? Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia thất bại
trong chính sách khuyến khích bằng tiền do mức
độ khuyến khích cha phù hợp trong tơng quan
với các lợi ích khác của đối tợng đích. Phần thu
nhập tăng thêm mà đối tợng kỳ vọng có đợc
nếu chuyển sang vị trí công việc mới và chi phí
cuộc sống thực tế tại nơi làm việc mới luôn là
căn cứ quan trọng xây dựng định mức thu hút
bằng tiền trong chính sách thu hút và duy trì
nhân lực. Nhiều quốc gia đã thành công khi xác
định định mức khuyến khích, theo đó tổng thu
nhập từ lơng và phụ cấp khuyến khích xấp xỉ
bằng thu nhập của cán bộ y tế cùng loại làm ở
khu vực y tế t nhân hoặc bằng tổng thu nhập từ
lơng và phụ cấp cùng phần thu từ làm thêm tại
khu vực y tế t nhân. Các định mức và cách tính
cần thay đổi để phù hợp với sự biến đổi của bối
cảnh xã hội.
? Mặc dù các chính sách khuyến khích
bằng tài chính giữ vai trò quan trọng nhng các
chế độ khuyến khích phi tài chính cũng ngày
càng có vai trò quan trọng trong khuyến khích
cán bộ y tế. Các chính sách thu hút đợc thiết kế
gồm cả các khuyến khích bằng tài chính và phi
tài chính thờng thành công hơn các chính sách
chỉ có một loại. Các khuyến khích theo “gói” lợi
ích dành cho từng nhóm đối tợng đợc khuyến
cáo nên dùng do khả năng tác động hỗ trợ lẫn
nhau của các loại lợi ích của đối tợng đích.
Nh vậy, sự dịch chuyển của cán bộ y tế tại
các quốc gia chịu tác động từ nhiều yếu tố kinh
tế, xã hội và của hệ thống y tế. Để có các chính
sách điều chỉnh sự dịch chuyển của cán bộ y tế
giữa vùng khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội phát triển hơn, giữa các cơ sở y tế công
lập và các cơ sở y tế t nhân, từ trong nớc ra
nớc ngoài, mỗi quốc gia cần thiết phải có các
đánh giá về các yếu tố này và các chính sách liên
quan để có các tác động điều chỉnh phù hợp.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình dịch chuyển cán bộ y tế trên thế giới và ứng phó của các quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57
rong những thập niên gần đây, các nước
Ttrên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát
triển đã và đang phải đối mặt với tình trạng thiếu
nhân lực y tế và sự chuyển dịch nguồn nhân lực y
tế bất hợp lý. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) năm 2006, thiếu số lượng và phân
bố không hợp lý về nguồn nhân lực y tế hiện
đang là tình trạng phổ biến trên phạm vi toàn
cầu. Có khoảng 57 quốc gia (chủ yếu là các nước
đang phát triển) đang trong tình trạng thiếu nhân
lực y tế ở mức “khủng khoảng” [14]. Theo ước
tính của WHO, để có khả năng đạt được những
mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs), các quốc gia
trên toàn cầu cần phải có thêm khoảng 4 triệu
cán bộ y tế. Mặt khác, nguồn nhân lực y tế trên
toàn cầu đang có sự dịch chuyển theo 3 xu
hướng: từ vùng khó khăn sang vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội phát triển hơn, từ các cơ sở y tế
công lập sang các cơ sở y tế tư nhân, từ trong
nước ra các nước trong khu vực và thế giới [5],
[14].
Tại hầu hết các quốc gia đều đang diễn ra xu
hướng cán bộ y tế tập trung về khu vực đô thị bất
chấp sự khác biệt về thể chế chính trị hay mức độ
phát triển kinh tế xã hội. Toàn thế giới, chỉ có
chưa đến 55% dân số sống ở thành thị nhưng lại
có tới 75% số bác sỹ, 60% điều dưỡng và 58%
cán bộ y tế của các chức danh chuyên môn khác
[14]. Tại Bangladesh, năm 2005, dân số khu vực
thành thị chiếm 15% nhưng có tới 35% số bác sĩ
của cả nước đang làm việc [1]. Tại Brazil năm
1995, tỷ lệ cán bộ y tế/10.000 dân dao động
trong khoảng từ 0,52 đến 0,66 tại các khu vực
kém phát triển, nhưng tại các thành phố lớn chỉ
số này là 1,75 đến 2,05 [1]. Tại Nicaragua, có tới
TìNH HìNH DịCH CHUYểN CáN Bộ Y Tế TRÊN THế GIớI
Và ứNG PHó CủA CáC QUốC GIA
1
ThS. Vũ Thị Minh Hạnh ,
2
ThS. Vũ Văn Hoàn
50% cán bộ y tế làm việc tại thủ đô, nơi chỉ có
20% dân số. Tại Ghana năm 1997, có tới 87%
cán bộ y tế làm việc tại khu vực thành thị, trong
khi 66% dân số sống tại khu vực nông thôn [2].
Số cán bộ y tế tại các trung tâm đô thị của
Zambia, Malawi, Zimbabwe là 41%, 54% và
51% nhưng chỉ số này tại các cơ sở y tế ở nông
thôn chỉ là 19%, 16% và 5% [9]. Sự dịch chuyển
cán bộ y tế từ các tuyến chăm sóc sức khỏe ban
đầu thuộc vùng nông thôn lên các tuyến trên đã
gây nên tình trạng thiếu cán bộ y tế nghiêm
trọng cho các vùng khó khăn, nơi phần lớn dân
cư, đặc biệt là nhóm người nghèo sinh sống.
Sự dịch chuyển cán bộ y tế từ các cơ sở y tế
công lập sang các cơ sở y tế tư nhân cũng là một
vấn đề phổ biến tại các nước đang phát triển.
Hầu hết các quốc gia đang phát triển đều tồn tại
mô hình công tư hỗn hợp trong hệ thống cung
cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Chính sách
khuyến khích y tế tư nhân phát triển tại các quốc
gia này là một giải pháp hữu hiệu nhằm san sẻ về
đầu tư nguồn lực với chính phủ trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe nhân dân. Sự phát triển của
mạng lưới y tế tư nhân đã góp phần mở rộng dịch
vụ y tế, giảm bớt tình trạng quá tải của các cơ sở
y tế công lập. Tuy nhiên, sự phát triển của y tế tư
nhân cũng là một tác nhân làm trầm trọng hơn
tình trạng mất cân đối về trình độ nhân lực y tế
giữa công và tư tại nhiều quốc gia bởi đã thu hút
1
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế.
2
Phó trưởng khoa Nghiên cứu Tổ chức và Nhân lực Y tế, Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế.
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
58
Nhìn ra nước ngoài
nhiều cán bộ y tế trình độ cao từ các cơ sở y tế
công lập. Tại các nước vùng Nam Phi, khu vực y
tế tư nhân có tới 52,7% cán bộ y tế, 76% số
chuyên gia giỏi nhưng chỉ phục vụ cho 20% dân
số có thu nhập cao. Hầu hết nhóm người nghèo
sống ở khu vực nông thôn (80%) được các cơ sở
y tế công cung cấp dịch vụ [9]. Tại Thái Lan, khi
y tế tư nhân phát triển mạnh vào những năm
1987-1997, đã có hơn 2000 bác sĩ của các cơ sở
y tế công lập khu vực nông thôn chuyển sang
làm việc cho các cơ sở y tế tư nhân. Tình trạng
này dẫn tới 21 bệnh viện tuyến huyện không có
bác sĩ dành toàn bộ thời gian trong ngày để làm
việc tại bệnh viện [11], [12].
Trong nhiều thập kỷ qua, Chính phủ các nước
đều đã và đang nỗ lực tìm kiếm và triển khai các
giải pháp khuyến khích, thu hút, duy trì và phát
triển lực lượng cán bộ y tế làm việc tại các khu
vực mà chính phủ mong muốn nhằm khắc phục
tình trạng trên, khuyến khích, thu hút, duy trì và
phát triển lực lượng cán bộ y tế làm việc tại các
khu vực chính phủ mong muốn. Nhiều nghiên
cứu được tiến hành trên bình diện quốc tế và
quốc gia để tìm giải pháp cho các chính sách
bình ổn nguồn nhân lực y tế trong bối cảnh
tương quan giữa các quốc gia, giữa công lập và
tư nhân, giữa nông thôn, vùng khó khăn và
thành thị.
Nhiều nghiên cứu được tiến hành để tìm
hiểu, đánh giá về thực trạng nguồn nhân lực y tế
và các chính sách thu hút, duy trì và phát triển
nhân lực y tế trên cả bình diện quốc gia, khu vực
và toàn cầu.
Phân tích kết quả của nhiều nghiên cứu,
trong đó có các nghiên cứu tổng quan hệ
thống về nhân lực y tế, có thể rút ra một số kết
luận quan trọng về các chính sách thu hút,
duy trì và phát triển nguồn nhân lực y tế như
sau:
Xu hướng tìm kiếm một môi trường làm
việc tốt hơn, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của
cán bộ y tế là một xu hướng tất yếu trong nền
kinh tế thị trường. Hành vi này chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của các chính sách quản lý và phát
triển nguồn nhân lực của các quốc gia và các tổ
chức.
Các nơi/cơ sở có cán bộ ra đi và nơi/cơ sở
họ chuyển đến làm việc đều tồn tại các yếu tố
"đẩy", "níu kéo, giữ chân", "thu hút", "duy trì"
các cán bộ y tế. Yếu tố "đẩy" (“push”)là các yếu
tố liên quan tới việc thúc đẩy cán bộ y tế đi tới
quyết định rời bỏ cơ sở đang công tác ban đầu;
Yếu tố "giữ chân" (“stick”) là các yếu tố liên
quan tới việc níu kéo cán bộ y tế ở lại cơ sở đang
công tác ban đầu; Yếu tố "thu hút" (“pull”) là
các yếu tố liên quan tới việc thu hút cán bộ y tế
của cơ sở nhận cán bộ; Yếu tố "duy trì" (“stay”)
là các yếu tố liên quan tới việc duy trì cán bộ y tế
của các cơ sở nhận cán bộ. Các quốc gia cần
nhận biết rõ các yếu tố này trong hệ thống để có
các chính sách tác động phù hợp trong phát triển
nguồn nhân lực y tế.
Các chính sách của các quốc gia nhằm
khắc phục tình trạng trên có thể tổng hợp thành
3 nhóm, bao gồm: nhóm chính sách về giáo dục,
đào tạo và quy chế; nhóm chính sách bù đắp
bằng tiền (trực tiếp hoặc gián tiếp qua hai hình
thức lương và phụ cấp) và nhóm chính sách
quản lý, hỗ trợ về môi trường và xã hội.
Lợi ích kinh tế là một động lực cơ bản
mang tính nền tảng quyết định hành vi của cán
bộ y tế trong lựa chọn môi trường hành nghề.
Đối với cán bộ y tế công lập, thu nhập từ lương
và phụ cấp là lợi ích kinh tế căn bản đối với họ.
Khi thu nhập từ lương và phụ cấp không đáp ứng
được các nhu cầu của cuộc sống, cán bộ y tế
chắc chắn sẽ tìm kiếm các cơ hội có thể để tăng
thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống của họ. Các
hành vi tìm kiếm cơ hội nâng cao thu nhập cơ
bản là: làm thêm ở khu vực y tế tư nhân; kinh
doanh ngoài chuyên môn; bớt thuốc điều trị của
bệnh nhân; nhận tiền phong bì của bệnh nhân;
lãn công để dành thời gian cho việc khác mang
lại lợi ích cho họ; chuyển ra y tế tư nhân, ra các
vùng có cơ hội tăng thu nhập. Xu hướng có các
hành vi này của cán bộ y tế là như nhau trên tất
59
cả các quốc gia và được gọi là “coping
strategies”. Vì vậy, các chính sách ưu đãi về tài
chính có ý nghĩa sống còn, cốt lõi trong quản lý
nguồn nhân lực, đặc biệt là tại các nước đang
phát triển.
Hầu hết các quốc gia không tập trung
nhiều vào khuyến khích bằng tiền thông qua
hình thức lương mà thông qua hình thức các loại
phụ cấp để đảm bảo cân đối trong hệ thống
lương giữa các bộ phận trong hệ thống công lập.
Các chế độ phụ cấp là phần thu nhập mà
người sử dụng lao động trả cho người lao động
để bù đắp phần sức lao động phụ trội khi làm
việc trong những điều kiện khó khăn hơn mà
chưa được tính vào lương hoặc khuyến khích họ
thực hiện những hành vi được kỳ vọng trong
công việc. Các chế độ phụ cấp này gồm nhiều
loại khác nhau, tùy thuộc ở mỗi quốc gia như:
phụ cấp vất vả, phụ cấp làm việc ở khu vực nông
thôn, phụ cấp nuôi con, phụ cấp không làm thêm
ở khu vực tư nhân... Việc đưa ra nhiều loại phụ
cấp là cần thiết bởi vì ngoài giá trị khuyến khích
về kinh tế, mỗi loại phụ cấp còn tạo cảm giác
được đối xử công bằng khi làm việc trong điều
kiện bất lợi hơn so với đồng nghiệp. Các phụ cấp
này có thể lớn hơn gấp nhiều lần lương.
Không thể sao chép chính sách ưu đãi của
quốc gia này sang quốc gia khác mà mỗi quốc
gia cần tìm hiểu các yếu tố “đẩy”, “hút” tại các
khu vực, các địa phương để có giải pháp tác
động phù hợp để thu hút, duy trì cán bộ y tế làm
việc ở các khu vực theo mong muốn. Vì vậy,
việc thêm, bớt các loại phụ cấp hoặc các ưu đãi
khác nhằm khuyến khích cán bộ y tế tùy thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể ở mỗi khu vực là cần thiết.
Việc xác định mức độ khuyến khích bằng tiền
trong các chính sách là công việc rất khó khăn
và không có khuôn mẫu chung cho các quốc gia.
Việc xác định mức độ khuyến khích cần dựa vào
việc phân tích mối tương quan trong chi phí cơ
hội trong mỗi quyết định của cá nhân. Ngoài ra
cần nghiên cứu về sở thích, tính cách, bản sắc
văn hóa và đặc điểm của các nhóm đối tượng
đích của chính sách nhằm xác định nhu cầu và
lợi ích nổi trội để có giải pháp can thiệp phù hợp.
Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia thất bại
trong chính sách khuyến khích bằng tiền do mức
độ khuyến khích chưa phù hợp trong tương quan
với các lợi ích khác của đối tượng đích. Phần thu
nhập tăng thêm mà đối tượng kỳ vọng có được
nếu chuyển sang vị trí công việc mới và chi phí
cuộc sống thực tế tại nơi làm việc mới luôn là
căn cứ quan trọng xây dựng định mức thu hút
bằng tiền trong chính sách thu hút và duy trì
nhân lực. Nhiều quốc gia đã thành công khi xác
định định mức khuyến khích, theo đó tổng thu
nhập từ lương và phụ cấp khuyến khích xấp xỉ
bằng thu nhập của cán bộ y tế cùng loại làm ở
khu vực y tế tư nhân hoặc bằng tổng thu nhập từ
lương và phụ cấp cùng phần thu từ làm thêm tại
khu vực y tế tư nhân. Các định mức và cách tính
cần thay đổi để phù hợp với sự biến đổi của bối
cảnh xã hội.
Mặc dù các chính sách khuyến khích
bằng tài chính giữ vai trò quan trọng nhưng các
chế độ khuyến khích phi tài chính cũng ngày
càng có vai trò quan trọng trong khuyến khích
cán bộ y tế. Các chính sách thu hút được thiết kế
gồm cả các khuyến khích bằng tài chính và phi
tài chính thường thành công hơn các chính sách
chỉ có một loại. Các khuyến khích theo “gói” lợi
ích dành cho từng nhóm đối tượng được khuyến
cáo nên dùng do khả năng tác động hỗ trợ lẫn
nhau của các loại lợi ích của đối tượng đích.
Như vậy, sự dịch chuyển của cán bộ y tế tại
các quốc gia chịu tác động từ nhiều yếu tố kinh
tế, xã hội và của hệ thống y tế. Để có các chính
sách điều chỉnh sự dịch chuyển của cán bộ y tế
giữa vùng khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội phát triển hơn, giữa các cơ sở y tế công
lập và các cơ sở y tế tư nhân, từ trong nước ra
nước ngoài, mỗi quốc gia cần thiết phải có các
đánh giá về các yếu tố này và các chính sách liên
quan để có các tác động điều chỉnh phù hợp.
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
60
Nhìn ra nước ngoài
TàI LIệU THAM KHảO
1. Dussault G, Franceschini MC (2006): Not Enough There, Too Many Here: Understanding
Geographical Imbalances in the Distribution of the Health Workforce, Human Resources Health
2006, 4:12.
2. Edmond Girasek, Edit Eke and Miklós Szócska (2010), Analysis of a Survey on Young Doctors'
Willingness to Work in Rural Hungary, Girasek et al. Human Resources for Health 2010, 8:13.
3. Ferrinho P, Van Lerberghe W (2000), Providing Health Care under Adverse Conditions. Health
Personnel Performance and Individual Coping Strategies. Antwerp: ITG Press, 2000, 1-245.
4. Hongoro C, Normand C, (2006) Health Workers: Building and Motivating the Workforce, In:
Disease Control Priorities in Developing Countries, Oxford University Press.
5. Grobler L, Marais BJ, Mabunda SA, Marindi PN, Reuter H, Volmink J. Interventions for Increasing
the Proportion of Health Professionals Practising in Rural and Other Underserved Areas.
Cochrane Database of Systematic Reviews 2009, Issue 1. Art. No.: CD005314. DOI:
10.1002/14651858.CD005314.pub2.
6. Marko Vujicic, et al, (2004), The Role of Wages in the Migration of Health Care Professionals from
Developing Countries, Human Resources for Health 2004, 2:3
7. Peter A. Berman, Thomas J. Bossert (2000), A Decade of Health Sector Reform in Developing
Countries - What Have We Learned, A paper prepared for the DDM Symposium “Appraising a
Decade of Health Sector Reform in Developing Countries”, International Health Systems Group,
Harvard School of Public Health.
8. Uta Lehmann, Marjolein Dieleman, Tim Martineau (2008), Staffing Remote Rural Areas in Middle-
and Low-Income Countries- A Literature Review of Attraction and Retention, BMC Health Services
Research 2008, 8:19 doi:10.1186/1472-6963-8-19
9. Padarath A, Chamberlain C, McCoy D, Ntuli A, Rowson M, Lowenson R (2003), Health Personnel
in Southern Africa: Confronting Maldistribution and Brain Drain, Equinet Discussion Paper no 4
2003.
10. Sempowski I.P, (2004), Effectiveness of Financial Incentives in Exchange for Rural and
Underserviced Area Return-of-service Commitments: Systematic Review of the Literature,
Canadian Journal of Rural Medicine, vol.9, no.2, pp.82-88.
11.Suwit Wibulpolprasert, Paichit Pengpaibon (2003), Integrated Strategies to Tackle the Inequitable
Distribution of Doctors in Thailand: Four Decades of Experience, Human Resources for Health
2003 2:16.
12. Thinakorn Noree, Harin Chokchaichan, Veerasak Mongkolporn (2005), Abudant for The Few,
Shortage for the Majority The Inequitable Distribution for Doctors in Thailand, Workshop on
Asian Action Learning Network on HRH, 3-5 August 2005, Bangkok, Thailand.
13. WHO (2004), Joint Learning Initiative. Human Resources for Health: Overcoming the Crisis,
Cambridge, MA: Global Equity Initiative, Harvard University.
14. WHO (2006), The World Health Report 2006: Working Together for Health, World Health
Organzation, Geneva.
15. WHO (2009), Increasing Access to Health Workers in Remote and Rural Areas through Improved
Retention: Global Policy Recommendations, WHO Press, World Health Organization, Geneva.
iếp theo sự kiện đáng ghi nhớ tháng 5 năm
2010 với 193 nước thành viên đồng thuận T
thông qua Chiến lược toàn cầu về giảm thiểu tác
hại của đồ uống có cồn, năm 2011 Tổ chức Y tế
Thế giới đã công bố Báo cáo toàn cầu về đồ
uống có cồn và sức khỏe 2011 (Global Status
Report on Alcohol and Health). Với mục đích
cung cấp cho người đọc bức tranh toàn cảnh về
tình hình sử dụng và gánh nặng bệnh tật do đồ
uống có cồn gây ra trên toàn cầu, các tác giả đã
cố gắng khai thác triệt để các nguồn số liệu liên
quan hiện có của mỗi quốc gia, mỗi khu vực-
nguồn số liệu do TCYTTG đã khởi xướng và nỗ
lực hỗ trợ, điều phối các nước thành viên cùng
thu thập. Một đóng góp đáng ghi nhận khác của
TCYTTG là đến 2008, Hệ thống Thông tin toàn
cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe (Global
Information System on Alcohol and Health-
GISAH) đã chính thức tiếp nhận, xử lý và hệ
thống các thông tin nêu trên với hơn 200 chỉ số
liên quan đến đồ uống có cồn.
Báo cáo 2011 dài 286 trang gồm 3 phần
chính:
Phần thứ nhất: Tình hình tiêu thụ đồ uống
có cồn ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu
với các phân tích chi tiết về lượng tiêu thụ bình
quân, tiêu thụ rượu phi chính thống (nhà nước
không quản lý được- rượu tự nấu, nhập lậu), xu
hướng tiêu dùng, tình hình tiêu dùng ở nhóm
dân số trẻ và vị thành niên, cách thức tiêu dùng
có hại đến sức khỏe.
Phần thứ hai: Hậu quả của sử dụng đồ
uống có cồn đã khái quát hóa cơ chế đồ uống có
cồn gây hại đến sức khỏe, dẫn kết quả các phân
tích gánh nặng bệnh tật (tử vong, DALYs) do sử
Báo cáo toàn cầu về đồ uống có cồn và sức khỏe 2011
1
Hoàng Thị Mỹ Hạnh
dụng đồ uống có cồn và so sánh với các yếu tố
nguy cơ khác và giới thiệu các tác hại ở cấp độ
xã hội khác.
Phần thứ ba: Giới thiệu các đáp ứng chính
sách nhằm giảm thiểu tác hại của đồ uống có
cồn ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Ngoài
ra, các tác giả cũng đã giới thiệu và phân tích các
nhóm chính sách đang phát huy được hiệu quả
trong thực tiễn tại nhiều quốc gia như: giá và
thuế, kiểm soát sử dụng rượu bia khi tham gia
giao thông, kiểm soát quảng cáo và tiếp thị,
truyền thông nâng cao nhận thức và chăm sóc
hỗ trợ điều trị.
Ngoài ra, Báo cáo còn dành 230 trang với 4
phụ lục giới thiệu các số liệu chi tiết của mỗi
nước và khu vực theo các nội dung chính nêu
trên.
Báo cáo toàn cầu về đồ uống có cồn và sức
khỏe 2011 thực sự là một nguồn dữ liệu quý đã
được TS. Ala Alwan- trợ lý Tổng giám đốc Tổ
chức Y tế Thế giới về Các bệnh không lây và Sức
khỏe tâm thần đánh giá cao trong lời tựa: “Báo
cáo này được viết để phục vụ tất cả những ai
quan tâm đến tác hại của đồ uống có cồn, là cơ
sở thông tin toàn diện về tình hình tiêu thụ và tác
hại của đồ uống có cồn, về đáp ứng chính sách
toàn cầu. Bộ Y tế các nước và các bên liên quan
có thể sử dụng Báo cáo nhằm hỗ trợ việc xây
dựng và triển khai các chính sách/can thiệp
nhằm giảm thiểu tác hại của đồ uống có cồn”.
1
Nghiên cứu viên, Khoa Nghiên cứu Xã hội học Y tế - Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế.
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
61
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_hinh_dich_chuyen_can_bo_y_te_tren_the_gioi_va_ung_pho_c.pdf