Nhật Bản tác giả Aya K và cộng sự (2009)
[7] cũng báo cáo trên tất cả 5 bệnh nhân mắc
HCTHBS đều thấy đột biến gen NPHS1. 9 đột biến
phát hiện thấy gồm 6 đột biến thay thế 1 cặp base
nitơ, 3 đột biến mất đoạn tại exon 4,7,9,14,18,1,
các đột biến này đều ở dạng dị hợp tử.
Kết quả phân tích gen NHPS1 trên bệnh nhân
của chúng tôi cho thấy đột biến p.D310N trên
Ig3, vị trí đột biến này cũng đã được Shi và cộng
sự công bố năm 2005, Fu và cộng sự công bố năm
2015 tại Trung Quốc. Do đột biến thay thế aspartic
acid bằng asparagine glutaminea ở vị trí 310
trên Ig3 đã dẫn đến sự gấp lỗi và khiếm khuyết
trong vận chuyển nội bào và đột biến này được
chấp nhận như một đột biến bệnh lý (Shi et al.,
2005) [3]. Đột biến thêm một base nitơ G vào vị
trí 3250 - 3251 trên cDNA dẫn đến sự lệch khung
đọc và đột biến p.V1084fsX1095 exon 24 (hình 3)
trên NPHS1, đây cũng là một đột biến bệnh lý đã
được Lenkkeri công bố năm 1999 [2], Lee năm
2009 [6] và Santin và cộng sự năm 2009 [8], đột
biến lệch khung và đột biến sai nghĩa dẫn đến
sự ngừng tổng hợp protein tạo nên những protein
không đầy đủ được xếp vào nhóm các đột biến
bệnh lý nặng nhất. Một bệnh nhân người Trung
Quốc mang đồng thời đột biến đồng hợp tử tại
vị trí này cùng biến đổi dị hợp tử p.E117K và
c.3315G>A, trên bệnh nhân của chúng tôi cũng
mang đột biến này (hình 1) và có kiểu hình bệnh
rất nặng (Yu et al., 2012)[4].
Như vậy khi bệnh nhân mắc HCTHBS, mức độ
nặng của bệnh sẽ phụ thuộc vào loại đột biến, vị
trí đột biến. Nếu đột biến lớn (lệch khung, mất
đoạn, sai nghĩa) thường gây nên bệnh cảnh lâm
sàng nặng nề, nếu bệnh nhân mang 1 đột biến,
đột biến ít quan trọng (thay thế 1 cặp nucleotide)
thì sẽ tiên lượng tốt hơn (bệnh nhân thứ 3). Điều
này cũng phù hợp cho trường hợp bệnh nhân
trong nghiên cứu của chúng tôi có kiểu hình
bệnh rất nặng trong khi bố và mẹ của bệnh nhân
có kiểu hình bình. Sự biểu hiện bệnh rất nặng ở
bệnh nhân có thể là do bệnh nhân mang đồng
thời ba đột biến dị hợp tử này dẫn đến sự ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cấu trúc và chức năng
của protein.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính đa hình di truyền gen NPHS1 ở trẻ mắc hội chứng thận hư bẩm sinh: Báo cáo ca lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 6
50
TÍNH ĐA HÌNH DI TRUYỀN GEN NPHS1 Ở TRẺ MẮC HỘI CHỨNG
THẬN HƯ BẨM SINH: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Phạm Văn Đếm1, Nguyễn Thị Quỳnh Hương2, Nguyễn Thu Hương3,
Nguyễn Thị Kim Liên4, Thái Thiên Nam3, Nguyễn Thị Ngọc3, Trương Mạnh Tú3, Lê Nam Trà3*
1Khoa Y Dược, ĐHQGHN; 2Bộ môn Nhi, Trường Đại học Y Hà Nội; 3Phó chủ tịch Hội Nhi khoa, nguyên phó
Hiệu trưởng Trường ĐHYHN, nguyên Trưởng Bộ môn Nhi, ĐHYHN, nguyên Trưởng khoa Thận và Lọc máu,
Bệnh viện Nhi Trung ương; 3Khoa Thận và Lọc máu, Bệnh viện Nhi TƯ; 4Viện Nghiên cứu hệ gen.
TÓM TẮT
Hội chứng thận hư bẩm sinh (HCTHBS) là bệnh di truyền hiếm gặp, khởi phát trước 3 tháng
tuổi, điều trị khó khăn vì hoàn toàn không đáp ứng với tất cả các thuốc ức chế miễn dịch, tiến
triển nhanh đến bệnh thận mạn giai đoạn cuối. Gen NPHS1 nằm trên cánh dài NST 19, gồm 29
exon mã hóa tổng hợp nên nephrin có vai trò rất quan trọng đảm bảo cấu trúc và chức năng
của cầu thận. 94 % bệnh nhân HCTHBS typ Phần Lan có thể phát hiện thấy các đột biến trên gen
NPHS1, trong đó trên 90% các trường hợp là đột biến thể FinMajor và thể FinMinor. Ca bệnh: Gồm
3 bệnh nhân, mắc HCTHBS điều trị tại Khoa Thận và Lọc máu, bệnh viện Nhi Trung ương năm
2015. Giải trình tự toàn bộ gen NPHS1 từ bệnh nhân đã phát hiện thấy ngoài tính đa hình di
truyền trên gen này còn có cả những đột biến dẫn đến sự thay đổi trên amino acid của phân tử
protein. Bệnh nhân thứ nhất chúng tôi phát hiện thấy tại vị trí p.E117K (exon 3) là một đa hình
di truyền, p.D310N (exon 8) và đột biến lệch khung p.V1084GfsX12 (exon 24) là hai đột biến đã
được thông báo, tất cả đều ở dạng dị hợp tử. Bệnh nhân thứ hai phát hiện thấy có 1 điểm đột
biến dị hợp tại p.E117K, T>G vị trí 970 trên cDNA (exon 8). Bệnh nhân thứ 3 thấy 2 đột biến dị hợp
A>T tại vị trí 2374 trên cDNA (exon 18) dẫn đến sự tạo thành đột biến vô nghĩa p.K792X và đột
biến dị hợp G>T tại vị trí 2405 trên cDNA (exon 18) dẫn đến sự thay đổi p.R802L.
Kết luận: Lần đầu tiên giải trình tự gen NPHS1 trên bệnh nhân mắc HCTHBS tất cả đều xuất
hiện sự thay đổi di truyền trên gen NPHS1 trong đó có cả đột biến gen và đa hình di truyền.
Từ khóa: Hội chứng thận hư bẩm sinh (HCTHBS), đột biến gen NPHS1.
ABSTRACT
POLYMORPHISMS IN NPHS1 GENE IN PATIENTS WITH CONGENITAL NEPHROTIC SYNDROME:
CLINICAL CASES REPORT
Introduction: Congenital nephrotic syndrome (CNS) is a rare disease, not responds to standard
steroid treatment, and is onset within 3 months after birth. The disease develops rapidly to kidney
failure and renal End Stage Renal Disease after one or two years. NPHS1 gene located in the long arm
of chromosome 19, consist of 29 exons encoding for nephrin - a transmembrane protein. This protein
has an important role in structure and function of kidneys. The mutation rates in NPHS1 come to 94%
in CNS patients of Finnish origin. Among of mutations, two common mutations (FinMajor and FinMinor)
acccount for 90% cases. Cases presentation: In Vietnam, this is the first study to mutational analysis of
NPHS1 in children with CNS from three Vietnamese families. All 29 exons and exon–intron boundaries
of NPHS1 were analyzed using PCR and DNA sequencing. Genetic analysis of the NPHS1 gene revealed
compound of one heterozygous variant p.E117K, one heterozygous missense mutation p.D310N
and one heterozygous frame-shifting mutation (c.3250_3251insG causing p.V1084GfsX12) in the
first patient. In the second patient, we also detected 2 heterozygous mutaions, one heterozygous at
c.2374A>T of cDNA and one heterozygous at c.2405G>T in c.DNA in exon 18 of NPHS1 gene. We also
identitified one heterozygous variant p.E117 at c.970C>G of cDNA in exon 8 in the third patient.
Key words: Congenital nephrotic syndrome, mutations in NPHS1 gene.
51
phần nghiên cứu
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng thận hư bẩm sinh (HCTHBS) là bệnh
di truyền hiếm gặp, khởi phát trước 3 tháng tuổi.
Theo Niaudet.P [1], bệnh được mô tả lần đầu
vào năm 1956 bởi tác giả Hallman với tần Suất
1,2/10.000 trẻ đẻ ra sống tại Phần Lan.
Gen NPHS1 có 29 exon nằm ở vùng 1 từ băng
2 đến băng 3 trên cánh dài nhiễm sắc thể 19. Sản
phẩm sinh học của gen là một protein có cấu trúc
phức tạp có tên là nephrin. Đây là một protein
xuyên màng tham gia vào cấu trúc và chức năng
lọc của cầu thận. Khi đột biến gen NPHS1 gây ra
sự thiếu hụt hoặc không có các phân tử protein
nephrin và gây nên bệnh cảnh trên lâm sàng của
hội chứng thận hư rất sớm (trước 3 tháng tuổi).
Theo Niaudet.P [1], tỷ lệ đột biến gen NPHS1 có
thể đến 94% bệnh nhân mắc HCTHBS nên phân
tích đột biến gen NPHS1 đã trở thành lựa chọn đầu
tiên để xác định chẩn đoán bệnh. Ảnh hưởng của
đột biến gen NPHS1 trên HCTHBS đã được khẳng
định trên nhiều nghiên cứu khác nhau nên phân
tích đột biến gen NPHS1 được coi như tiêu chuẩn
vàng để chẩn đoán xác định bệnh. Trên cùng một
chủng tộc người, vị trí và kiểu đột biến gen NPHS1
cũng rất khác nhau. Tại Việt Nam, hiện chưa có báo
cáo nào về HCTHBS cũng như phân tích các đột
biến của gen NPHS1 được thực hiện. Nghiên cứu
được tiến hành trên 3 ca lâm sàng HCTHBS và giải
trình tự gen NPHS1 phát hiện các đột biến.
2. CA LÂM SÀNG VÀ PHÂN TÍCH GEN NPHS1
2.1. Bệnh nhân thứ nhất
Bệnh nhân nam 40 ngày tuổi vào viện ngày
thứ 7 của bệnh, với lý do vào viện nặng mặt và
chân tay. Bệnh diễn biến 1 tuần với các triệu
chứng nặng mặt 2 chân, chưa điều trị gì vào viện.
Tiền sử: bệnh nhân là con thứ 3 đẻ thường, đủ
tháng 39 tuần tuổi, cân nặng lúc đẻ 2,8 kg, dài
48cm, khóc ngay, không có biến dạng các khớp,
trong quá trình mang thai mẹ không mắc bệnh
gì đặc biệt, khám quản lý thai nghén đầy đủ. Khi
mang thai siêu âm cũng mô tả tình trạng rau bám
rộng nhưng không đánh giá trọng lượng của rau
thai so với thai, khi đẻ cũng không rõ trọng lượng
của rau. Trẻ có 1 anh trai mắc HCTHBS và chết lúc
6 tháng tuổi, chị gái 3 tuổi bình thường.
Khám lâm sàng lúc vào viện: Bệnh nhân
phù toàn thân, hình thể bên ngoài không thấy
gì bất thường, nặng 4 kg cao 57cm, huyết áp
80/60mmHg mạch 120 lần/phút. Xét nghiệm khi
nhập viện: ure: 2,82mmol/l; creatinin: 22 µmol/l;
protein: 27,2 g/l; albulmin: 8,84 g/l; Cholesterol:
10,9mmol/l; protein/creatinin niệu: 7696 mg/mmol.
Điện gải đồ: Na: 128 mmol/l; K: 3,3 mmo/l; Cl: 101
mmol/l. Các xét nghiệm về TORCH: âm tính. Chưa
sinh thiết thận.
Hiện tại bệnh nhân 14 tháng, phải nhập viện
rất nhiều lần trong năm vì giảm albumin máu
nặng, protein niệu cao, chưa bao giờ về âm tính
và thường hay bị viêm phổi. Xét nghiệm sàng lọc
bố mẹ không có bất thường gì trong nước tiểu,
kết quả sinh hóa máu các chỉ số trong giới hạn
bình thường.
Kết quả phân tích gen NPHS1: Toàn bộ 29
exon và các phần ranh giới intron – exon trên gen
NPHS1 được khuếch đại bằng phản ứng PCR với
các cặp mồi đặc hiệu được tổng hợp theo báo cáo
của Lenkkeri và cộng sự (1999) [2]. Giải trình tự
các đoạn được khuếch đại trên gen NPHS1 bằng
phương pháp giải trình tự trực tiếp từ sản phẩm
PCR trên máy giải trình tự tự động ABI 3100 Bio
System (Mỹ). Phân tích kết quả giải trình tự và
so sánh với trình tự gen NPHS1 đã được công bố
trên Ensemble với mã số ENST00000378910 bằng
phần mềm BioEdit để tìm đột biến.
Phân tích di truyền các biến đổi trên gen
NPHS1 cho thấy bệnh nhân mang đồng thời
mang ba điểm thay đổi nucleotide dẫn đến sự
thay đổi amino acid tại các vị trí p.E117K (exon 3),
p.D310N (exon 8) và p.V1084GfsX12 (exon 24), tất
cả đều ở dạng dị hợp tử. Sự thay đổi amino acid ở
vị trí p.E117K nằm trên Ig1 là một điểm đa hình di
truyền đã được Lenkkeri và đồng tác giả công bố
năm 1999, các tác giả đã đề nghị chấp nhận đây
là một điểm đa hình.
2.2. Bệnh nhân thứ hai
Bệnh nhân nam 6 tháng tuổi vào viện vì ho
khò khè và ỉa chảy. Bệnh nhân xuất hiện nặng
mặt chân tay từ sau sinh, nhưng gia đình không
biết tưởng là trẻ bụ bẫm vì vẫn ăn ngủ bình
thường, khi trẻ được 6 tháng trẻ ho khò khè
nhiều kèm theo có nôn ỉa chảy được đưa đi khám
tại bệnh viện tuyến tỉnh được chẩn đoán là viêm
phổi nặng và tiêu chảy có mất nước nặng (bệnh
nhân nôn nhiều, li bì, không uống được và ỉa
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 6
52
chảy >10lần/ngày) kèm theo suy thận nặng. Bệnh
nặng nên được chuyển thẳng lên Bệnh viện Nhi
Trung ương. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương bệnh
nhân được khám và điều trị bệnh về hô hấp và
tiêu hóa, bù nước điện giải đầy đủ, tiêu chảy đỡ
nhưng xét nghiệm sinh hóa huyết học máu thấy
có suy thận nặng mức lọc cầu thận < 20 nhưng
gia đình bệnh nhân không muốn lọc máu hoặc
lọc màng bụng, protein máu, albumin máu giảm
nặng sau đó đã chẩn đoán xác định hội chứng
thận hư bẩm sinh. Tuy nhiên bệnh nhân bị nhiễm
trùng hô hấp kéo dài và suy thận tiến triển ngày
càng nặng gia đình bệnh nhân xin về nhà và bệnh
nhân tử vong sau đó 05 ngày.
Tiền sử: Bệnh nhân là con thứ 3 đẻ thường,
đủ tháng cân nặng lúc đẻ 3,2 kg, mẹ không mắc
bệnh gì trong lúc mang thai. Trong thời kỳ mang
thai cũng được khám quản lý thai nghén 3 lần,
nhưng không thấy mô tả tình trạng bám của rau
thai. Khi đẻ cũng không rõ trọng lượng của rau
thai. Đặc biệt, bệnh nhân cũng có 01 anh mắc
HCTHBS và chết vì suy thận khi được 10 tháng, có
01 chị gái 6 tuổi hiện tại phát triển bình thường
đang học lớp 1. Gia đình bên nội ngoại không
có ai mắc bệnh thận. Khám sàng lọc lâm sàng và
xét nghiệm nước tiểu của bố mẹ và chị gái không
thấy biểu hiện bệnh thận.
Khám lâm sàng khi vào viện: Phù to toàn thân,
nặng 10 kg, cao 65cm, mạch 172 lần/phút, huyết
áp 105/76 mmHg. Tràn dịch đa màng: màng
bụng, màng phổi, màng tinh hoàn, và viêm phổi
nặng. Kết quả xét nghiệm cho thấy: albumin máu:
9,5gam/lít, protein máu 28gam/lít, protein/creatinin
niệu: 11262 mg/mmol (22,3g/1,98mmol). Chức
năng thận giảm nặng: ure: 9,2 mmol/lít; creatinin:
468 mmol/lít. Cholesterol: 12,1 mmol/lít. Điện gải
đồ: Na: 127; K: 1,78; Cl: 106, công thức máu: hồng
cầu 3.9T/L, huyết sắc tố 109g/l, bạch cầu 12 G/L,
tiểu cầu 256G/L. Các xét nghiệm về TORCH âm tính.
Kết quả phân tích gen NPHS1 thấy các đột
biến: dị hợp A>T tại vị trí 2374 trên cDNA (exon
18) dẫn đến sự tạo thành đột biến sai nghĩa
p.K792X, đột biến dị hợp G>T tại vị trí 2405 trên
cDNA (exon 18) dẫn đến sự thay đổi p.R802L trên
protein.
2.3. Bệnh nhân thứ ba
Bệnh nhân nam 2 tháng tuổi vào viện vì nặng
mặt và 2 chân. Bệnh diễn biến khoảng 1 tuần mẹ
bệnh nhân thấy nặng mặt, hai chân tiểu ít đi thì
đưa đi khám thấy giảm nặng albumin, protein
máu và chẩn đoán HCTHBS và phải truyền albumin
máu nhiều lần. Hiện tại trẻ 16 tháng, ít khi phải
vào viện, protein niệu trở về âm tính và các chỉ số
sinh hóa máu ổn định, ít khi nhiễm trùng.
Tiền sử: con thứ nhất đẻ thường, cân nặng lúc
đẻ 2,8kg, không rõ tình trạng rau thai. Thời kỳ
mang thai mẹ không mắc bệnh gì đặc biệt, gia
đình không có ai mắc bệnh về thận.
Khám lâm sàng lúc vào viện có phù toàn thân,
nặng 4,5kg, cao 55cm, mạch 110 lần/phút, huyết
áp 80/50mmHg. Kết quả xét nghiệm lần đầu
nhập viện: ure: 3,9mmol/l; creatinin: 44 µmol/l;
protein 35,3 gam/lít; albumin: 10,7 gam/lít; protein/
creatinin niệu: 12070 mg/mmol (11,6g/0,961mmol).
Cholesterol: 7,91 mmol/lít; điện giải đồ: Na: 130;
K: 3,41; Cl: 99. Các xét nghiệm về TORCH âm tính.
Kết quả phân tích gen NPHS1 thấy các đột
biến có đột biến: dị hợp T > G tại vị trí 970 trên
cDNA (exon 8) dẫn đến sự thay đổi p.S324A trên
protein.
3. BÀN LUẬN
Theo Niaudet.P [1], HCTHBS là bệnh di truyền
hiếm gặp, ảnh hưởng của bệnh lên thai gây sinh
non và cân nặng thấp, bệnh nhân thường chết
trước 2 tuổi nếu không được ghép thận. Kiểu
hình của trẻ mắc HCTHBS typ Phần Lan điển hình
là trong thời kỳ mang thai có tình trạng rau bám
rộng, trọng lượng bánh rau lớn trên 25% trọng
lượng thai, xét nghiệm sàng lọc trước sinh thường
có AFP (Alpha feto protein) trong nước ối tăng cao,
khi trẻ sinh ra thường có mũi nhỏ, tai thấp, khớp
háng, khớp gối, khớp khuỷu thường biến dạng
(hậu của của bánh rau lớn, bám rộng). Trên cả 3
bệnh nhân chúng tôi nghiên cứu không thấy tiền
sử đẻ non và trọng lượng khi sinh là trên 2,5kg.
Diện bám của rau cũng có mô tả khi siêu âm lúc
mang thai bám rộng, nhưng trọng lượng bánh rau
không được mô tả và kiểu hình của trẻ không có
gì bất thường. Các báo cáo ca lâm sàng HCTHBS
tại Trung Quốc và Hàn Quốc cũng không thấy mô
tả các bất thường này. Tại Việt Nam đây là lần đầu
tiên báo cáo và là bệnh hiếm gặp do vậy chưa được
quan tâm nhiều, xét nghiệm nồng độ AFP cũng
chưa được thực hiện. Đặc biệt cả 3 bệnh nhân đều
53
phần nghiên cứu
là nam, 2 trong số 3 bệnh nhân đều có anh chị em
ruột mắc HCTHBS trước đó và đều đã chết vì suy
thận giai đoạn cuối khi chưa được 1 tuổi, có 1 bệnh
nhân tiến tiển đến bệnh thận giai đoạn cuối và đã
tử vong sau khi về nhà chỉ được 5 ngày.
Gen NPHS1 là một gen lớn gồm 29 exon vùng
mã hóa có kích thước 26kb, gen mã hóa cho phân
tử protein nephrin có 1241 amino acid thuộc
nhóm protein xuyên màng họ Ig. Nephrin có
vai trò quan trọng trong việc tham gia cấu trúc
màng tế bào podocyte và tham gia vào các chức
năng hoạt động của cầu thận thông qua phần
hoạt động ở trong và ngoài màng để gắn kết với
các protein khác và giữa các phân tử nephrin với
nhau. Năm 1999, Ulla Lenkkeri và cộng sự [2] lần
đầu giải trình tự gen NHPS1 tìm ra hai đột biến
hay gặp FinMajor do mất 2 cặp base nitơ ở vị trí
exon thứ 2 gây đột biến lệch khung và đột biến
sai nghĩa ở exon 26 gây thể FinMinor. Hai thể đột
biến này chiếm trên 90% các trường hợp HCTHBS
týp Phần Lan cũng như hay gặp trên quần thể
người châu Âu. Sau đó phát hiện thêm nhiều đột
biến khác nhau và đã được khẳng định trên các
báo cáo trên bệnh nhân mắc HCTHBS không phải
týp Phần Lan với tỷ lệ thấp hơn, tỷ lệ phát hiện
đột biến dao động 39-80%.
Ảnh hưởng của đột biến gen NPHS1 trên chức
năng cầu thận đã được khẳng định trên nhiều
báo cáo trên thế giới và có trên 173 vị trí đột biến
khác nhau của gen NPHS1 được tìm thấy. Các
dạng đột biến cũng rất đa dạng bao gồm đột
biến mất đoạn, thay thế, thêm, lệch khung sai
nghĩa và vô nghĩa, tỷ lệ tìm ra đột biến khá cao.
Tại Trung Quốc từ năm 2005 đến 2015 đã
thông 10 biến thể đột biến và 5 biến thể đa
hình di truyền trên gen NPHS1 ở bệnh nhân mắc
HCTHBS [13,[4],[5]. Các đột biến gen NPHS1 tại
Trung Quốc bao gồm Shi và cộng sự (2005) [3]
công bố một đột biến mất đoạn gồm 8 nucleotid
(c.1983-1900del8) trên exon 8, Fu và cộng sự
(2012) [4] phát hiện thấy 2 đột biến thay G>A tại
exon 8 và đột biến lệch khung tại intron11 và 5
biến thể đa hình di truyền, Yu và cộng sự (2015)
[5] phát hiện thêm đột biến thêm G tại exon 24.
Tại Hàn Quốc, Lee và cộng sự (2008) [6] công
bố hai đột biến là mất đoạn gồm 8 cặp base nitơ
trên exon 16, thêm G trên exon 24 và đột biến sai
nghĩa tại exon 18 trên 2 bệnh nhân mắc HCTHBS.
Nhật Bản tác giả Aya K và cộng sự (2009)
[7] cũng báo cáo trên tất cả 5 bệnh nhân mắc
HCTHBS đều thấy đột biến gen NPHS1. 9 đột biến
phát hiện thấy gồm 6 đột biến thay thế 1 cặp base
nitơ, 3 đột biến mất đoạn tại exon 4,7,9,14,18,1,
các đột biến này đều ở dạng dị hợp tử.
Kết quả phân tích gen NHPS1 trên bệnh nhân
của chúng tôi cho thấy đột biến p.D310N trên
Ig3, vị trí đột biến này cũng đã được Shi và cộng
sự công bố năm 2005, Fu và cộng sự công bố năm
2015 tại Trung Quốc. Do đột biến thay thế aspartic
acid bằng asparagine glutaminea ở vị trí 310
trên Ig3 đã dẫn đến sự gấp lỗi và khiếm khuyết
trong vận chuyển nội bào và đột biến này được
chấp nhận như một đột biến bệnh lý (Shi et al.,
2005) [3]. Đột biến thêm một base nitơ G vào vị
trí 3250 - 3251 trên cDNA dẫn đến sự lệch khung
đọc và đột biến p.V1084fsX1095 exon 24 (hình 3)
trên NPHS1, đây cũng là một đột biến bệnh lý đã
được Lenkkeri công bố năm 1999 [2], Lee năm
2009 [6] và Santin và cộng sự năm 2009 [8], đột
biến lệch khung và đột biến sai nghĩa dẫn đến
sự ngừng tổng hợp protein tạo nên những protein
không đầy đủ được xếp vào nhóm các đột biến
bệnh lý nặng nhất. Một bệnh nhân người Trung
Quốc mang đồng thời đột biến đồng hợp tử tại
vị trí này cùng biến đổi dị hợp tử p.E117K và
c.3315G>A, trên bệnh nhân của chúng tôi cũng
mang đột biến này (hình 1) và có kiểu hình bệnh
rất nặng (Yu et al., 2012)[4].
Như vậy khi bệnh nhân mắc HCTHBS, mức độ
nặng của bệnh sẽ phụ thuộc vào loại đột biến, vị
trí đột biến. Nếu đột biến lớn (lệch khung, mất
đoạn, sai nghĩa) thường gây nên bệnh cảnh lâm
sàng nặng nề, nếu bệnh nhân mang 1 đột biến,
đột biến ít quan trọng (thay thế 1 cặp nucleotide)
thì sẽ tiên lượng tốt hơn (bệnh nhân thứ 3). Điều
này cũng phù hợp cho trường hợp bệnh nhân
trong nghiên cứu của chúng tôi có kiểu hình
bệnh rất nặng trong khi bố và mẹ của bệnh nhân
có kiểu hình bình. Sự biểu hiện bệnh rất nặng ở
bệnh nhân có thể là do bệnh nhân mang đồng
thời ba đột biến dị hợp tử này dẫn đến sự ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cấu trúc và chức năng
của protein.
tạp chí nhi khoa 2016, 9, 6
54
Hình 3. Đột biến dị hợp tử p. V1084fsX1095 trên gen NPHS1 ở bệnh nhân
4. KẾT LUẬN
Qua 3 bệnh nhân bị HCTHBS, chúng tôi nhận
thấy hai bệnh nhân mang các đột biến trên gen
NPHS1 tại vị trí p.E117K (exon 3), p.D310N (exon
8) và p.V1084GfsX12 (exon 24), dị hợp A>T tại
vị trí 2374 trên cDNA (exon 18) dẫn đến sự tạo
thành đột biến sai nghĩa p.K792X, đột biến dị
hợp G>T tại vị trí 2405 trên cDNA (exon 18) dẫn
đến sự thay đổi p.R802L trên protein gay ra các
biểu hiện lâm sàng nặng nề nhất, đã có 1 bệnh
nhân tử vong, tất cả các đột biến này đều ở dạng
dị hợp tử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Patrick Niaudet. (2004). Congenital nephrotic
syndrome, Finnish type. Orphanet encyclopedia,
1-4.
2. Ulla Lenkkeri, et al. (1999). Structure of the
Gene for Congenital Nephrotic Syndrome of the
Finnish Type (NPHS1) and Characterization of
Mutations. Am. J. Hum. Genet, 64:51-61.
3. Shi Y, et al. (2005). NPHS1 mutations in a
Chinese family with congenital nephrotic syndrome.
Zhonghua Er Ke Za Zhi 43: 805-809.
4. L.Q. Yu, et al. (2012). Two novel NPHS1
mutations in a Chinese family with congenital
nephrotic syndrome. Genet. Mol. Res, 10 (4):
2517-2522.
5. R. Fu, et al. (2015). Novel NPHS1 splice site
mutations in a Chinese child with congenital
nephrotic syndrome. Genet. Mol. Res, 14 (1): 433-
439.
6. Beom Hee Lee, et al. (2009). Two Korean
Infants with Genetically Confirmed Congenital
Nephrotic Syndrome of Finnish Type. J Korean
Med Sci, 24 ( 1): 210-214.
7. Aya K, Tanaka H and Seino Y. (2000). Novel
mutation in the nephrin gene of a Japanese patient
with congenital nephrotic syndrome of the Finnish
type. Kidney Int, 57: 401-404.
8. Santin S, et al. (2009). Nephrin mutations
cause childhood- and adult-onset focal segmental
glomerulosclerosis. Kidney Int 76: 1268-1276.
Hình 1. Sự biến đổi dị hợp tử p.E117K trên gen
NPHS1 ở bệnh nhân
Hình 2. Đột biến dị hợp tử p.D310N trên gen
NPHS1 ở bệnh nhân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_da_hinh_di_truyen_gen_nphs1_o_tre_mac_hoi_chung_than_hu.pdf