Tiểu luận: Tại sao các doanh nghiệp nhà nước cần phải cổ phần hóa và tư
nhân hóa ? Hãy cho biết tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
những năm gần đây 2005 – 2011 ?
Bài làm:
Công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) đã và đang diễn ra tốt đẹp. Thông qua công cuộc đổi mới
này, vấn đề phát triển một nền Kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai
trò chủ đạo là một mục tiêu hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, qua hơn 16 năm
phát triển kinh tế theo đường lối này, nền kinh tế nước ta đã bước đầu thu được
nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, mang dấu hiệu của một nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị
trường ở dạng sơ khai và trước mắt còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử
thách.
Một trong những khó khăn, bất ổn mà chúng ta cần phải nói tới đó là sự yếu
kém của khu vực kinh tế Nhà nước nói chung, mà nói riêng là là hệ thống các
doanh nghiệp Nhà nước. Có thể nói trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi
hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì
các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã thực sự bộc lộ những yếu
kém của mình như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng
nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút Nói chung phần
lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, làm ăn
cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước
như: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp lại các doanh
13 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1918 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm gần đây 2005 – 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 1
Tiểu luận: Tại sao các doanh nghiệp nhà nước cần phải cổ phần hóa và tư
nhân hóa ? Hãy cho biết tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
những năm gần đây 2005 – 2011 ?
Bài làm:
Công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) đã và đang diễn ra tốt đẹp. Thông qua công cuộc đổi mới
này, vấn đề phát triển một nền Kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai
trò chủ đạo là một mục tiêu hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, qua hơn 16 năm
phát triển kinh tế theo đường lối này, nền kinh tế nước ta đã bước đầu thu được
nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, mang dấu hiệu của một nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị
trường ở dạng sơ khai và trước mắt còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử
thách.
Một trong những khó khăn, bất ổn mà chúng ta cần phải nói tới đó là sự yếu
kém của khu vực kinh tế Nhà nước nói chung, mà nói riêng là là hệ thống các
doanh nghiệp Nhà nước. Có thể nói trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi
hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì
các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã thực sự bộc lộ những yếu
kém của mình như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng
nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút....Nói chung phần
lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, làm ăn
cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước
như: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp lại các doanh
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 2
nghiệp Nhà nước, bán khoán, cho thuê, hay giải thể các doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả... trong đó cổ phần hoá được coi là giải pháp hàng đầu, có khả
năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như cho nhiều bộ phận xã hội
khác.
Hơn nữa, theo kinh nghiệm của một số nước phát triển, việc cổ phần hoá đã
đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế - xã hội, bởi nó gắn liền trách nhiệm
với lợi ích của những chủ thể kinh tế, làm cho họ cần cù hơn, năng động, sáng tạo
hơn, có trách nhiệm hơn với công việc kinh doanh của mình. Từ đó hiệu quả kinh
tế - xã hội được nâng cao rõ rệt.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay,
đòi hỏi Việt nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế và chính trị,
như vậy sẽ chủ động trong vấn đề hội nhập và quan hệ quốc tế với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về cổ phần hoá trong thời điểm hiện nay tuy
không phải là mới mẻ nhưng lại rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiều nội dung
của chính sách cổ phần hoá và các vấn đề có liên quan, chúng ta sẽ có những đánh
giá khách quan hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn hạn chế của cổ phần
hoá.
Tiểu luận của em được chia làm 2 phần chính như sau:
I. Lý luận chung về cổ phần hóa, tư nhân hóa. Sự cần thiết phải tiến
hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
II. Tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm gần
đây 2005 – 2011.
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 3
I. Lý luận chung về cổ phần hóa, tư nhân hóa. Sự cần thiết phải tiến
hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Trước khi đi vào phân tích nội dung cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, ta cần
phải hiểu thế nào là một công ty cổ phần & công ty tư nhân.
1. Khái niệm & đặc điểm của công ty cổ phần:
Khái niệm: là công ty có số vốn điều lệ được chia làm nhiều phần
bằng nhau, được gọi là cổ phần. Có số lượng cổ đông tối thiểu là ba
người và không hạn chế số lượng tối đa.
Đặc điểm:
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể
mua một hoặc nhiều cổ phiếu.
Cơ quan quyền lực cao nhất là đại hội đồng quản trị.
Cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số tiền cổ phần mình
đã xuất vốn và cổ đông được quyền tự do sang nhượng cổ phần thông
qua việc mua bán các cổ phiếu.
Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ
phiếu có ghi tên.
Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. cổ phiếu có ghi tên
chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của hội đồng quản trị.
Công ty cổ phần được tự do đặt tên, trên bảng hiệu, hóa đơn, quảng
cáo, báo cáo, tài liệu giấy tờ giao dịch khác của công ty đều phải ghi tên
kèm theo chữ “Công ty cổ phần” và vốn điều lệ.
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 4
2. Thế nào là cổ phần hóa:
Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, biến doanh nghiệp
một chủ thành doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu
đơn nhất sang sở hữu chung thông qua chuyển một phần tài sản cho người khác,
cổ phần hóa có thể áp dụng với tất cả các doanh nghiệp thuộc sở hữu của một
chủ duy nhất. Vì thế doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… đều có thể cổ phần hóa.
3. Tại sao phải cổ phần hóa ?
3.1. Cơ sở lý luận:
Về thực chất hình thức công ty cổ phần đầu tiên đã được C.Mác đánh giá và
khái quát một cách khách quan và khoa học. Sự ra đời của các công ty cổ phần
là một bước tiến của lực lượng sản xuất:
Chúng đã biến những người sở hữu tư bản thành những người sở hữu
thuần túy, một mặt chỉ giản đơn điều khiển và quản lý tư bản của người khác,
mặt khác là những nhà tư bản- tiền tệ thuần túy. Quyền sở hữu tư bản hoàn toàn
tách rời chức năng của tư bản trong quá trình sản xuất thực tế.
Làm cho quy mô sản xuất được tăng lên, mở rộng, một điều mà đối với
các doanh nghiệp riêng lẻ rất khó thực hiện. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư
bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa ở ngay trong lòng nó.
Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của
quá trình tái sản xuất còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 5
những chức năng của những người sản xuất lien hợp, tức là thành những chức
năng xã hội.
Như vậy sự xuất hiện của các công ty cổ phần theo lý luận của C.Mác là kết
quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất và là bước tiến từ sở hữu tư nhân
lên sở hữu tập thể của các cổ đông.
3.2. Những ưu điểm của cồ phần hóa và sự cần thiết phải tiến hành cổ
phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước :
Thực hiện cổ phần hóa là một nhiệm vụ rất cần thiết và quan trọng trong quá
trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, cổ phần hóa sẽ giải quyết được các vấn đề
sau:
Thứ nhất: Thực hiện cổ phần hóa là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất và lực lương cách mạng và lực lượng sản xuất. cổ phần hóa góp phần
thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây
dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các
doanh nghiệp Nhà nước mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù
hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy cổ phần hóa sẽ
giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai: Thực hiện cổ phần hóa nhằm xã hội hóa lực lượng sản xuất, thu
hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện cổ phần hóa, người lao động sẽ gắn
bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh
nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên
năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 6
Thứ ba: Bên cạnh đó, cổ phần hóa là một yếu tố thúc đấy sự hình thành và
phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực
và trên thế giới.
Thứ tư: Thực hiện cổ phần hóa là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với
việc huy động được các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện mở rộng
sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh
tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: Cổ phần hóa tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm vĩ
mô và vi mô. Chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần không
những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản trong công
tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu: cổ phần hóa là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh
tế trong quá trình đổi mới.
Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước, cổ phần hóa với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã chứng tỏ
đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
4. Khái niệm & đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân:
Khái niệm: Doanh nghiệp tư nhân là công ty do một cá nhân làm chủ sở hữu
toàn bộ số vốn và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ các tài sản của mình đối
với các khoản nợ phát sinh.
Đặc điểm:
Do một cá nhân làm chủ sở hữu vốn.
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 7
Doanh nghiệp chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
Doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân.
5. Thế nào là tư nhân hóa?
Là quá trình chuyển quyền sở hữu của tài sản hoặc các hoạt động kinh doanh từ
nhà nước sang cho một thực thể do tư nhân sở hữu. Một trong những lí do khiến
hình thức này ra đời đó là do xu hướng kinh doanh hiệu quả của khu vực tư nhân.
Khi đã là chủ sở hữu của doanh nghiệp, các cá nhân thường tìm ra các biện pháp
nhằm tối đa hóa lợi nhuận, khác với chính phủ – nơi không quá quan tâm đến lợi
nhuận của các hoạt động kinh doanh.
6. Tại sao phải tư nhân hóa ?
Khu vực kinh tế tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Nó là một trong hai chủ thể để thực hiện CND-HDH đất nước ( chủ thể thứ
hai là kinh tế nhà nước). Sự phát triển của kinh tế tư nhân cần phải được coi là một
tiền đề không thể thiếu để phát huy các động lực con người trong sự nghiệp CNH
đất nước, kinh tế tư nhân phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nước
ta. Vì vậy mà kinh tế tư nhân trong thời gian tới cần được khuyến khính phát triển.
II. Tình hình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước những năm gần đây
2005 – 2011.
Cổ phần hóa là một phần quan trọng trong cải cách hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới kể từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX ở
Việt Nam, cổ phần hóa DNNN là một quá trình tìm tòi thử nghiệm và từng bước
tháo gỡ khó khăn trong quá trình triển khai. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các
doanh nghiệp nhà nước. Sau 20 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 8
nước, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về quá trình này. Nhiều vấn đề lý luận và
tư duy kinh tế đang đặt ra cần giải quyết để nâng cao hiệu quả của quá trình cổ
phần hóa trong thời gian tới.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những vấn đề đang
được đẩy mạnh ở nước ta, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn
giản. Vì vậy, sau 20 năm thực hiện cổ phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng,
đánh giá triển vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm tới.
Theo báo cáo tháng 5/2006 của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước,nước ta đã thực hiện cổ phần hóa được 2.935 doanh nghiệp nhà
nước, trong đó có 80% số doanh nghiệp mới thực hiện cổ phần hóa từ năm 2001-
2006. Từ số liệu trong Báo cáo này, bước đầu có thể phân tích thực trạng cổ phần
hóa doanh nghiệp ở một số khía cạnh sau:
Đối tượng cổ phần hóa. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc
lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định
ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy
mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp
đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh
nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là
doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả.
Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực
hiện cổ phần hóa. Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy
đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà
nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với
những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần
hóa đề ra.
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 9
Cơ cấu vốn điều lệ. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã
cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp;
dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần
30% số doanh nghiệp. Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ
phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm
khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm
một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%). Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên
có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và
hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần "chi phối" của nhà nước.
Cơ cấu cổ đông. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán
bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm
24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần. Nét đáng chú ý về cơ
cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần
đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước
ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ
được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ
quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Phân tích một số bài viết nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa trên báo chí, chẳng
hạn bài "Cổ phần hóa - quỹ đạo nào để bảo toàn, phát triển thị trường vốn?" đăng
trên báo Tài chính; qua những thông tin từ Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, có
thể nhận thấy việc đánh giá về hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có
những ý kiến không giống nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả, góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy
động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước,
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 10
tạo thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt
động kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã hoạt động rất
kém, nội bộ mất đoàn kết, khôgn thống nhất; mặt khác còn do sự can thiệp không
đúng của chính quyền địa phương..
Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu, đến thời điểm này chưa có doanh nghiệp
nhà nước nào sau khi cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa. Tuy nhiên, trong đánh
giá của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Đặng Văn
Thanh - người tham gia đoàn giám sát của Quốc hội - bên cạnh việc công nhận một
số kết quả do cổ phần hóa mang lại, cũng đã chỉ rõ: có tình trạng, một số doanh
nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đang dần chuyển hóa thành doanh nghiệp tư
nhân do một số cổ đông đã bán, chuyển nhượng số cổ phần của mình, hoặc làm
trung gian thu gom cổ phần cho tư nhân ngoài doanh nghiệp nắm giữ, có trường
hợp đã nắm hơn 50% tổng giá trị cổ phần danh nghĩa để trở thành chủ nhân đích
thực của doanh nghiệp.
Thống kê của Nhóm tư vấn cho thấy, tính đến đầu năm 2009, cả nước đã
thực hiện sắp xếp được 5.556 doanh nghiệp và 8 tổng công ty Nhà nước, trong đó
cổ phần hóa được 3.854 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp (chiếm 69,4%
tổng số doanh nghiệp đã sắp xếp), giao 196 doanh nghiệp, bán 155 doanh nghiệp,
khoán và cho thuê 30 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 531 doanh nghiệp, còn lại
các hình thức khác là 790 doanh nghiệp.
Ngày 26/6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2007/NĐ-CP
về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định
mới bổ sung thêm đối tượng cổ phần hoá là: Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế,
công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con, công ty trách nhiệm hữu hạn do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 11
Bên cạnh đó, mở rộng đối tượng nhà đầu tư chiến lược, không chỉ có các
nhà đầu tư trong nước, mà bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời xoá bỏ cơ
chế ưu đãi giảm 20% giá bán cổ phần so với giá đấu bình quân. Nhà đầu tư chiến
lược được mua cổ phần theo giá không thấp hơn giá đấu giá thành công bình
quân...
Bổ sung thêm phương thức mới về bán cổ phần lần đầu: bảo lãnh phát hành
và thoả thuận trực tiếp. Nếu áp dụng phương thức đấu giá công khai, doanh nghiệp
có khối lượng cổ phần bán ra dưới 10 tỷ đồng thì được đấu giá tại các tổ chức tài
chính trung gian. Ngược lại, nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng thì nhất
thiết phải đấu giá tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán… Những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị
trường chứng khoán theo quy định của pháp luật có liên quan về chứng khoán phải
thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung
tâm giao dịch chứng khoán trong quá trình cổ phần hoá…
Ngày 18/07/2011, Chính phủ ban hành Nghị định 59/2011/NĐ-CP về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị
định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007. Theo đó: Đối tượng được cổ phần hóa bị
thu hẹp. Thay vì quy định 6 đối tượng như trước đây, theo Nghị định mới ban
hành, có 3 đối tượng được cổ phần hóa (CPH). Các đối tượng được CPH gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ là công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế; Tổng công ty nhà
nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước);
Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là
DN thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương;
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 12
Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa chuyển thành Công ty TNHH một
thành viên.
Khi CPH các doanh nghiệp đảm bảo đủ 2 điều kiện: Không thuộc diện Nhà
nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ (do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong
từng thời kỳ) và còn vốn Nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại
giá trị doanh nghiệp.
Trường hợp sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị doanh nghiệp
mà giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả, cơ quan có thẩm
quyền quyết định phương CPH chỉ đạo doanh nghiệp phối hợp với Công ty Mua
bán nợ Việt Nam và các chủ nợ của doanh nghiệp xây dựng phương án tái cơ cấu
doanh nghiệp; trường hợp phương án tái cơ cấu DN không khả thi và hiệu quả thì
chyển sang các hình thức chuyển đổi khác theo quy định của pháp luật.
KẾT LUẬN
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình khó khăn và phức tạp vì nó
đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, hơn nữa lại không có một con đường
chung nào đó cho mọi doanh nghiệp đi theo, mà tùy thuộc vào từng điều kiện cụ
thể của mỗi doanh nghiệp, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vừa qua đã khẳng
định “ Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế: nắm những vị
trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất
quan trọng và là một công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế”.
Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc sắp xếp và đổi mới quản lý doanh
nghiệp Nhà nước chắc chắn phải là một nhiệm vụ trọng yếu và phải được thực hiện
một cách lien tục, có hiệu quả. Trong đó cổ phần hóa lại là một trong những nội
dung quan trọng của sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Những thành
Kinh tế quản trị DNCN Đại học: Mỏ Địa Chất Hà Nội
Sinh Viên: Nguyễn Ngô Anh Tuấn Lớp : Địa Vật Lý – K53 Page 13
công và những bài học kinh nghiệm có được trong tiến trình Cổ phần hóa vừa qua
đã khẳng định Cổ phần hóa là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay, hiệu quả mà cổ phần hóa đem lại là không thể phủ nhận
và hoàn toàn có thể tăng trong tương lai.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, còn có rất nhiều vướng
mắc, hạn chế và thất bại. Nhưng tin chắc rằng, với quyết tâm của Đảng, Chính phủ,
cộng với sự nỗ lực của toàn dân ta thì việc khắc phục những bất cập hoàn toàn có
thể làm được trong thời gian tới, nghĩa là chương trình cổ phần hóa hoàn toàn có
thể thành công, góp phần vào những thắng lợi chung của sự phát triển kinh tế đất
nước.
Lời cảm ơn: Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Ths Đào Anh Tuấn đã truyền
cho em những kiến thức quý báu, cho em những hiểu biết cơ bản về Kinh tế quản
trị doanh nghiệp công nghiệp và đặc biệt đã giao cho em bài tiểu luận này giúp em
có cơ hội tìm hiểu và hiểu rõ hơn về vấn đề cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước
và tình hình cổ phần hóa hiện nay.
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Ngô Anh Tuấn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_phan_hoa_dnnn_tuannna_6725.pdf