Tình hình chuyển công tác của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng tại Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009

Từ những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, một số chính sách đối với lĩnh vực dự phòng cần được chú ý điều chỉnh: Một là, xem xét xây dựng chế độ lương, phụ cấp ưu đãi đối với CBYT lĩnh vực dự phòng và tuyến y tế cơ sở, đặc biệt là đối với nhóm có trình độ chuyên môn cao như bác sĩ, dược sĩ đại học ở các vùng khó khăn nhằm giảm sự chênh lệch trong thu nhập so với các khu vực đô thị, tuyến trên và giữa y tế công - tư để thu hút, giữ chân CBYT có trình độ cao công tác ổn định trong lĩnh vực dự phòng, đặc biệt là tại tuyến y tế cơ sở. Hai là, có chính sách ưu tiên trong đào tạo và chuyên ngành đào tạo phù hợp đối với CBYT lĩnh vực dự phòng, đặc biệt là trong việc lựa chọn đối tượng đào tạo và hình thức đào tạo phù hợp (người tại chỗ và đào tạo tại chỗ) nhằm tăng tính ổn định công tác lâu dài tại địa phương; đồng thời có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn về thời gian đóng góp sau đào tạo của CBYT được cử đi đào tạo đại học và sau đại học. V. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu từ số liệu của 39 tỉnh/ thành phố cho thấy, tình hình chuyển công tác của CBYT lĩnh vực dự phòng các tuyến xã/phường, huyện/quận, tỉnh/thành phố trong giai đoạn 2005 – 2009 rất đáng báo động, với 2310 trường hợp chuyển công tác, tăng nhanh qua các năm, trong đó hơn 1/4 bỏ việc. Tỷ lệ CBYT lĩnh vực dự phòng tuyến tỉnh và tuyến xã bỏ việc cao hơn tuyến huyện (28,6% và 28,7% so với 21,3%) và chỉ một phần số này chuyển ra khu vực tư nhân, còn lại chuyển tới các cơ sở y tế công lập tuyến trên. Xu hướng chính trong lựa chọn nơi chuyển đến của CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác là chuyển lên tuyến trên, về các đô thị trung tâm và chuyển sang lĩnh vực điều trị. Sự không yên tâm công tác do sự biến động liên tục trong mô hình tổ chức bộ máy cơ sở y tế tuyến huyện và chính sách BHXH mới trong giai đoạn này và sự mong đợi có thêm thu nhập, cơ hội tốt hơn cho sự nghiệp của bản thân và việc sinh hoạt, học tập của gia đình là nguyên nhân quan trọng khiến các CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình chuyển công tác của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng tại Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 TÌNH HÌNH CHUYỂN CÔNG TÁC CỦA CÁN BỘ Y TẾ LĨNH VỰC DỰ PHÒNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 - 2009 Vũ Văn Hoàn1*, Vũ Thị Minh Hạnh1, Lê Lan Hương2 1Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Hà Nội 2Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Y tế, Hà Nội TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng tình hình chuyển công tác của cán bộ y tế (CBYT) lĩnh vực dự phòng trong giai đoạn 2005 - 2009 tại các tỉnh/ thành phố trên toàn quốc. Nghiên cứu điều tra cắt ngang vào thời điểm tháng 9 năm 2009, kết hợp phương pháp định tính và định lượng. Kết quả cho thấy, có 2310 CBYT dự phòng chuyển công tác trong giai đoạn 2005 – 2009, trong đó hơn 1/4 bỏ việc và tăng nhanh qua các năm. Xu hướng chính trong lựa chọn nơi chuyển đến của CBYT dự phòng chuyển công tác là chuyển lên tuyến trên, về các đô thị trung tâm và chuyển sang lĩnh vực điều trị. Trong đó, nhóm CBYT có trình độ cao chủ yếu chuyển sang lĩnh vực điều trị, quản lý nhà nước và một tỷ lệ đáng kể chuyển sang bảo hiểm xã hội. Sự không yên tâm công tác do sự biến động liên tục trong mô hình tổ chức cơ sở y tế tuyến huyện và chính sách bảo hiểm xã hội mới trong giai đoạn này và sự mong đợi có thêm thu nhập, có cơ hội tốt hơn cho sự nghiệp của bản thân và việc sinh hoạt, học tập của gia đình là nguyên nhân quan trọng khiến các CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác. Từ khóa: Cán bộ y tế; chuyển công tác; lĩnh vực dự phòng *Tác giả: Vũ Văn Hoàn Địa chỉ: Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Hà Nội Điện thoại: 0949 688 455 Email: vuvanhoan2012@gmail.com Ngày nhận bài: 22/05/2020 Ngày phản biện: 29/05/2020 Ngày đăng bài: 25/06/2020 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Vai trò quan trọng của chăm sóc sức khỏe (CSSK) ban đầu trong giải quyết các vấn đề về CSSK khu vực nông thôn, vùng khó khăn đã được đề cập tại Hội nghị Alma-Ata năm 1978 [1]. Cách tiếp cận này đã được đánh giá góp phần quan trọng đối với những thành tựu vượt bậc trong CSSK của các quốc gia đang phát triển những thập niên vừa qua. Năm 2018 Hội nghị toàn cầu về chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) hướng đến mục tiêu bao phủ CSSK toàn dân và mục tiêu Phát triển bền vững liên quan đến sức khỏe tại thành phố Astana, Kazakhstan đã khẳng định lại và khẳng định các quốc gia cần tiếp tục quan tâm phát triển chăm sóc sức khỏe ban đầu như là chìa khóa để đạt mục tiêu sức khỏe cho mọi người ở thế kỷ 21 và mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) [2 - 4]. Tại Việt Nam, các cơ sở y tế dự phòng có vai trò chủ yếu trong đảm đương phần lớn các nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Đây là các cơ sở y tế thực hiện các chức năng nhiệm vụ về phòng, chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm, đặc biệt là các bệnh mới nổi và tái nổi, HIV/AIDS, suy dinh dưỡng ở trẻ em; phòng, chống tai nạn thương tích, bệnh nghề nghiệp. Chủ động phòng, chống các bệnh không lây nhiễm, các bệnh do lối sống có hại cho sức khoẻ [5]. Trong những năm qua, lĩnh vực dự phòng đã đạt được những thành tựu lớn trong triển khai các nhiệm vụ phòng, chống bệnh tật. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU - ORIGINAL PAPERS 10 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, đã đánh giá “Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm, không để xảy ra dịch lớn. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ như môi trường, thực phẩm, rèn luyện thân thể, đời sống tinh thần được quan tâm hơn. Năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tiếp cận được hầu hết các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Lĩnh vực dược, thiết bị y tế có bước tiến bộ. Mô hình kết hợp quân - dân y được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” [6]. Tuy nhiên, công tác dự phòng được đánh giá đang đối mặt với những khó khăn thách thức lớn trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, sự chi phối của cơ chế thị trường, sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các cơ sở y tế công lập với tư nhân, của lĩnh vực điều trị với các lĩnh vực khác, Hệ thống tổ chức y tế còn thiếu ổn định, hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là y tế dự phòng, y tế cơ sở và chăm sóc sức khoẻ ban đầu [6]. Trong nhận thức và hành động của hệ thống chính trị, “chưa thực sự coi y tế cơ sở, y tế dự phòng là gốc, là căn bản” [7]. Trong các khó khăn đó, hiện tượng chuyển công tác của cán bộ y tế (CBYT) lĩnh vực dự phòng tuyến tỉnh, huyện và xã từ các tuyến dưới lên tuyến trên, từ các vùng khó khăn ra vùng kinh tế - xã hội phát triển, từ công sang tư đã được ghi nhận tại các địa phương trên cả nước. Các tỉnh miền núi, vùng kém phát triển, các lĩnh vực dự phòng và điều trị các bệnh dịch nguy hiểm đều khó thu hút cán bộ y tế về công tác. Xu hướng này sẽ dẫn đến nguy cơ thiếu CBYT lĩnh vực dự phòng công tác tại các vùng nông thôn, vùng khó khăn, ảnh hưởng xấu tới việc duy trì và phát triển các dịch vụ y tế có chất lượng, dễ tiếp cận cho hơn 70% dân số Việt Nam. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả thực trạng tình hình chuyển công tác của cán bộ y tế (CBYT) lĩnh vực dự phòng trong giai đoạn 2005 - 2009 tại các tỉnh/ thành phố trên toàn quốc. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng nghiên cứu Bao gồm các nhóm đối tượng: 1) Các CBYT lĩnh vực dự phòng đã chuyển công tác đến các cơ quan/cơ sở y tế tuyến tỉnh và tuyến huyện trong giai đoạn từ 1/1/2005 đến 1/9/2009; 2) Lãnh đạo các Sở y tế, Phòng y tế huyện; 3) Lãnh đạo các cơ Sở y tế, các Phòng chức năng, công đoàn cơ sở và CBYT tại các cơ sở y tế các tuyến. 2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: Từ 1/1/2005 tới 1/9/2009. Địa điểm nghiên cứu: Việc thu thập thông tin về tình hình dịch chuyển CBYT lĩnh vực dự phòng được triển khai trên tất cả các cơ sở y tế công lập các tuyến tại 63 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương trên toàn quốc. Các thông tin nghiên cứu định tính được triển khai tại 5 tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Kiên Giang. 2.3 Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, kết hợp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính; hoạt động thu thập số liệu được triển khai trong giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12/2009. 2.4 Phương pháp thu thập số liệu Các biểu mẫu thống kê được xây dựng sẵn nhằm thu thập thông tin về biến động nhân lực y tế từ năm 2005 đến năm 2009 của các đơn vị y tế công tại 63 tỉnh/thành. Các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm được thực hiện tại các cơ quan, cơ sở y tế của 5 tỉnh/thành phố nghiên cứu. Các nhóm biến số chính bao gồm: Thông tin về nhân khẩu học; thời gian và hình thức chuyển công tác; trình độ chuyên môn và chức vụ của CBYT tại đơn vị công tác cũ và đơn vị nơi chuyển đến; tuyến và lĩnh vực của đơn vị 11Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 công tác cũ và nơi chuyển đến; nguyên nhân và các yếu tố tác động tới quyết định dịch chuyển công tác của CBYT. 2.5 Phương pháp phân tích số liệu Các thông tin thống kê về các trường hợp CBYT chuyển khỏi đơn vị được mã hóa dưới dạng số trong phần mềm Excel và được phân tích bằng phần mềm SPSS 18.0. Các thông tin định tính được hệ thống các ý kiến chủ đạo của từng vấn đề, phân tích và trích dẫn theo các mục tiêu nghiên cứu. 2.6 Đạo đức nghiên cứu Thông tin về nghiên cứu được cung cấp và giải thích rõ cho các cơ sở y tế. Các thông tin của các CBYT dịch chuyển được đảm bảo tính vô danh, được mã hóa hoàn toàn trong quá trình phân tích, trích dẫn và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ 3.1 Số lượng chuyển đi và hình thức chuyển công tác Số lượng chuyển đi: Đã có 39 tỉnh/TP hoàn thành công tác thống kê và có báo cáo số liệu. Kết quả nghiên cứu từ các tỉnh/TP cho thấy trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2009 có 2.310 CBYT từ các cơ sở thuộc lĩnh vực dự phòng công lập đã chuyển công tác đi nơi khác qua 2 hình thức: Chuyển biên chế và bỏ việc. Trong đó, có 1.725 trường hợp (chiếm 74,7%) chuyển biên chế và 585 trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc (bỏ việc). Trong giai đoạn 2005 – 2009, tỷ lệ CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển đi các tuyến, lĩnh vực đều tăng qua các năm ở cả 2 hình thức chuyển công tác. Trong đó, nhóm chuyển biên chế tăng nhanh vào năm 2009, nhóm bỏ việc tăng nhanh từ năm 2008 và giảm nhẹ vào năm 2009 (Hình 1). Về tuyến công tác trước khi chuyển: Trong số 2310 CBYT lĩnh vực dự phòng đã chuyển công tác đi nơi khác, xác định được tuyến công tác trước khi chuyển đi của 2309 trường hợp, trong đó, số CBYT ở tuyến tỉnh 770 người, ở tuyến huyện 1002 người và ở tuyến xã là 537 người. Hình 1. Tình hình chuyển công tác của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng qua các năm (n=2.310) 12 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 Bảng 1. Tuyến chuyển đến của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng chuyển công tác (n=1861) Tuyến chuyển đến Tình hình chuyển biên chế của các tuyến Tình hình bỏ việc của các tuyến Tuyến tỉnh Tuyến huyện Tuyến xã Tuyến tỉnh Tuyến huyện Tuyến xã n % n % n % n % n % n % Tuyến trung ương, y tế ngành 33 6,1 30 3,9 3 0,8 6 17,2 9 13,0 9 16,7 Tuyến tỉnh 428 79,1 364 46,6 120 31,5 8 22,9 20 29,0 15 27,8 Tuyến huyện 76 14,0 383 49,0 227 59,6 6 17,1 15 21,7 17 31,5 Tuyến xã 4 0,7 4 0,5 29 7,6 0 0,0 0 0,0 3 1,9 Ra khỏi khu vực công lập 15 42,9 25 36,2 10 18,5 Tổng cộng 541 100 781 100 381 100 35 100 69 100 54 100 Hình 2 cho thấy, tỷ lệ CBYT lĩnh vực dự phòng bỏ việc tại tuyến tỉnh là 28,6%, tại tuyến huyện là 21,1% và tại tuyến xã là 28,7%. Thông tin từ nghiên cứu định tính cho thấy, việc xin chuyển công tác của CBYT tuyến dưới lên các tuyến trên là rất khó khăn do Quyết định số 58/ TTg ngày 03/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ, CBYT tuyến xã chưa được công nhận là viên chức [8]. Mô hình quản lý y tế tuyến cơ sở trong giai đoạn này thay đổi liên tục nên khiến CBYT tuyến huyện, xã không an tâm công tác. Năm 2006 Luật Bảo hiểm xã hội được ban hành và có hiệu lực vào năm 2007 [9], đã cho phép người lao động được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi bỏ việc nên đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho CBYT bỏ việc. 3.2 Thông tin về nơi chuyển đến Tuyến chuyển đến: Thông tin từ bảng 1 cho thấy, trong số CBYT xác định được tuyến công tác cũ và nơi chuyển đến, các CBYT lĩnh vực dự phòng chủ yếu chuyển lên 1 tuyến. Các CBYT dự phòng tuyến tỉnh và tuyến huyện có một tỷ lệ đáng kể chuyển ngang tuyến. Tỷ lệ CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển lên tuyến Trung ương cao nhất ở tuyến tỉnh (6,6%), tiếp đến là tuyến huyện Hình 2. Tuyến công tác trước khi chuyển của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng phân theo hình thức chuyển công tác (n=2309) 13Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 Bảng 2. Lĩnh vực chuyển đến của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng chuyển công tác, bỏ việc (n=1866) Lĩnh vực chuyển đến Tình hình chuyển biên chế của các tuyến Tình hình bỏ việc của các tuyến Tuyến tỉnh Tuyến huyện Tuyến xã Tuyến tỉnh Tuyến huyện Tuyến xã n % n % n % n % n % n % Điều trị 139 25,5 287 36,7 104 27,4 9 25,7 21 30,0 18 33,3 Dự phòng 183 33,5 258 33,0 135 35,5 4 11,4 7 10,0 17 31,5 Quản lý nhà nước 156 28,6 111 14,2 76 20,0 3 8,6 4 5,7 2 3,7 Lĩnh vực khác (đào tạo, ) 45 8,2 89 11,4 31 8,1 3 8,6 4 5,7 1 1,9 Ngành khác (BHYT, ) 23 4,2 36 4,6 34 8,9 5 14,3 16 22,9 9 16,7 Bệnh viện tư nhân 11 31,4 18 25,7 7 13,0 Tổng cộng 546 100 781 100 380 100 35 100 70 100 54 100 Bảng 2 cho thấy, trong số CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác xác định được lĩnh vực chuyển đến, tỷ lệ CBYT chuyển biên chế sang lĩnh vực dự phòng chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là sang lĩnh vực điều trị (25,5% ở tuyến tỉnh, 36,7% ở tuyến huyện và 27,4% ở tuyến xã). Nhóm bỏ việc chủ yếu chuyển sang các bệnh viện tư nhân và lĩnh vực điều trị công lập; bên cạnh đó, một tỷ lệ đáng kể CBYT bỏ việc chuyển sang ngành khác (14,3% ở tuyến tỉnh, 22,9% ở tuyến huyện và 16,7% ở tuyến xã). Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy, lĩnh vực điều trị được cho rằng hiện đang được hưởng nhiều loại phụ cấp như phụ cấp ưu đãi nghề, phụ cấp phòng chống dịch, phụ cấp trực và phụ cấp phẫu thuật thủ thuật; thu nhập tăng thêm cũng cao hơn và có điều kiện làm thêm ngoài giờ. Vì vậy, có những CBYT lĩnh vực dự phòng không chỉ mong muốn chuyển lên cơ sở thuộc lĩnh vực điều trị tuyến trên mà còn chấp nhận chuyển ngang tuyến và chuyển xuống các cơ sở y tế lĩnh vực điều trị ở tuyến dưới. Tuy nhiên, cơ hội chuyển sang lĩnh vực điều trị là khó khăn do các bệnh viện luôn mong muốn tuyển dụng các CBYT có kinh nghiệm trong công tác khám, chữa bệnh. Vì vậy, khi mong muốn chuyển sang lĩnh vực điều trị ở tuyến trên không còn, các CBYT lựa chọn chuyển sang các lĩnh vực khác, trong đó, lĩnh vực quản lý nhà nước được quan tâm nhiều hơn do công việc gần với lĩnh vực dự phòng hơn. Các CBYT cũng có xu hướng chuyển đến các địa bàn có điều kiện sống tốt hơn, do đó, họ không chỉ có xu hướng chuyển đến các cơ sở y tế tuyến trung ương, tuyến tỉnh mà còn chuyển về các đơn vị ngang tuyến ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Nhóm chuyển sang ngành bảo hiểm xã hội để làm giám định bảo hiểm y tế cũng được cho rằng là cơ hội sự nghiệp tốt để các CBYT có chuyên môn y như bác sĩ, y sĩ chuyển về gần hơn với công việc chuyên môn tại các cơ sở điều trị. Địa phương chuyển đến: Trong số 285 trường hợp xác định được tỉnh chuyển đến, có tới 74% CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển đến các tỉnh/tp có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, TP Hồ Chí (3,9%) và tuyến xã (0,8%). Với nhóm bỏ việc, chỉ có một phần chuyển ra khỏi khu vực công lập (42,9% ở tuyến tỉnh, 36,2% ở tuyến huyện, 18,5% ở tuyến xã), số CBYT còn lại hầu hết đều chuyển vào các cơ sở công lập ở tuyến cao hơn. Lĩnh vực chuyển đến: 14 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, lý do chuyển đến các khu đô thị lớn để có điều kiện sinh sống, học tập, vị thế xã hội tốt hơn cho bản thân và gia đình. 3.3 Trình độ chuyên môn của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng chuyển công tác Bảng 3. Trình độ chuyên môn của cán bộ y tế lĩnh vực dự phòng chuyển công tác phân theo lĩnh vực chuyển đến (n=1.867) Trình độ chuyên môn Tổng Lĩnh vực chuyển đến Điều trị Dự phòng QLNN Lĩnh vực khác Ngành khác YT NCL TS/CKII n 13 5 1 2 2 2 1 % 100,0 38,5 7,7 15,4 15,4 15,4 7,7 Thạc sĩ/CKI n 229 70 52 67 28 7 5 % 100,0 30,6 22,7 29,3 12,2 3,1 2,2 Bác sĩ n 615 227 170 110 42 47 19 % 100,0 36,9 27,6 17,9 6,8 7,6 3,1 DS ĐH n 23 4 4 12 0 0 3 % 100,0 17,4 17,4 52,2 0,0 0,0 13,0 HS, ĐD ĐH n 40 18 6 7 8 1 0 % 100 45,0 15,0 17,5 20,0 2,5 0 Đại học khác n 138 24 39 34 12 22 7 % 100,0 17,4 28,3 24,6 8,7 15,9 5,1 Trung cấp, cao đẳng n 809 230 333 120 81 44 1 % 100,0 28,4 41,2 14,8 10,0 5,4 0,1 Tổng n 1867 578 605 352 173 123 36 % 100,0 31,0 32,4 18,9 9,3 6,6 1,9 Có 1867 CBYT của lĩnh vực dự phòng chuyển công tác xác định được lĩnh vực chuyển đến trong đó, nhóm chuyển sang lĩnh vực điều trị chủ yếu là các CBYT có trình độ cao, trong đó 38,5% TS/CKII, 30,6% ThS/CKI, 36,9% bác sĩ, 45% Hộ sinh/điều dưỡng đại học; tiếp đến là nhóm chuyển sang lĩnh vực QLNN (52,2% DSĐH, 29,3% ThS/CKI, 17,9% BS, 15,4% TS/CKII). Nhóm CBYT có trình độ dưới đại học chủ yếu chuyển đến lĩnh vực dự phòng (41,2%). 3.4 Chức vụ của cán bộ y tế chuyển công tác Trong số 2310 CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác có 409 người đã từng đảm nhận các chức vụ quản lý (17,7%). Trong đó, 31,3% là trưởng/phó các đơn vị, 41,3% là trưởng/phó các khoa, 19,3% là trưởng/phó phòng. IV. BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình hình chuyển công tác của CBYT lĩnh vực dự phòng từ tuyến xã/phường đến tuyến tỉnh/thành phố là rất đáng báo động. Trong giai đoạn 2005-2009, tại 39 tỉnh/thành phố có báo cáo cho thấy có 2310 CBYT lĩnh vực dự phòng đã chuyển công tác và gần 1/4 trong số đó bỏ việc (25,3%). Số CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển đi tăng nhanh qua các năm: So với năm 2005, số CBYT năm 2009 chuyển biên chế cao hơn gấp 2,7 lần và số CBYT bỏ việc cao hơn gấp 2,8 lần. TS: Tiến sĩ; HS, ĐD ĐH: Hộ sinh, Điều dưỡng đại học; DS ĐH: Dược sĩ đại học 15Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 Các CBYT lĩnh vực dự phòng tuyến tỉnh, tuyến xã bỏ việc cao hơn tuyến huyện (28,6% và 28,7% so với 21,3%). Đây là sự tác động của nhiều chính sách, trong đó chính sách bảo hiểm xã hội mới khi cho phép người lao động bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi chuyển chấm dứt hợp đồng với cơ quan cũ để chuyển đến cơ quan mới. Lý do này đã khiến tỷ lệ CBYT công lập nói chung và của lĩnh vực dự phòng nói riêng bỏ việc tăng đột biến sau khi Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực vào năm 2007 [8]. Mô hình tổ chức bộ máy y tế tuyến cơ sở trong giai đoạn này cũng thay đổi liên tục khiến CBYT tuyến huyện, xã không an tâm công tác. Đối với tuyến xã, theo quy định tại Quyết định số 58/TTg ngày 03/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ, CBYT tuyến xã chưa được công nhận là viên chức [9] do đó việc chuyển công tác của CBYT tuyến xã là rất khó khăn. Vì vậy khi có chính sách cho bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội đã thúc đẩy nhiều CBYT tuyến xã bỏ việc để chuyển lên các tuyến cao hơn. Xu hướng lựa chọn nơi chuyển đến của CBYT lĩnh vực chuyển công tác theo hai hướng chủ yếu là vừa chuyển sang các lĩnh vực có thu thập cao hơn và vừa chuyển lên tuyến trên hay cũng chính là về các đô thị trung tâm. Các CBYT lĩnh vực dự phòng tuyến huyện, xã chủ yếu chuyển lên tuyến kế tiếp, trong đó, CBYT tuyến xã chuyển lên tuyến huyện là 59,6% và lên tuyến tỉnh là 31,5%, CBYT tuyến huyện chuyển lên tuyến tỉnh là 46,6%. Tỷ lệ CBYT chuyển lên tuyến trung ương cao nhất ở tuyến tỉnh (6,6%) và thấp dần ở tuyến dưới: Tuyến huyện (3,9%) và tuyến xã (0,8%). Để chuyển lên tuyến trên, các CBYT lĩnh vực dự phòng còn lựa chọn cách bỏ việc và tuyển dụng lại từ đầu ở các cơ sở y tế tuyến trên. Trong nhóm bỏ việc, chỉ có khoảng 1/3 chuyển ra khỏi khu vực công lập, còn lại là chuyển lên các cơ sở y tế tuyến trên. Trong đó, tỷ lệ CBYT chuyển lên tuyến trung ương cao hơn gấp nhiều lần nhóm chuyển biên chế (2,8 lần ở tuyến tỉnh, 13 lần ở tuyến huyện và 16,7 lần ở tuyến xã). Số liệu về các tỉnh chuyển đến cũng cho thấy rõ xu hướng chuyển về các đô thị trung tâm của CBYT lĩnh vực dự phòng, trong đó có tới 74% CBYT lĩnh vực dự phòng (trong số trường hợp xác định được tỉnh chuyển đến) chuyển đến các tỉnh/tp lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ để có điều kiện sinh sống, học tập, vị thế xã hội tốt hơn cho bản thân và gia đình. Như vậy, xu hướng chính trong chuyển công tác của CBYT lĩnh vực dự phòng là chuyển lên tuyến trên cũng chính là chuyển tới các khu vực đô thị trung tâm. Trong đó, CBYT ở tuyến cao hơn thì có cơ hội chuyển về tuyến trên cao hơn so với các CBYT tuyến dưới và khi có cơ hội chuyển lên tuyến cao hơn, các CBYT càng ở tuyến thấp hơn càng quyết liệt chuyển đi mạnh mẽ hơn và tỷ lệ chấp nhận bỏ việc cao hơn tuyến trên. Các CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác cũng có những lựa chọn lĩnh vực chuyển đến khác nhau. Ngoài lĩnh vực dự phòng, lĩnh vực được các CBYT lựa chọn chuyển đến nhiều nhất là lĩnh vực điều trị cả ở khu vực công lập và tư nhân. Trong đó, tỷ lệ chuyển sang lĩnh vực điều trị ở nhóm chuyển biên chế là 30,2% (25,5% ở tuyến tỉnh, 36,7% ở tuyến huyện và 27,4% ở tuyến xã); ở nhóm bỏ việc, tỷ lệ chuyển sang lĩnh vực điều trị công lập là 30,2% (25,7% ở tuyến tỉnh, 30% ở tuyến huyện và 33,3%) và sang các bệnh viện tư là 22,6% (31,4% ở tuyến tỉnh, 25,7% ở tuyến huyện và 13% ở tuyến xã). Các CBYT chuyển sang các cơ sở điều trị chủ yếu thuộc nhóm có trình độ chuyên môn cao, trong đó 38,5% TS/CKII, 30,6% ThS/CKI, 36,9% bác sĩ, 45% hộ sinh/ điều dưỡng đại học. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, các CBYT lĩnh vực dự phòng còn chuyển sang ngành BHXH để làm giám định bảo hiểm y tế như là một cách để chuyển công việc đến gần hơn với công việc chuyên môn tại các cơ sở điều trị. Nhóm này chủ yếu là bác sĩ và các y sĩ. Việc chuyển đi của các CBYT này cũng gặp nhiều khó khăn, do đó có một tỷ lệ đáng kể đã lựa chọn chuyển đi bằng hình thức bỏ việc (14,3% ở tuyến tỉnh, 22,9% ở tuyến huỵện và 16,7% ở tuyến xã). 16 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 Có một tỷ lệ đáng kể các CBYT lĩnh vực dự phòng còn chuyển đến các cơ sở y tế dự phòng khác và chuyển sang lĩnh vực quản lý nhà nước. Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy, việc chuyển đến lĩnh vực điều trị công và các bệnh viện tư là không dễ dàng do các đơn vị thuộc lĩnh vực điều trị thường mong muốn người chuyển đến có kinh nghiệm trong công tác khám, chữa bệnh. Vì vậy, các CBYT lĩnh vực dự phòng muốn chuyển lên tuyến trên hay các khu đô thị trung tâm buộc phải chấp nhận chuyển tới các lĩnh vực khác phù hợp với điều kiện hơn. Như vậy, xu hướng chính chuyển công tác của CBYT lĩnh vực dự phòng là chuyển lên tuyến trên, về các khu đô thị trung tâm và chuyển sang lĩnh vực điều trị để có thêm thu nhập, có cơ hội tốt hơn cho sự nghiệp của bản thân và việc sinh hoạt, học tập của gia đình. Xu hướng này tương đồng với các phát hiện của nhiều nghiên cứu trên thế giới [10]. Xu hướng này sẽ làm tăng thêm tình trạng thiếu CBYT ở lĩnh vực dự phòng, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở hiện nay. Từ những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, một số chính sách đối với lĩnh vực dự phòng cần được chú ý điều chỉnh: Một là, xem xét xây dựng chế độ lương, phụ cấp ưu đãi đối với CBYT lĩnh vực dự phòng và tuyến y tế cơ sở, đặc biệt là đối với nhóm có trình độ chuyên môn cao như bác sĩ, dược sĩ đại học ở các vùng khó khăn nhằm giảm sự chênh lệch trong thu nhập so với các khu vực đô thị, tuyến trên và giữa y tế công - tư để thu hút, giữ chân CBYT có trình độ cao công tác ổn định trong lĩnh vực dự phòng, đặc biệt là tại tuyến y tế cơ sở. Hai là, có chính sách ưu tiên trong đào tạo và chuyên ngành đào tạo phù hợp đối với CBYT lĩnh vực dự phòng, đặc biệt là trong việc lựa chọn đối tượng đào tạo và hình thức đào tạo phù hợp (người tại chỗ và đào tạo tại chỗ) nhằm tăng tính ổn định công tác lâu dài tại địa phương; đồng thời có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn về thời gian đóng góp sau đào tạo của CBYT được cử đi đào tạo đại học và sau đại học. V. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu từ số liệu của 39 tỉnh/ thành phố cho thấy, tình hình chuyển công tác của CBYT lĩnh vực dự phòng các tuyến xã/phường, huyện/quận, tỉnh/thành phố trong giai đoạn 2005 – 2009 rất đáng báo động, với 2310 trường hợp chuyển công tác, tăng nhanh qua các năm, trong đó hơn 1/4 bỏ việc. Tỷ lệ CBYT lĩnh vực dự phòng tuyến tỉnh và tuyến xã bỏ việc cao hơn tuyến huyện (28,6% và 28,7% so với 21,3%) và chỉ một phần số này chuyển ra khu vực tư nhân, còn lại chuyển tới các cơ sở y tế công lập tuyến trên. Xu hướng chính trong lựa chọn nơi chuyển đến của CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác là chuyển lên tuyến trên, về các đô thị trung tâm và chuyển sang lĩnh vực điều trị. Sự không yên tâm công tác do sự biến động liên tục trong mô hình tổ chức bộ máy cơ sở y tế tuyến huyện và chính sách BHXH mới trong giai đoạn này và sự mong đợi có thêm thu nhập, cơ hội tốt hơn cho sự nghiệp của bản thân và việc sinh hoạt, học tập của gia đình là nguyên nhân quan trọng khiến các CBYT lĩnh vực dự phòng chuyển công tác. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Susan B, Rifkin. Health for All and Primary Health Care, 1978–2018: A Historical Perspective on Policies and Programs Over 40 Years. Online Publication Date: Oct 2018 DOI: 10.1093/ acrefore/9780190632366.013.55. 2018. 2. WHO. The World Health Report 2008 - primary Health Care (Now More Than Ever). 2008. 3. WHO. Declaration of Astana - Global Conference on Primary Health Care from Alma-Ata towards universal health coverage and the Sustainable Development Goals. Astana, Kazakhstan, 25 and 26 October 2018. 2018. 4. WHO, UNICEF. A vision for primary health care in the 21st century: towards universal health coverage and the Sustainable Development Goals. Geneva: World Health Organization and the United Nations Children’s Fund (UNICEF), 2018 (WHO/HIS/SDS/2018.X). Licence: CC BY- NC-SA 3.0 IGO. 2018. 5. Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 255/2006/ QĐ-TTg ngày 09/11/2006 phê duyệt Chiến lược 17Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 3 - 2020 THE WORKING PLACE CHANGE OF HEALTH WORKERS IN THE PREVENTIVE MEDICINE FIELD IN VIETNAM Vu Van Hoan1, Vu Thi Minh Hanh1, Le Lan Huong2 1Health Strategy and Policy Institute, Hanoi 2Department of Personnel and Organisation, Ministry of Health, Hanoi This paper aims to describe the working place change of health workers in the preventive medicine field during the period of 2005 – 2009 in Vietnam. The cross-sectional study was conducted in September 2009 and incorporated both qualitative and quantitative research methods. The research outcomes showed that 2,310 preventive medicine health workers migrated during the period of 2005 – 2009, with over 1/4 moring through resignation and increasing rapidly over the years. The rest transferred to public health facilities at higher levels. The primary trend in the facilities/ organizations to which preventive medicine health workers chose to migrate were those at higher levels, in central urban areas and in the treatment field. The health workers with a high level of qualifications largely migrated to the fields of treatment and state management, and a significant proportion migrated to social insurance. Important factors that drove the migration of health workers in the preventive medicine field were the lack of job security due to constant changes in the organizational structure of district health facilities and the new social insurance policy during this period of time, along with the expectation of having higher incomes, better career opportunities as well as improved living and learning standards for the health workers themselves and their families. Keywords: Health workers; migration; preventive medicine field quốc gia y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. 2006. 6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. 2017. 7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông báo số 126-TB/TW ngày 1/4/2013 thông báo Kết luận của Ban Bí thư về 10 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/1/2002 của Ban Bí thư khóa IX về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. 2013. 8. Quốc hội. Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 71/2006/ QH11 của Quốc hội). 2006. 9. Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 58/TTg ngày 03/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở. 1994. 10. Dussault G, Franceschini MC. Not enough there, too many here: understanding geographical imbalances in the distribution of the health workforce, Human Resour Health. 2006, 4: 12.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftinh_hinh_chuyen_cong_tac_cua_can_bo_y_te_linh_vuc_du_phong.pdf
Tài liệu liên quan