậu,
phát triển thượng nguồn, phát triển nội tại tới Đồng
bằng sông Cửu Long, thách thức và giải pháp ứng
phó. Trong Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên
năm 2016., ISBN : 978-604-82-1980-2.
Tổng cục thống kê, 2020. Niên giám thống kê 2019, truy
cập ngày 10/3/2020. Địa chỉ:
Tú, V. H., Cần, N. D., Trang, N. T., & An, L. V., 2012.
Tính tổn thương sinh kế nông hộ bị ảnh hưởng lũ
tại tỉnh An Giang và các giải pháp ứng phó. Tạp chí
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, (22b): 294-303.
Cấn Thu Văn & Nguyễn Thanh Sơn, 2016. Nghiên cứu
mô phỏng thủy văn, thủy lực vùng Đồng bằng sông
Cửu Long để đánh giá ảnh hưởng của hệ thống đê
bao đến sự thay đổi dòng chảy mặt vùng Đồng Tháp
Mười. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học
Trái đất và Môi trường, 32 (3S): 256-263.
Birkmann, J., 2006. Measuring vulnerability to natural
hazards: towards disaster resilient societies. (No. Sirsi):
i9789280811353.
Carew-Reid, J., 2007. Rapid Assessment of the
Extent and Impact of Sea Level Rise in Viet Nam.
Climate Change Discussion Paper 1, Brisbane,
Australia: International Centre for Environmental
Management. .
Dasgupta, S. L., 2007. The Impact of Sea Level Rise on
trhe Developing Countries: A Comparative Analysis.
World Bank Policy Research Working Paper 4136.
DFID, 1999. Sustainable Livelihood Guidance Sheet.
Greancen, C., & Palettu, A., 2007. Electricity Sector
Planning and Hydropower. In D. J. L. Lebel,
Democratizing Water Governance in the Mekong
Region. Chiang Mai: USER Mekong Press.
Wassmann, R. H., 2004. Sea Level Rise Affecting the
Vietnamese Mekong Delta: Water Elevation in the
Flood Season and Implications for Rice Production.
Climate Change, 66: 89-107.
Sustainability and economic efficiency of household livelihood systems
at high-dyke areas in An Giang province
Lam Thanh Si, Chau My Duyen
Abstract
An Giang is a province firstly and directly affected by floods which cause disasters such as flooding, production
losses, traffic restrictions, erosion, and affect household livelihoods. The study used a sustainable livelihood
framework (DFID, 1999) to explore factors that motivate and hinder the livelihoods of households, meanwhile
comparing livelihood resources inside and outside the dike to propose solutions for improving household livelihoods.
Key Informant Panel (KIP), Focus Group Discussion (FGD), and household interview methods were used.
182 households inside and outside the dyke in 2 districts of An Phu, Phu Tan, and Tan Chau Town, An Giang
104
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
NGHIÊN CỨU NUÔI TẢO Spirulina platensis
BẰNG NƯỚC THẢI AO NUÔI CÁ LÓC (Channa striata)
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ NUÔI ĐẾN SỰ TĂNG SINH KHỐI
Dương Hoàng Oanh1, Nguyễn Thị Trúc Linh1,
Nguyễn Hoàng Lâm và Phạm Kim Long1
TÓM TẮT
Bài viết trình bày nghiên cứu tận dụng nguồn nước thải ao nuôi cá lóc đã xử lý để nuôi tảo Spirulina platensis.
Thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Nghiệm thức 1: môi trường nước thải ao nuôi cá
lóc có mật độ tảo ban đầu là 1 ˟ 104 tb/mL (10%). Nghiệm thức 2: môi trường nước thải ao nuôi cá lóc có mật độ
tảo ban đầu là 1,5 ˟ 104 tb/mL (15%). Nghiệm thức 3: môi trường nước thải ao nuôi cá lóc có mật độ tảo ban đầu là
2 ˟ 104 tb/mL (20%). Nghiệm thức đối chứng: Môi trường Zarrouk có mật độ tảo ban đầu là 1 ˟ 104 tb/mL (10%).
Kết quả nghiên cứu cho thấy NT1 đạt mật độ đạt cực đại 52.681 ± 281 tb/mL ở ngày nuôi thứ 15, có sinh khối tảo
thu được 8,88 ± 0,24g/L. NT2 mật độ đạt cực đại 54.134 ± 489 tb/mL ở ngày nuôi thứ 13, có sinh khối tảo thu được
10,29 ± 0,10g/L. NT3 mật độ đạt cực đại 54.617 ± 1.164 tb/mL ở ngày nuôi thứ 11, có sinh khối tảo thu được
10,6 ± 0,31g/L. NTĐC đạt mật độ cực đại 54.218 ± 567 tb/mL ở ngày nuôi thứ 16, có sinh khối tảo thu được
10,29 ± 0,29 g/L. Khi sử dụng nước thải ao nuôi cá lóc ở mật độ tảo ban đầu 15 - 20% % đạt sinh khối tảo cao so với
nuôi ở mật độ tảo ban đầu 10% (p < 0,05). Hàm lượng Protein của tảo tỷ lệ thuận với mật độ nuôi ban đầu và tỷ lệ
nghịch với thời gian nuôi
Từ khóa: Spirulina platensis, Channa striata, nước thải nuôi trồng thủy sản
Province were interviewed. Descriptive statistical tools and Anova analysis were used to show livelihood strategies,
livelihood resources, the vulnerability of livelihood strategies, and financial efficiency. The research results showed
that, in the present conditions, the household had abundant labor resources but the number of dependents creating
the difficulties in living costs and education levels of the household member was low. However, in terms of natural
capital, the area of ownership of the models varied considerably. Financially, the diversity of household income
sources was not high. Regarding social capital, the low participation rate of the association, it limited the household’s
access to information. In terms of physical capital, most households satisfied with transportation, irrigation, and
dykes. And among three main livelihood activities was having the statistically significant differences in financial
efficiency and aquacultural production was a promising model for household’s income.
Key words: Climate change, vulnerability, flood area, livelihoods
Ngày nhận bài: 29/4/2020
Ngày phản biện: 13/5/2020
Người phản biện: PGS. TS. Đào Thế Anh
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Trường Đại học Trà Vinh
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghề nuôi cá lóc (Channa striata) trong nhiều
năm qua đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều
nông dân tỉnh Trà Vinh, nhất là huyện Trà Cú. Tuy
nhiên, việc mở rộng diện tích nuôi một cách tự phát
không theo sự khuyến cáo và quy hoạch của ngành
nông nghiệp đã dẫn đến nguy cơ lớn về ô nhiễm môi
trường nước. Sự gia tăng về diện tích nuôi kéo theo
sự suy giảm sức chịu tải của môi trường. Nguy cơ ô
nhiễm hữu cơ diện rộng đe dọa phá vỡ nghiêm trọng
hệ sinh thái thủy sinh. Trong khi đó, nguồn dinh
dưỡng từ nước thải cá lóc được đánh giá là chứa rất
nhiều chất dinh dưỡng có thể làm phì dưỡng các vi
tảo khi được thải trực tiếp vào môi trường, trong đó
có tảo xoắn Spirulina (Lê Hoàng Việt và Nguyễn Võ
Châu Ngân, 2015). Do đó, nước nuôi cá lóc chỉ cần
bổ sung lượng nhỏ khoáng chất có thể sử dụng để
nuôi sinh khối tảo Spirulina platensis đạt chất lượng
tốt. Ngoài ra, tận dụng nguồn nước thải từ nuôi cá
lóc sẽ để nuôi tảo Spirulina platensis sẽ tiết kiệm chi
phí, giảm giá thành sản phẩm đồng thời góp phần
làm giảm được ô nhiễm môi trường.
Tảo Spirulina sp. được dùng trong xử lý môi
trường nước và là thức ăn giàu dinh dưỡng được
các đối tượng thủy sản, gia súc và gia cầm sử dụng.
Tận dụng nguồn nước thải ao nuôi cá lóc và bổ sung
hàm lượng dinh dưỡng để nuôi tảo Spirulina sp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_ben_vung_va_hieu_qua_kinh_te_cac_mo_hinh_sinh_ke_nong_h.pdf