Tình hình hoạt động tại Công ty thương mại và bao bì Hà Nội

MỤC LỤC Lời nói đầu 1 I- Tóm lược về doanh nghiệp: 2 1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty: 2 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty: 3 3. Chức năng và nhiệm vụ của công ty: 4 II- Khái quát về hoạt động kinh doanh của công ty: 4 1. Môi trường kinh doanh của công ty: 4 2. Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2002: 11 III- Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty: 15 1. Giới thiệu về mặt hàng thủ công mỹ nghệ: 15 2. Đánh giá thị trường hàng thủ công mỹ nghệ trong nước và quốc tế: 16 3. Tình hình xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty: 17 4. Cách thức tổ chức và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ của HATRAPACO: 20 5. Thực trạng hoạt động marketing xuất khẩu của công ty: 22 IV- Đánh giá về tình hình xuất khẩu và hiệu quả hoạt động marketing của công ty HATRAPACO: 26 1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp: 26 2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp: 30 3. Những hạn chế trong hoạt động marketing xuất khẩu của công ty: 31 4. Đánh giá chung về điểm mạnh và điểm yếu của công ty: 33 5. Các giải pháp chiến lược: 34 V- Phương hướng và biện pháp thực hiện kế hoạch năm 2003: 34 1. Các chỉ tiêu phấn đấu thực hiện: 34 2. Các biện pháp chủ yếu: 34 Kết luận 38 LỜI NÓI ĐẦU Qua hơn 10 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, biểu hiện ở nhiều mặt trong nền kinh tế xã hội. Đời sống nhân dân được từng bước cải thiện, hàng hóa trên thị trường trong nước ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang thị trường thế giới. Đó là nhờ các đường lối, chủ trương đúng đắn của đảng và nhà nước ta. Trong đó chủ trương kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là một chủ trương đúng đắn. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo sẽ làm cho nền kinh tế của nước ta đi đúng hướng, đúng mục tiêu của Đảng, của dân ta cả về mặt kinh tế lẫn về mặt chính trị. Do đó từ năm 1989 khi nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế thì Đảng và chính phủ đã có những chính sách, định hướng để xây dựng kinh tế nhà nước trở nên vững mạnh, đặc biệt là những ngành có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Với mục đích dần xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã gây ra sự trì trệ cho nền kinh tế trong nhiều năm nên nhà nước ta đã tiến hành thành lập các công ty. Các công ty này tự tiến hành kinh doanh và hạch toán độc lập, vốn do nhà nước cấp và tiến hành nộp thuế sử dụng vốn cho nhà nước. Trong số các công ty của nhà nước thì cũng có những công ty làm ăn không có hiệu quả do sự thay đổi kinh tế. Công ty thương mại và bao bì Hà Nội ngày nay cũng ra đời trong hoàn cảnh đó. Qua hơn 10 năm hoạt động công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đó cũng chính là lý do để nhìn lại cũng như đánh gía hoạt động của công ty để từ đó thấy được những thành công và những tồn tại của công ty từ đó có thể đề ra được các giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề còn vướng mắc của công ty cũng như phát huy các yếu tố thuận lợi của công ty. Qua đây tôi cũng xin chân thành cám ơn công ty Thương mại và Bao bì Hà Nội, đặc biệt là các cán bộ trong phòng Kinh doanh 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập ở công ty. Xin trân trọng cám ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo Vũ Huy Thông, giảng viên khoa Marketing- Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp đỡ tôi hoàn thành báo cáo thực tập này.

doc43 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động tại Công ty thương mại và bao bì Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trẻ mới được tuyển dụng có trình độ, có sức trẻ do đó có thể tăng cường khả năng kinh doanh cho công ty. Khả năng quản lý của các nhà quản trị cũng khá tốt thể hiện ở việc tạo ra một bầu không khí thoải mái trong khi làm việc, nhà quản trị cấp cao nhất cũng có sự quan tâm đến đời sống của cán bộ nhân viên. Cơ cấu lao động của công ty: Chỉ tiêu Trình độ Giới tính Độ tuổi Đại học Trung cấp Sơ cấp Nam Nữ 23-30 30-45 45-60 Số lượng 20 50 69 80 59 90 29 20 Tuy nhiên với trình độ như vậy thì các nhân viên của công ty cũng chưa đủ khả năng để có thể đưa doanh nghiệp thực sự trở thành một công ty lớn của nhà nước bởi lẽ thị trường thay đổi bất thường mà khả năng cập nhật những thông tin mới của nhân viên còn thấp. Do đó việc thích ứng với từng tình huống còn chậm, thêm vào đó khả năng hoạch định hay xây dựng kế hoạch kinh doanh còn thấp. Hơn nữa việc tuyển dụng bên trong công ty còn diễn ra chậm. Do vậy việc tạo điều kiện cho những người thực sự có khả năng với những công việc nhất định được làm đúng vị trí là khó khăn. 2. Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2002: Thị trường của công ty ngày càng mở rộng với các bạn hàng trong và ngoài nước, không ngừng tăng về số lượng. Công ty đang mở rộng lĩnh vực kinh doanh và chuyên vào một số hoạt động như: - Nhập khẩu: máy móc và nguyên liệu dùng cho sản xuất như thép, giấy, hoá chất, máy dân dụng và máy công nghiệp, hàng tiêu dùng,… - Xuất khẩu: Hàng thủ công mỹ nghệ như: hàng mây tre, đồ gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ và đồ gỗ nội thất, bao bì, thảo dược, lương thực, thực phẩm và nông sản,… - Sản phẩm: Hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ nội thất, các loại bao bì giấy, các mặt hàng sử dụng vật liệu mới có nguồn gốc tự nhiên với hệ thống xưởng sản xuất hàng mây tre đan, đồ gỗ sơn mài, đồ gia dụng, gốm sứ,… - Dịch vụ: Các dịch vụ khách sạn, đại lý giao nhận và bốc xếp hàng, liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước,… 2.1. Các chỉ tiêu kế hoạch thực hiện: STT Nội dung Kế hoạch giao Thực hiện năm 2002 Tỷ lệ % so với KH giao Tỷ lệ % so với cùng kỳ 2001 1 Nhập khẩu 4,8triệu USD 6,95triệu USD 144.80 159.03 2 Xuất khẩu 0,7triệu USD 0,84triệu USD 120.00 178.72 3 Tổng doanh thu 130 tỷ đồng 170,18 tỷ đồng 130.91 151.27 4 Tổng nộp NS NN 17,88 tỷ đồng Với các chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh đã đạt được, công ty Thương mại và Bao bì Hà Nội là một trong hai công ty thành viên của Liên hiệp công ty Xuất Nhập khẩu và Đầu tư Hà Nội được UNIMEX Hà Nội, Sở Thương mại Hà Nội đề nghị thành phố tặng cờ thi đua xuất sắc hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2002 và được Liên hiệp công ty khen thưởng. 2.2. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu của công ty năm 2002 tăng trên 178,72% so với năm 2001. Ngoài việc giữ vững được thị trường và bạn hàng cũ, công ty đã mở rộng thêm thị trường và khách hàng mới ở Nga và Nhật Bản, mở rộng thêm nguồn hàng xuất khẩu về quần áo, hàng mỹ nghệ. Xưởng sản xuất mây tre đã được củng cố về tổ chức, cải tiến về kỹ thuật, chủ động sản xuất được nguồn hàng đảm bảo được cả về chất lượng và số lượng đạt yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt năm 2002 xưởng này đã cung cấp 90% nguồn hàng xuất khẩu cho công ty, sản xuất tăng 147% so với năm 2001. 2.3. Nhập khẩu: Công ty có nhiều tiến bộ rõ rệt, kết quả tăng hơn 159% so với năm 2001. Năm 2002, mặt hàng truyền thống như nguyên liệu về giấy gặp nhiều khó khăn, kim ngạch nhập khẩu về mặt hàng này bị giảm sút do thị trường trên thế giới có nhiều biến động về giá cả. Công ty đã mở rộng và đẩy mạnh thêm về các mặt hàng khác như vải, thép, xe chuyên dùng, điện tử, thực phẩm,… chiếm tỷ trọng hơn 90% so với kim ngạch nhập khẩu cả năm. 2.4. Sản xuất kinh doanh và khai thác thị trường: - Tổng doanh thu cả năm đạt 170,18 tỷ đồng tăng 151,27% so với năm 2001. Trong đó doanh thu hàng hóa do công ty sản xuất tăng hơn 130% so với năm 2001. - Từng bước chủ động bán hàng xuất khẩu trực tiếp, qua các tổ chức xúc tiến thương mại và tham gia Hội chợ trong và ngoài nước. - Duy trì và giữ vững sản xuất bao bì carton và hàng thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề ổn định, áp dụng nhiều các hình thức kinh doanh trong xuất nhập khẩu và dịch vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh - dịch vụ. - Tích cực giao dịch tìm kiếm khách hàng, bạn hàng mới, thử nghiệm áp dụng các hình thức kinh doanh mới. Xưởng sản xuất bao bì carton mặc dù gặp nhiều khó khăn, máy móc cũ, mặt bằng chật hẹp song vẫn tăng trưởng gấp 2 lần so với những năm trước. 2.5. Đầu tư: Công ty đã đầu tư thêm 1 máy bế cho sản xuất bao bì carton, xây dựng thêm 400m² nhà xưởng, trang bị 4 chiếc ôtô con mới để nâng cao năng lực sản xuất, tăng hiệu quả làm việc tại Xí nghiệp sản xuất Bao bì carton, tại Chi nhánh TPHCM, tại văn phòng công ty. Trị giá đầu tư năm 2002 là 1 480 000 000 đồng. 2.6. Công tác tài chính kế toán: - Năm 2002 công tác tài chính đã có những bước phát triển rất đáng kể và quan trọng phục vụ tốt cho các đơn vị kinh doanh của công ty. Phòng kế toán với số biên chế chỉ có 5 người nhưng đã có nhiều cố gắng tích cực trong việc huy động vốn và vay vốn ngân hàng đáp ứng kịp với tốc độ phát triển kinh doanh của các đơn vị, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. - Nộp ngân sách đạt 113,53% so với kế hoạch giao, được Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội cấp vốn lưu động bổ sung thêm 400.000.000 đồng tháng 7 năm 2002. Giải quyết việc xử lý khoản nợ phải thu khó đòi là 741.800.000 đồng từ nhiều năm nay vào kết quả sản xuất kinh doanh. - Thực hiện tốt việc báo cáo kịp thời cho các cấp các ngành với số liệu đầy đủ, lưu chuyển chứng từ chính xác không có các vụ việc xảy ra. Chấp hành tốt chế độ chính sách quản lý tài chính và các Luật định về thuế. Bảo toàn và phát triển vốn. - Từng bước chuẩn bị áp dụng đưa chế độ hạch toán kế toán phần mềm trên mạng vào hoạt động, quản lý tốt chất lượng sản phẩm, chi phí lao động, hạch toán sản xuất kinh doanh báo sổ của Xí nghiệp sản xuất bao bì carton và Chi nhánh TP HCM. Phát huy cao tính tự giác, tiết kiệm, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 2.7. Công tác tổ chức cán bộ và phối hợp hoạt động trong công ty: - Từng bước kiện toàn và ổn định về cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ ở các đơn vị mới thành lập như Chi nhánh TP HCM, Xưởng sản xuất mây tre xuất khẩu, phòng Kế hoạch và Đầu tư. Tạo cơ chế mới, phối hợp các thành phần kinh tế, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động trong sản xuất kinh doanh. - Tổ chức cho công nhân thi tay nghề, nâng lương đúng hạn, động viên kịp thời cho CBCNV. - Giải quyết đúng chế độ chính sách cho người lao động, nộp Bảo hiểm xã hội đầy đủ đúng hạn. Thu nhập bình quân đảm bảo cho người lao động đạt năm sau cao hơn năm trước. - Các cấp lãnh đạo trong công ty phối hợp chặt chẽ với nhau vì mục tiêu thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, luôn lấy nguyên tắc tập trung dân chủ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách luôn được triệt để chấp hành trong lãnh đạo Đảng, chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên. Quyền làm chủ của người lao động được tôn trọng, được quan tâm đầy đủ, người lao động được bình đẳng về môi trường làm việc phát huy khả năng sáng tạo ý thức tốt được nghĩa vụ, quyền lợi về vật chất và tinh thần, CBCNV tự giác hăng say lao động sản xuất kinh doanh. - Quan hệ tốt với các ngành chức năng, cơ quan quản lý các cấp, hệ thống ngân hàng trong việc hỗ trợ vốn cho sản xuất kinh doanh, cấp thêm vốn lưu động, làm đơn giá tiền lương 03 năm 2002-2004, duyệt quyết toán, thu hồi công nợ, mở rộng ngành hàng sản xuất kinh doanh, nâng hạng doanh nghiệp từ hạng III lên hạng II,… tạo ra động lực tổng hợp để đưa sản xuất kinh doanh tăng trưởng và phát triển bền vững. 2.8. Công tác chăm lo quyền lợi vật chất, tinh thần của CNVC: Cùng với việc thực hiện những chỉ tiêu của nhà nước giao, Chính quyền phối hợp cùng Công đoàn tổ chức cho CNVC rà soát lại hệ thống các văn bản quy chế dân chủ cơ sở. Quý I/2002 đã tổ chức tốt Đại hội CNVC 2002, ký thoả ước lao động tập thể, trên cơ sở đó cán bộ công nhân viên chức hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi được bảo đảm. Chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền lương, tiền thưởng đối với cán bộ công nhân viên. - Bình quân thu nhập: Trên 1.350.000 đồng/người/tháng. - Nhân dịp các ngày lễ lớn trong năm, công ty tổ chức cho toàn thể CBCNVC đi thăm quan du lịch ngắn ngày tại Đồ Sơn, Thác Đa,… - Đặc biệt công ty đã tổ chức cho 7 cá nhân lao động giỏi đi thăm quan khảo sát Thái Lan và 6 đồng chí cán bộ chủ chốt đi tham quan khảo sát thị trường Bắc Kinh- Thượng Hải đạt kết quả tốt. III- Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty: 1. Giới thiệu về mặt hàng thủ công mỹ nghệ: Nghề thủ công mỹ nghệ là nghề truyền thống lâu đời ở Việt Nam. Nó được hình thành từ làng nghề, phường nghề sản xuất gốm sứ ở Bát Tràng, sơn mài khảm trai ở Đình Bảng- Từ Sơn, điêu khắc ở Đồng Kỵ- Hà Bắc, Đồng Tâm- Nam Hà, đúc đồng ở Ngũ Xá- Hà Nội, mây tre ở Vạn Phúc- Thanh Trì, Ninh Sở- Hà Tây, cói đan ở Kim Sơn- Ninh Bình, Nga Sơn- Thanh Hoá, ở miền Nam có sơn mài Sông Bé, gốm Đồng Nai, đá Ngũ Hành Sơn. Những làng, vùng nghề truyền thống nêu trên có nghề truyền thống từ hàng ngàn năm nay. Nguồn lao động dồi dào và có trình độ, có kiến thức, có kỹ năng, kỹ xảo. Hàng chục vạn lao động có tay nghề cao, làm nghề chuyên nghiệp dưới sự chỉ đạo của các nghệ nhân. Ngoài ra còn có hàng triệu lao động thủ công theo thời vụ. Hiện nay đội ngũ lao động trẻ có trình độ văn hoá, nhanh, khéo tay hàng năm bổ sung một lực lượng không nhỏ. Đây là nguồm tài nguyên quý giá để vổ chức khai thác kinh doanh xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ. Nguồn nguyên liệu phong phú: Hàng thủ công mỹ nghệ được sáng tạo ra từ các nguồn nguyên liệu khác nhau ở nước ta rất sẵn như: mây, tre, song, lá cói, vỏ đay, sọ dừa, các loại gỗ, than đá, đất. Các loại kim loại khác như: Gang, đồng, sắt, vàng, bạc, bạch kim,… Với bàn tay khéo léo, người ta tạo ra các sản phẩm mỹ thuật, mỹ nghệ và thủ công có giá trị được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Đặc tính mặt hàng: Hàng thủ công mỹ nghệ vừa mang tính mỹ nghệ vừa mang tính mỹ thuật, vừa thể hiện nền văn hoá dân tộc, vừa có giá trị sử dụng. Tuy hàng thủ công mỹ nghệ không liệt vào các loại hàng tiêu dùng thiết yếu, song đời sống và dân trí càng cao thì nhu cầu về nó ngày càng nhiều. Hơn thế nữa, hàng thủ công mỹ nghệ mang những nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc mà nước khác có nhu cầu sử dụng, trao đổi. Vì vậy, tuy trong mậu dịch quốc tế hàng thủ công mỹ nghệ không chiếm tỷ trọng lớn nhưng nó trao thương với tất cả các nước trên thế giới, không nước nào không có hàng thủ công mỹ nghệ trong danh mục kim ngạch xuất khẩu. 2. Đánh giá thị trường hàng thủ công mỹ nghệ trong nước và quốc tế: 2.1. Thị trường thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam: Ở Việt Nam, hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất ra chủ yếu dành cho xuất khẩu, còn tiêu dùng ở trong nước thì rất ít. Để thực hiện chủ trương gắn sản xuất với thị trường thế giới nhằm giảm bớt khâu trung gian làm cho hàng hóa Việt Nam thích ứng với thị trường thế giới nên các doanh nghiệp nhà nước, nhà sản xuất, tư nhân rất chú ý đến việc sản xuất, thu mua và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Một số doanh nghiệp chuyên kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ cũng đều được phép tham gia xuất nhập khẩu mặt hàng này vì thế các doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt. Lượng hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng hạn chế, việc tăng năng suất cũng rất chậm vì việc sản xuất chủ yếu là thủ công. Trong khi đó số người được phép xuất khẩu rất lớn nên xảy ra tình trạng cạnh tranh trong việc kinh doanh làm cho giá cả của hàng thủ công mỹ nghệ tăng nhanh chóng và luôn thay đổi. Nguồn hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu được nhập từ các làng nghề, các xưởng sản xuất nhỏ và do tư thương nắm giữ nên các doanh nghiệp nhà nước phải mua lại hoặc xuất khẩu uỷ thác. Mặt khác, các nhà xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lại tranh nhau chào bán cho các công ty nước ngoài với các mức giá và chất lượng không đồng đều dẫn tới hiện tượng phía nhập khẩu có điều kiện ép giá hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Ngoài ra các công ty nước ngoài còn sử dụng các đơn vị, tổ chức của Việt Nam làm môi giới, đại lý vì vậy ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thâm nhập thị trường thế giới của hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta. 2.2. Giá xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới: Trước đây doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu theo Nghị định thư do nhà nước quy định, vì vậy mức giá xuất khẩu đảm bảo trong một thời gian dài và số lượng được ổn định. Cũng do việc xuất khẩu theo Nghị định thư nên giá cả của mặt hàng thủ công mỹ nghệ không được thay đổi phù hợp với sự biến động của thị trường và giá cả xuất khẩu của các nước khác. Tuy nhiên, nó đảm bảo cho công ty có mức giá ổn định, quyền lợi của công ty được bảo vệ. Từ năm 1989 trở lại đây, do có sự chuyển hướng sang cơ chế thị trường ở nước ta nên nhà nước đã bỏ chế độ quản lý giá cả đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ và hiện nay giá mặt hàng này hoàn toàn do thị trường quyết định. Trong khi đó, giá xuất khẩu có sự chênh lệch với giá quốc tế do các công ty trong nước cạnh tranh nhau trong việc xuất khẩu. Để cạnh tranh được họ luôn đưa ra các mức giá thấp hơn để tranh khách miễn là họ thực hiện được việc xuất khẩu mặc dù lãi suất thấp. Do đó chính họ đã tự phá giá xuất khẩu gây thiệt hại cho quốc gia và cả người sản xuất. Để có thể xuất khẩu được mặt hàng này là một khó khăn rất lớn trong hoạt động kinh doanh của công ty.Tuy nhiên công ty có những mối quan hệ tốt với một số bạn hàng vì vậy mặt hàng xuất khẩu của công ty được nhiều nưóc ưa chuộng, việc xuất khẩu một số mặt hàng có hiệu quả kinh tế cao như: Gốm sứ, hàng sơn mài mỹ nghệ, hàng mây tre đan,… 3. Tình hình xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty: 3.1. Thị trường chủ yếu: Ở nước ta từ năm 1985 trở về trước, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng từ 9 đến 15% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. Trong những năm qua, thị trường thủ công mỹ nghệ trên thế giới nhìn chung khá sôi động, biến đổi về cả giá cả, số lượng và tỷ trọng cácloại mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong các khu vực. Do địa lý khác nhau, văn hoá dân tộc khác nhau, trình độ phát triển kinh tế và đời sống sinh hoạt khác nhau nên tự nó hình thành nhu cầu trao đổi hàng thủ công mỹ nghệ một cách khác nhau. Như Nhật là một nước có ngành kỹ nghệ gốm sứ đạt trình độ hoàn hảo bậc nhất thế giới, thế nhưng họ vẫn nhập gốm sứ Đồng Nai, Bát Tràng về tiêu thụ tại Nhật. Còn Đài Loan là nước đã đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào ngành sản xuất đồ điêu khắc rất tinh vi và hoàn chỉnh nhưng lại là bạn hàng mua hàng điêu khắc gỗ từ Việt Nam với số lượng tương đối lớn, đạt hàng triệu USD/ năm. Thị trường của công ty hiện nay chủ yếu là các nước thuộc khối tư bản chủ nghĩa và các nước đang phát triển . Tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ sang các nước này tăng nhanh và lớn hơn so với kim ngạch xuất khẩu trước đây khi xuất sang các nước xã hội chủ nghĩa. Song đối với thị trường này thường xuyên có sự biến đổi về nhu cầu, dẫn tới sự biến động về giá cả, số lượng mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu của công ty là: Hàng gốm sứ; đồ nội thất bằng gỗ,mây, tre; hàng sơn mài. Thị trường chủ yếu của công ty bao gồm: - Châu Á: Được chia làm 3 thị trường chính: + Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc: Xuất khẩu các mặt hàng mang tính truyền thống với chủng loại phong phú nhất. + Thái Lan, Lào, Malaysia, Singapore, Ấn Độ. + Vùng Trung Cận Đông. - Châu Âu: CHLB Nga, CH Séc, Phần Lan, Đức, Ucraina, Anh, Pháp, Italia. - Châu Mỹ: Mỹ, Canada. - Châu Đại Dương: Australia. - Châu Phi: Nam Phi. 3.2. Khách hàng chủ yếu của công ty: Khách hàng của công ty rất đa dạng và phong phú về nhu cầu và đến từ nhiều quốc gia, song có thể chia làm các loại chính như sau: - Khách hàng quen biết qua các thương vụ buôn bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty. - Khách hàng được giới thiệu qua các đại lý, các trung gian thương mại hoặc các văn phòng giao dịch ở nước ngoài. - Khách hàng tự tìm đến công ty qua quảng cáo, qua các Web-site trên mạng, qua sự giới thiệu của Sở Thương mại, Trung tâm Xúc tiến thương mại,… - Khách hàng mà công ty tìm đến thông qua sự gặp gỡ ở các cuộc hội thảo, hội chợ triển lãm, … Nói chung các khách hàng của công ty hiện nay đều là những khách hàng có quan hệ vững chắc và lâu dài với công ty. Đa số trong số các khách hàng này là các công ty trung gian, các đại lý của các công ty xuất nhập khẩu nước ngoài hoặc chính các công ty nước ngoài nhưng làm nhiệm vụ như nhà phân phối. Ngoài ra còn có các tổ chức sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong nước, các công ty kinh doanh trong nước nhưng không được phép trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu. Hiện nay công ty đang phát huy mối quan hệ tốt đẹp và thường xuyên để giữ các khách hàng hiện có, mặt khác tích cực tìm kiếm thêm các bạn hàng mới. 3.3. Tổng kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường: Năm 2000 Năm 2001 8 tháng đầu 2002 Tổng kim ngạch xuất khẩu 180.000USD 600.000USD 950.000 USD Tính riêng 8 tháng đầu năm 2002 thì trong đó: - Kim ngạch xuất khẩu vào từng thị trường: + Nhật Bản: 300.000USD. + Đức: 150.000 USD. + CHLB Nga: 350.000 USD. + Mỹ và một số thị trường khác: 150.000 USD. - Kim ngạch xuất khẩu của từng loại sản phẩm của công ty: + Hàng thủ công mỹ nghệ: 580.000USD. + Đồ gỗ nội thất: 120.000 USD. + Hàng hóa khác: 250.000 USD. Như vậy ta thấy rằng tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty ngày càng tăng cao, chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2002 đã nhiều hơn tổng kim ngạch xuất khẩu của hai năm 2000 và 2001 cộng lại. Thị trường lớn nhất là hai quốc gia CHLB Nga và Nhật đã chiếm tới 68,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ là nguồn sản phẩm chính để xuất khẩu ra nước ngoài, chiếm tới 61,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. 4. Cách thức tổ chức và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ của HATRAPACO: 4.1. Biện pháp tổ chức hoạt động: - Tổ chức sản xuất: Sáng tác mẫu mã hoặc làm theo mẫu yêu cầu của khách hàng nghiên cứu công nghệ xử lý nguyên liệu, mẫu nung, sấy đến hoàn thiện sản phẩm khi ký được hợp đồng xuất khẩu, công ty giao cho các xí nghiệp và bên ngoài theo chuyên môn hoá sản phẩm theo từng công đoạn. Công ty sẽ đưa ra quyết định cuối cùng trước khi sản phẩm được lựa chọn để xuất khẩu. Việc tổ chức nghiệm thu, đóng gói, công ty tổ chức thu hóa từng sản phẩm. Người thu hoá phải kiểm tra cẩn thận và ký nhận vào sản phẩm, tránh tình trạng do có cảm tình riêng mà làm ẩu dẫn đến ảnh hưởng tới uy tín và hình ảnh của công ty. Những trường hợp vi phạm đều phải bị xử lý nghiêm minh. Sau khi nghiệm thu xong hàng được đưa vào bao bì và xếp bảo quản trong kho. - Tổ chức giao hàng: Tuỳ vào từng trường hợp và do sự thoả thuận của hai bên mà công ty có những phương thức giao hàng riêng. Các điều khoản về chi phí và cách thức tổ chức giao hàng có thể do bên mua và bên bán thực hiện và đều được quy định rõ ràng trong hợp đồng. Nhưng dù được thực hiện bởi bên nào thì HATRAPACO cũng đảm bảo giao hàng đến khâu cuối cùng sản phẩm đúng chất lượng và thời hạn đúng như quy định ở trong hợp đồng. Để nguồn hàng xuất khẩu của công ty được ổn định, công ty đã có các chính sách như: + Liên doanh, liên kết: Công ty trực tiếp liên kết với các chủ doanh nghiệp tư nhân cả hai cùng bỏ vốn kinh doanh, tỷ lệ lãi, lỗ theo tỷ lệ vốn góp nhằm để đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu. Với hình thức này công ty đã giúp người sản xuất về nguyên liệu, phương tiện sản xuất, ký hợp đồng bao tiêu với phương châm hai bên cùng có lợi. Vì vậy các nhà sản xuất có thể yên tâm về thị trường tiêu thụ của sản phẩm. Vì có nguồn hàng chủ động và thường xuyên nên công ty không bị ảnh hưởng của biến động về giá cả của những mặt hàng này và có thể tận dụng được cơ hội xuất khẩu khi giá tăng. Tuy nhiên hình thức này có hạn chế là nguồn vốn của công ty bị chia sẻ cho nhiều hoạt động khác nên hiệu quả sử dụng vốn không cao. + Hỗ trợ sản xuất: Đây là hình thức giúp đỡ của công ty với một số đơn vị khi họ mở rộng sản xuất, khi một hoặc một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có sức tiêu thụ lớn trên thị trường và các đơn vị, phân xưởng của công ty không có đủ vốn để tăng cường sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường bằng những hợp đồng rằng buộc hai bên, công ty sẽ giúp họ một số vốn nhất định để họ có thể nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như mở rộng hoạt động sản xuất. Bù lại họ phải cam kết với công ty là bán toàn bộ sản phẩm của họ cho công ty với giá ưu đãi hơn so với giá thị trường. +Xuất khẩu uỷ thác: Từ khi chuyển sang cơ chế xuất nhập khẩu trực tiếp, phương thức xuất khẩu uỷ thác được công ty khai thác triệt để. Xuất khẩu uỷ thác thực chất là các địa phương, làng nghề cung ứng toàn bộ hàng hóa,uỷ thác quyền giao dịch, quyền quyết định và đại diện quyền lợi của mình cho đơn vị nhận uỷ thác. Người uỷ thác chịu mọi chi phí liên quan đến việc xuất khẩu hàng hóa của mình như chi phí lưu kho, lưu bãi, phí vận chuyển, phí hoa hồng. 4.2. Phương thức lựa chọn và tổ chức nguồn hàng: Nguồn hàng thủ công mỹ nghệ của công ty chủ yếu được cung cấp bởi các làng nghề truyền thống, các xưởng sản xuất tư nhân và một số là do công ty sản xuất theo phát triển mấu mã, sáng tạo theo nhu cầu của khách hàng. Công ty chủ yếu thu gom hàng thủ công mỹ nghệ theo chuyên môn hoá sản phẩm từ các làng nghề truyền thống và các xưởng sản xuất tư nhân ở những vùng sau: - Ở Hà Nội: + Bát Tràng- Gia Lâm: Hàng gốm sứ. + Kiêu Kỵ- Gia Lâm: Hàng giầy dép, cặp túi bằng da. + Vân Hà- Đông Anh: Đồ gỗ nội thất. + Chu Hồng- Đông Anh: Bàn ghế, tràng kỷ bằng tre. + Ngũ Xã- Ba Đình: Đúc nhôm. - Ở Hà Tây: + Chương Mỹ: Hàng mây tre đan. + Thường Tín: Hàng gỗ mỹ nghệ, tượng bằng gỗ, đá, sừng. + Phú Xuyên: Hàng sơn mài, khảm trai, mây tre. + Thạch Thất: Hàng mây tre song. + Vạn Phúc- TX Hà Đông: Vải, lụa tơ tằm. - Ở Bắc Ninh: + Đình Bảng- Từ Sơn: Hàng gỗ mỹ nghệ. + Đồng Kỵ- Gia Lương: Bàn ghế điêu khắc. + Đại Bái- Gia Lương: Đúc đồng. - Ngoài ra còn một số vùng khác như cói ở Ninh Bình, mây xiên ở Đồng Văn- Hà Nam, mành tre ở Văn Giang- Hưng Yên,… 5. Thực trạng hoạt động marketing xuất khẩu của công ty: Qua việc xem xét cơ cấu tổ chức của công ty ta có thể thấy rằng công ty chưa có một phòng marketing riêng biệt. Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệm vụ của mỗi phòng. Hai phòng kinh doanh, phòng kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc tổ chức hoạt động xuất khẩu các mặt hàng. Các phòng tự chịu trách nhiệm trong việc tìm kiếm bạn hàng, thực hiện các thương vụ xuất nhập khẩu. Mỗi năm công ty tự lập kế hoạch thông qua đánh giá khả năng của mình và giao cho mỗi phòng. Từ đó, các cá nhân trong phòng lại lập kế hoạch đưa ra các biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Vì vậy, mặc dù không có phòng marketing riêng biệt nhưng mỗi phòng đều có sự tiến hành các hoạt động marketing riêng lẻ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng. Các hoạt động marketing của cán bộ nhân viên mỗi phòng đã thực hiện các nghiệp vụ marketing chủ yếu sau: 5.1. Nghiên cứu thị trường: Việc nghiên cứu thị trường chủ yếu qua các hoạt động buôn bán trực tiếp với các thương nhân. Công ty đã thu thập được những thông tin về thị trường như quy mô thị trường, đặc điểm khách hàng, sự biến động của nhu cầu,… chủ yếu thông qua các bạn hàng truyền thống của công ty, thông qua hội chợ, hội thảo về sản phẩm và một phần qua kinh nghiệm kinh doanh xuất nhập khẩu quốc tế. Qua hoạt động thương mại quốc tế, công ty có sự hiểu biết sâu sắc về đặc điểm thị trường nước ngoài mà công ty đang tiến hành xuất khẩu. Ngoài ra qua các bảng thống kê hàng năm của các tổ chức, hiệp hội có liên quan trên các tạp chí, đặc san chuyên ngành, công ty có điều kiện nhận ra được các thông tin cần thiết về thị trường. Từ đó công ty xác định được nhu cầu của mỗi thị trường về mặt hàng thủ công mỹ nghệ hoặc khả năng mở rộng thị trường có thể có. Sau đó công ty có thể có các biện pháp chào hàng thích hợp để tìm kiếm bạn hàng mới. 5.2. Các chính sách về sản phẩm: Mặt hàng thủ công mỹ nghệ vừa mang tính mỹ nghệ vừa mang tính mỹ thuật, vừa thể hiện nền văn hóa dân tộc vừa có giá trị sử dụng. Hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm nhiều ngành hàng và chủng loại mặt hàng. Mỗi mặt hàng lại có nhiều chủng loại mẫu mã. Trong số các mặt hàng chủ yếu thủ công mỹ nghệ HATRAPACO chọn 3 mặt hàng để sản xuất kinh doanh là hàng gốm sứ Bát Tràng, hàng song mây tre, sơn mài và hàng gỗ. Cả 3 mặt hàng này công ty đặt xưởng sản xuất ở đúng vùng nghề truyền thống: Gốm sứ xuất khẩu tại Bát Tràng, xưởng mây tre sơn mài tại Phú Xuyên- Hà Tây, xưởng gỗ tại Thường Tín- Hà Tây, vì vậy mà sản phẩm của công ty có được những đặc tính về mẫu mã, hình dáng, chất lượng cao có giá trị sử dụng, công ty đã hết sức chú trọng trong việc khai thác triệt để nguồn vốn cổ trong việc tạo mẫu đồng thời nâng cao tính mỹ nghệ trong các mặt hàng. Đối với sản phẩm trước khi xuất khẩu công ty đã cho kiểm tra lại chất lượng của các mặt hàng, tránh tình trạng xuất khẩu mặt hàng không đúng yêu cầu, chất lượng kém làm giảm uy tín của công ty. Việc vận chuyển và bảo quản công ty có những kho chứa cho từng loại hàng. Với sản phẩm thu mua ở các chủ doanh nghiệp tư nhân thì dược các xưởng của công ty đảm nhận với việc lắp ráp, kiểm tra mẫu mã và đóng gói. Các sản phẩm của công ty khi xuất hiện trước các bạn hàng đều đảm bảo yêu cầu đủ về số lượng, đảm bảo chất lược, hình dáng bao bì với đầy đủ thông số kĩ thuật của loại sản phẩm đó. Công tác vận chuyển sản phẩm, công ty thường dùng các loại xe chuyên dùng để chuyên chở và thường là trong các container, các thuyền tầu để vận chuyển, đảm bảo sự an toàn chắc chắn của sản phẩm. 5.3. Các chính sách về kênh phân phối: Như trên đã đề cập, mặt hàng thủ công mỹ nghệ đòi hỏi các điều kiện khắt khe trong việc lưu giữ, bảo quản. Vì vậy mà kênh phân phối của công ty thường là kênh cấp 1 và cấp 2. HATRAPACO Công ty nhập Người sử dụng HATRAPACO Công ty nhập Đại lý TM Người sử dụng Với kênh phân phối như vậy công ty đã giảm được đáng kể về chi phí cho trung gian chi phí vận chuyển bốc dỡ. Hàng của công ty đến công ty nhập và người tiêu dùng đúng hạn và đạt yêu cầu chất lượng. 5.4. Các chính sách về giá cả: Trong tình trạng hiện nay, các công ty trong nước đang cạnh tranh nhau để có nguồn hàng xuất khẩu sau đó lại cạnh tranh để xuất khẩu được mặt hàng này. Vì vậy giá của mặt hàng thủ công mỹ nghệ nội địa tăng giảm thất thường, các công ty nước ngoài có điều kiện ép giá, dìm giá làm cho giá xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ giảm. HATRAPACO cũng đang nằm trong tình trạng này, giá nhập vào cao, giá xuất đi thấp lãi thu được thấp. Để giải quyết tình trạng này, công ty đã xem xét giảm thiếu các chi phí như chi phí lưu thông, chi phí kho bãi, chi phí bao bì đóng gói, hoa hồng… đảm bảo thời gian lưu kho càng ngắn càng tốt. Để cạnh tranh được với các công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ khác, công ty đã tận dụng ưu thế của mình là nguồn hàng vững chắc thường xuyên ổn định để giữ uy tín của công ty cùng với nó là việc công ty hạ giá bán, thu lợi nhuận ít, luân chuyển nhanh nguồn vốn lưu động tăng được khối lượng bán. 5.5. Các chính sách xúc tiến khuếch trương: Công ty thực hiện các thông tin quảng cáo như in ấn, catalogue,… đăng quảng cáo, giới thiệu về công ty và các sản phẩm của công ty trên báo, tạp chí, Web- site,… Mặt khác công ty có các phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm ở trong nước và một số nước có thị trường lớn. Ngoài ra công ty cũng tham gia vào các cuộc hội chợ triển lãm, các buổi hội thảo thương mại để giới thiệu về công ty và các mặt hàng của công ty. Bán hàng trực tiếp: Đối với hình thức này công ty đã cử người đến những nơi tiêu thụ lớn và các công ty của nước ngoài tại Việt Nam, các đại sứ quán của các nước. Còn đối với người tiêu dùng cuối cùng, công ty mở các cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc sử dụng các cửa hàng chuyên doanh để chào hàng. Tuyên truyền: Song song với việc quảng cáo, tuyên truyền trong thời gian qua cũng mang lại cho công ty hiệu quả lớn trong việc đề cao uy tín của công ty. Nhờ có sự duy trì tốt với báo chí, với các phương tiện thông tin đại chúng, đã có những bài viết về tình hình kinh doanh của công ty, về vai trò và trách nhiệm của công ty trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Đây là hình thức khuếch trương mang lại hiệu quả cao mà chi phí lại thấp nên trong tương lai công ty cần phải tăng cường. IV- Đánh giá về tình hình xuất khẩu và hiệu quả hoạt động marketing của công ty HATRAPACO: 1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp: 1.1. Xu hướng tất yếu của sự trao đổi hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới: Tuy hàng thủ công mỹ nghệ không liệt vào các loại hàng tiêu dùng thiết yếu song đời sống và dân trí càng cao thì nhu cầu về loại mặt hàng này càng nhiều. Hơn thế nữa, hàng thủ công mỹ nghệ mang những nét đặc trưng riêng cho mỗi dân tộc mà những nước khác có nhu cầu tìm hiểu và sử dụng. Vì vậy, ngày nay hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của mỗi gia đình ở nhiều quốc gia trên thế giới. Như ta đã biết, mặt hàng thủ công mỹ nghệ là một mặt hàng chủ yếu được sản xuất bằng thủ công và có truyền thống từ lâu đời. Cùng với sự phát triển của công nghiệp và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người ta đã ứng dụng vào sản xuất thủ công mỹ nghệ thay thế một phần lao động thủ công vất vả mà lại cho năng suất thấp. Ví dụ: Trong ngành gỗ điêu khắc, đá điêu khắc, người ta đã sử dụng kỹ thuật hiện đại như máy cưa, máy đục, máy đánh bóng,… để thay thế các công cụ thô sơ và giảm sự vất vả cho con người. Ngành gốm đã đưa lò ga, lò điện thay thế dần cho các lò đốt củi, đốt than. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào ngành sản xuất thủ công giúp cho năng suất lao động cao hơn, phẩm chất tốt hơn, đồng thời những công đoạn quyết định để thể hiện hàng thủ công mỹ nghệ vẫn được làm bằng tay, tinh xảo và tỉ mỉ nhằm giữ nguyên tính chất thủ công mỹ nghệ của sản phẩm. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới đều mang bản sắc dân tộc riêng về văn hoá và nghệ thuật, vì vậy mỗi nước đều có ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ vẫn mãi mãi tồn tại cho dù nền sản xuất phát triển đến trình độ nào. Sản xuất thủ công mỹ nghệ tồn tại và phát triển do nhu cầu luôn đòi hỏi. Ở Nhật Bản ngành gốm sứ phát triển đến trình độ hoàn hảo song vẫn nhập gốm sứ từ Đồng Nai, Bát Tràng của Việt Nam. Hàng mây, tre, lá thêu của nước ta bán sang các nước trên thế giới như Italia, Pháp, Đức, Nauy, Hà Lan, … với số lượng rất lớn. Đài Loan có ngành điêu khắc gỗ rất tinh vi nhưng vẫn nhập nhiều bộ bàn ghế điêu khắc từ Đồng Ky- Bắc Ninh. Sở dĩ có sự mua bán hàng thủ công mỹ nghệ giữa các quốc gia là do có sự chênh lệch về giá cả, phẩm chất, lợi thế so sánh ở mỗi quốc gia và trên hết là do tính độc đáo riêng biệt của văn hoá nghệ thuật giữa các quốc gia và dân tộc. Như vậy cùng với hàng loạt các loại hàng hóa khác, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giữa các quốc gia cũng là xu hướng tất yếu. Quy mô xuất nhập khẩu của nó sẽ phát triển cùng với sự phát triển kinh tế của mỗi nước và của các quốc gia trên toàn thế giới. 1.2. Môi trường chính trị và luật pháp: Môi trường chính trị và luật pháp có thể tác động tới hành vi của các hãng kinh doanh nhưng có thể không phải là một bộ phận chính sách của chính phủ. Những hoạt động của các cơ quan ở mọi cấp gắn với chủ quyền trong phạm vi quốc gia và vượt ra khỏi phạm vi quốc gia sẽ chi phối những quyết định marketing xuất khẩu của các hãng khi tham gia thương mại quốc tế. Phạm vi và mức độ quan tâm tới marketing xuất khẩu và tính tất yếu của mối quan hệ đó đối với bất kỳ một chính phủ nào, phụ thuộc vào một phần loại hình của hệ thống pháp luật. Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế của quốc gia và nền kinh tế thế giới bằng việc thở thành một thành viên, người lập kế hoạch, người điều khiển hay người kích thích do vậy mà tác động đến hoạt động marketing quốc tế như một lực lượng môi trường. a. Môi trường chính trị và luật pháp trong nước: Hiện nay nước ta đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Các doanh nghiệp trong nước được giao vốn kinh doanh theo nguyên tắc lấy thu bù chi và có lãi. HATRAPACO cũng có trách nhiệm và quyền hạn như vậy. Theo quyết định của Chính phủ và Sở Thương mại, HATRAPACO có quyền tự do và trực tiếp xuất khẩu. Hiện nay nhà nước đã khuyến khích hoạt động xuất khẩu trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là các mặt hàng đã được chế biến. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta đã được sản xuất, chế biến đến trình độ tinh vi của sản phẩm, có giá trị sử dụng cao. Vì vậy nhà nước cần có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất và xuất khẩu làm tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành này trong tổng kim ngạch quốc nội. Hiện nay Chính phủ chưa có một văn bản chính thức quy định về việc thu mua và xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Có thể nói kinh doanh thu mua và xuất khẩu mặt hàng này bị nhà nước thả nổi, các công ty trong và ngoài nước mạnh ai nấy làm, không theo một trật tự nào. Nhưng nói chung cũng như nhiều mặt hàng khác, mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng được khuyến khích xuất khẩu với mức thuế thấp. b. Môi trường chính trị và luật pháp của các nước nhập khẩu: Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có giá trị sử dụng cao với những nét văn hoá độc đáo, có rất nhiều quốc gia trên thế giới sản xuất và tiêu thụ mặt hàng này. Nhưng không phải mặt hàng thủ công mỹ nghệ của quốc gia nào cũng như nhau vì nó mang bản sắc dân tộc của mỗi nước. Bạn hàng của HATRAPACO rất đa dạng và có nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Hiện nay bạn hàng chủ yếu của công ty là các nước tư bản chủ nghĩa và các nước có nền kinh tế đang phát triển, ở những nước này có sự ổn định về chính trị và luật pháp. Mức thuế xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở các nước này tuy có khác nhau nhưng biến động nhỏ, ít thay đổi. Mức thuế nhập khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của các nước có bạn hàng của HATRAPACO thường là từ 10 - 15% và hiện nay đang có xu hướng giảm dần. Trước đây tỉ giá hối đoái giữa các ngoại tệ mạnh như Rúp - Nga, Bảng - Anh, Mác - Đức, Đôla - Mỹ với nội tệ ổn định thì việc xác đinh của mặt hàng này khá dễ dàng. Trong một số năm gần đây do có ảnh hưởng của việc phá giá đồng tiền của một số nước và khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á nên tỉ giá đồng VNĐ so với các quốc gia khác bị biến động mạnh gây khó khăn cho việc định giá mặt hàng này. Vì vậy ảnh hưởng tới việc xuất nhập khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty. Nói chung do có nét đặc trưng của mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nên công ty có lợi thế trong việc xuất khẩu ít gặp phải sự cản trở của các quốc gia nhập khẩu mặt hàng này. Thêm vào đó, đồng VNĐ giảm giá như thời điểm hiện nay từ 14.000VNĐ /USD năm 2000 còn hơn 15.000VNĐ /USD năm 2002 là rất có lợi cho công ty trong việc xuất khẩu vì giá bán hàng của công ty sẽ hạ, tăng sức cạnh tranh với các quốc gia xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ khác. 1.3. Tình hình cạnh tranh trên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ: Một trong những lực lượng môi trường tác động đến chiến lược marketing của công ty đó là tình hình cạnh tranh trên thị trường. Mỗi hãng phải tìm kiếm những hoạt động marketing để giữ vững vị trí của mình trên thị trường. Cạnh tranh xẩy ra là do các hãng kinh doanh trong quá trình tìm chỗ đứng trên thị trường trong nền kinh tế thế giới cố gắng tạo nên tính độc đáo cao nhất cho sản phẩm. Để có được một kế hoạch hoá marketing quốc tế phù hợp thì điều quan trọng nhất đối với hãng là phải hiêủ biết về cơ cấu cạnh tranh, số lượng, loại cạnh tranh và các hoạt động của đối thủ. Những công cụ cạnh tranh tồn tại cùng với các quyết định về sản phẩm, giá cả, kênh phân phối và xúc tiến khuếch trương. Điều này có liên quan đến những sản phẩm mà đã có những tiêu chuẩn quốc tế hay được phân hạng theo những tiêu chuẩn đã được thừa nhận. Với sản phẩm thủ công mỹ nghệ vì mặt hàng này có rất nhiều quốc gia có khả năng sản xuất và xuất khẩu nên chất lượng và giá cả của sản phẩm đã được xác định theo nhu cầu tiêu thụ của mặt hàng thủ công mỹ nghệ của mỗi nước đều có đặc điểm riêng và có tính đặc thù về sản phẩm. Hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt nên giá cả cũng luôn thay đổi và thích ứng với thị trường. Đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty do tình hình cung ứng rất phức tạp, cung có khi tăng nên và cầu có khi giảm nên thị trường ngày càng bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân cạnh tranh giữa các nước cùng sản xuất mặt hàng này như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Đài Loan,… Chính vì lẽ đó, mức giá đưa ra cao hay thấp để đạt được hiệu quả và lãi suất đối với công ty vẫn còn đang ở phía trưóc. Tình hình cạnh tranh trong nước đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ cũng đang diễn ra gay gắt, đối thủ cạnh tranh hiện nay của công ty như công ty ARTEXPORT, công ty Lam Sơn, công ty ARTEX Thăng Long,… Các công ty này đang cạnh tranh với công ty trong việc thu mua, lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Công ty đã bị mất một số bạn hàng do các công ty này, do vậy kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng không cao và tăng trưởng chậm. 2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp: 2.1. Đánh giá về khả năng tài chính của công ty: Hiện nay vốn pháp định của công ty bao gồm cả vốn nhà nước cấp và vốn tự có của công ty. Công ty có trách nhiệm bảo toàn vốn, nộp thuế vốn do nhà nước cấp và kinh doanh có lãi. Những năm gần đây thì tốc độ lưu chuyển vốn của công ty là khá hiệu quả, công ty được đánh giá là một trong những doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả cao. 2.2. Đánh giá khả năng cung ứng hàng thủ công mỹ nghệ của công ty: Trong tình hình hiện nay khi nhà nước gần như thả nổi hoạt động xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ,các công ty cạnh tranh giành nguồn hàng, việc thu mua được một lượng hàng đủ lớn để xuất khẩu là rất khó đối với mỗi công ty. Nhưng nhờ có sự giao dịch buôn bán lâu dài và giữ được uy tín nên hàng năm công ty vẫn có được nguồn hàng ổn định để xuất khẩu. Nhờ phương thức thu mua có hiệu quả công ty như liên doanh, liên kết sản xuất, hỗ trợ sản xuất, trực tiếp sản xuất hoặc mua tại nơi sản xuất nên hàng năm công ty có khả năng xuất khẩu nhiều loại mặt hàng thuộc ngành hàng thủ công mỹ nghệ như: Gốm sứ, sơn mài, mây tre, đồ gỗ mỹ nghệ, … cho hơn 20 quốc gia, thị trường trên thế giới. Nhưng trên thực tế công ty chưa khai thác được toàn bộ khả năng của mình. Vấn đề đặt ra ở đây đối với công ty là cần thiết phải mở rộng được thị trường, tăng số lượng bạn hàng thường xuyên có mức tiêu thụ lớn. Để mở rộng thị trường và tìm lại khách hàng đã mất, công ty phải tận dụng triệt để những lợi thế công ty là nguồn hàng sẵn có, chất lượng sản phẩm cao, ổn định. Hơn nữa công ty đã sẵn có một hệ thống kho bãi, phương tiện vận chuyển chuyên trách vì vậy điều kiện cung cấp hàng của công ty cho các bạn hàng dễ dàng hơn. 3. Những hạn chế trong hoạt động marketing xuất khẩu của công ty: Qua việc xem xét cơ cấu và tổ chức của HATRAPACO, ta thấy công ty chưa có một bộ phận marketing riêng biệt cho từng bộ phận xuất khẩu và nhập khẩu. Mọi hoạt động marketing của công ty đều tiến hành riêng lẻ của từng phòng. Toàn bộ hoạt động xuất khẩu chưa có một kế hoạch, chiến lược marketing chung. Các hoạt động marketing của mỗi phòng đều chỉ phục vụ cho mục tiêu của phòng mình mà chưa có sự phối hợp, hỗ trợ giữa các phòng với nhau. Kế hoạch và mục tiêu xuất khẩu hàng năm của công ty đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ không được xác định đầy đủ, chu đáo, mang tính kinh nghiệm, cảm tính nhiều hơn sự phân tích, đánh giá nhu cầu thị trường và khả năng cung ứng của công ty một cách khoa học, vì thế các kế hoạch của công ty không đạt được hiệu quả 100%. Nhìn chung các biện pháp marketing của công ty chưa có sự liên kết với nhau. Hoạt động marketing của các phòng ban còn riêng rẽ chưa có sự phối hợp hài hoà. Công ty chưa có chiến lược marketing chung và thường xuyên cho hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên thông qua các hoạt động của các phòng xuất nhập khẩu cũng rút ra được những kinh nghiệm đáng kể trong việc hoạch định các chiến lược marketing phù hợp cho phòng mình và tìm kiếm được nhiều khách hàng hơn. Qua những phân tích ở trên ta thấy có một số vấn đề rất lớn còn tồn tại trong hoạt động marketing xuất khẩu của công ty, đó là: - Cũng như hầu hết các doanh nghiệp trong nước, ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong công ty chưa có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của hoạt động marketing trong hoạt động kinh doanh nói chung và tác dụng của marketing quốc tế đối với công tác xuất nhập khẩu nói riêng. - Cũng chính vì không có những nhận thức đúng đắn về vai trò của marketing quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nên công ty thiếu hẳn một loạt các hoạt động marketing quốc tế như: Thu thập thông tin, tìm kiếm, nghiên cứu thị trường, xác định các đoạn thị trường mục tiêu,… để từ đó đề ra và tổ chức thực hiện các chính sách marketing-mix thích hợp. - Các hoạt động có tính chất marketing của công ty như tuyên truyền, quảng cáo, giao tiếp khuếch trương,… Mặc dù đã được thực hiện triệt để song công việc này không được diễn ra thường xuyên. Vì vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chưa được phát huy hết khả năng. Từ thực tế như vậy nên ta có thể thấy sự cấp bách phải thiết lập cho công ty một chiến lược marketing quốc tế thích hợp và có tính khả thi để phát huy hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. 4. Đánh giá chung về điểm mạnh và điểm yếu của công ty: 4.1. Điểm mạnh: Qua nghiên cứu chung ta thấy có một số điểm mạnh sau: Thứ nhất, công ty thuộc sở hữu nhà nước do đó tạo sự tin cậy hơn đối với các đối tác kinh doanh, đồng thời công ty luôn được sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên nên có thể đưa ra được các biện pháp phù hợp khi gặp khó khăn. Ngoài ra công ty còn được hưởng các ưu đãi nhờ các chính sách của nhà nước ban hành với mục đích hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, là công ty được cấp vốn hàng năm với hình thức vay ưu đãi. Thứ ba, công ty có một đội ngũ lao động kinh nghiệm qua 14 năm hoạt động. Thứ tư, công ty có một không khí làm việc thoải mái, tập thể đoàn kết có sự phối hợp, hỗ trợ thống nhất khi làm việc. Thứ năm, công ty đã hoạt động được nhiều năm, do đó có nhiều khách hàng cũng như các nhà cung cấp thường xuyên và tin cậy. 4.1. Điểm yếu: Ngoài những điểm mạnh như đã nêu ở trên, trong công ty còn một số điểm yếu như sau: Thứ nhất, khả năng huy động vốn chậm do đó không linh hoạt trong kinh doanh cũng như khả năng cung ứng hay mua hàng bị hạn chế nên dễ bỏ lỡ các thời cơ kinh doanh. Thứ hai, bộ máy quản lý còn cồng kềnh. Thứ ba, khả năng mạo hiểm trong kinh doanh là ít do đó lợi nhuận trong kinh doanh không cao. Thứ tư, trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong thời đại mới. Thứ năm, công tác quản trị của công ty đang được tiến hành theo các nguyên tắc vốn có của quản trị. Tuy nhiên việc xác định được trọng tâm của mỗi một hoạt động quản trị còn khó khăn và đôi khi còn chưa phù hợp với tình hình hiện tại. 5. Các giải pháp chiến lược: Thứ nhất, phải xác định được mục tiêu rõ ràng khi ra một quyết định nào đó. Thứ hai, cũng phải có sự mạo hiểm trong kinh doanh, tuy nhiên mạo hiểm cũng phải dựa trên cơ sở có sự phân tích trước tình hình, áp dụng các phương pháp tính sự mạo hiểm như phương pháp cho điểm. Thứ ba, phải xác định mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của công ty để từ đó có các hoạt động cụ thể. Thứ tư, đôi khi phải chấp nhận sự thua thiệt trước mắt để có lợi hơn trong tương lai. Ví dụ như có thể chấp nhận mua hàng của một nhà cung ứng thường xuyên cho công ty khi họ gặp khó khăn để giúp họ có thể vượt qua thời kỳ khó khăn. V- Phương hướng và biện pháp thực hiện kế hoạch năm 2003: 1. Các chỉ tiêu phấn đấu thực hiện: - Nhập khẩu : 7,7 triệu USD. - Xuất khẩu : 0,9 triệu USD. - Tổng doanh thu : 180 tỷ đồng VN. - Thu nhập bình quân : tăng 10% so với năm 2002. 2. Các biện pháp chủ yếu: 2.1. Kinh doanh hàng xuất khẩu: - Giữ vững và đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng nguyên liệu về giấy và bao bì, thép, vải, tơ, thiết bị, phụ tùng, nhựa phục vụ cho sản xuất. Mặt hàng mở rộng kinh doanh các ngành hàng mới như điện tử, xe chuyên dùng, máy móc,… - Từng bước chủ động nhập khẩu các mặt hàng tự doanh nhằm thu lợi nhuận ngày càng cao. 2.2. Về xuất khẩu: - Giữ vững và ổn định hệ thống khách hàng ngoại đối với mặt hàng mây tre đan và thủ công mỹ nghệ. - Mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm của hàng hóa trong xưởng sản xuất mây tre đan nhằm đảm bảo tốt tiêu chuẩn xuất khẩu. - Mở rộng quan hệ với các xưởng sản xuất từ các làng nghề, các xưởng chuyên sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chất lượng cao thông qua các hình thức liên doanh, hợp tác sản xuất nhằm đáp ứng nhanh chóng hơn các yêu cầu của khách hàng. - Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tiến tới thành lập văn phòng đại diện của công ty ở Nhật Bản, chú trọng các thị trường có tiềm năng xuất khẩu hàng của Việt Nam. 2.3. Về sản xuất- đầu tư: - Tiếp tục đầu tư thêm máy móc thiết bị cho khối sản xuất, tăng năng suất chất lượng sản phẩm, thiết bị văn phòng, phương tiện tiên tiến phục vụ quản lý sản xuất kinh doanh, xúc tiến dự án thuê đất 5000m² đến 6000m² trong khu công nghiệp phục vụ dự án thành lập xưởng sản xuất bao bì carton 3 đến 5 lớp, công xuất từ 120 đến 180 mét/phút, thiết bị nhập khẩu đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. - Xúc tiến đồng thời dự án chuyển mục đích sử dụng 1250m² đất đầu tư thành khu nhà ở cao tầng, tăng hiệu quả sử dụng đất tại đô thị, tạo vốn cho đầu tư chiều sâu. 2.4. Về công tác tài chính kế toán: - Trong quý I/ 2003 hoàn thành việc cài đặt và đưa vào sử dụng phần mềm kế toán cho toàn công ty, xí nghiệp, chi nhánh và xưởng sản xuất phục vụ kịp thời công tác hạch toán kế toán cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. - Củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đến các đơn vị nhằm cung cấp được các báo cáo về số liệu kịp thời, chính xác đồng thời đảm bảo an toàn về quản lý tài chính. Duy trì tốt chế độ báo cáo, xử lý tốt các nguồn thông tin, kịp thời điều chỉnh các vấn đề chưa phù hợp trong hệ thống quản lý, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Tổng kết rút kinh nghiệm các mô hình quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh mới đã áp dụng, phát huy thế mạnh, giảm thiểu yếu điểm. - Tích cực thu hồi công nợ khó đòi còn thông tồn đọng trong nhiều năm qua. - Củng cố và quan hệ tốt với các ngân hàng để tạo ra nguồn cung cấp vốn ổn định cho các đơn vị kinh doanh. - Làm việc tốt với các ban ngành thành phố nhằm tranh thủ sự giúp đỡ trong việc duyệt quyết toán năm, xếp hạng doanh nghiệp, duyệt quỹ lương và đặc biệt trong việc xin cấp bổ sung vốn lưu động, tháo gỡ các cơ chế tài chính có lợi cho sự phát triển của công ty. 2.5. Về công tác tổ chức cán bộ và phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong công ty: - Tiếp tục tăng cường đoàn kết, duy trì sự phối hợp lãnh đạo tốt giữa các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên, thanh niên. Phát huy tính chủ động sáng tạo của người lao động, hưởng ứng các phong trào thi đua lao động sản xuất, phấn đấu hoàn thành kế hoạch trong cả năm 2003. - Bổ sung cán bộ nghiệp vụ có trình độ chuyên môn phù hợp, công nhân kỹ thuật có tay nghề vào những nơi cần, thiếu. Đào tạo lại, nâng cao trình của đội ngũ lãnh đạo các bộ phận, cán bộ nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của công ty trong giai đoạn mới. Từng bước nghiên cứu thực hiện trả lương theo hiệu quả công tác để kích sản xuất kinh doanh. - Phát huy tốt nhất quyền làm chủ của người lao động, phối hợp hiệu quả giữa chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên trong việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần của CBCNV, chăm lo điều kiện làm việc, bảo hộ lao động, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí, chế độ khen thưởng, kỷ luật, khuyến khích cả vật chất lẫn tinh thần, tạo môi trường bình đẳng cho CBCNV thi đua lao động sản xuất kinh doanh năng động, sáng tạo. - Quan hệ tốt hơn nữa với các ngành, các cấp trong hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư bổ sung thêm vốn lưu động với các ngân hàng thương mại trong việc huy động vốn đủ cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ xuất nhập khẩu. Tích cực thu hồi công nợ tồn đọng, nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bằng nỗ lực cố gắng của tập thể CBCNV toàn công ty, sự đoàn kết thống nhất ý chí, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp lãnh đạo, Đảng, chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên. Phát huy truyền thống đã đạt được năm 2002, khắc phục các nhược điểm, công ty Thương mại và Bao bì Hà Nội quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cấp trên giao, phấn đấu trở thành một trong những công ty thành viên mạnh trong mô hình mới của liên hiệp. KẾT LUẬN Qua việc đi sâu tìm hiểu tình hình sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ, tôi đã thấy được những điều kiện thuận lợi, khó khăn cũng như hiểu được phần nào về quá trình sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty HATRAPACO. Việc tạo mọi điều kiện, khuyến khích sản xuất và đầu tư vào xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là điều cần thiết. Nó góp phần giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cho người lao động. Không những thế, việc giữ gìn và phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ mà ông cha ta đã để lại. Đó là một tài sản quý báu mà lớp người đi sau như chúng ta được kế thừa và phát huy. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng công ty vẫn từng bước phát triển đi lên vững chắc. Để đạt được điều này trước hết phải kể đến sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, các bạn hàng, các nhà cung cấp cũng như sự sáng tạo, tìm tòi cố gắng vươn lên của bản thân cán bộ công nhân viên trong công ty. Trong thời gian thực tập tại công ty, tôi đã cố gắng tìm hiểu mọi hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ đó mạnh dạn đề xuất những biện pháp hoàn thiện hoạt động marketing xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty. Tuy nhiên do thời gian thực tập có hạn, trình độ còn hạn chế nên bản báo cáo thực tập tổng hợp này khó tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để báo cáo được thêm hoàn chỉnh. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA9350.DOC
Tài liệu liên quan