Trước khi chương trình 1 triệu tấn mía đường ra đời, sản xuất mía đường nước ta mới chỉ đáp ứng được mức tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm 6 – 7 kg/người, trong khi mức tiêu thụ bình quân thế giới là 20 – 21 kg/người. Thị trường mía đường nước ta luôn mất ổn định do cung chưa đáp ứng cầu. Mỗi năm nước ta phải nhập trên 20% tổng lượng đường tiêu thụ trong nước (hàng chục vạn tấn). Xét về mặt kinh tế xã hội thì với điều kiện tự nhiên và lao động của nước ta lúc đó là tạo cân đối cung cầu về đường bằng cách nhập khẩu là không hiệu quả so với đầu tư phát triển sản xuất mía đường trong nước. Trước tình hình đó vấn đề cấp bách đặt ra là làm thế nào để tổ chức lại các vùng mía, đảm bảo đủ nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy đường, cân đối được nhu cầu đường trong nước.
Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế “Những giải pháp kinh tế chủ yếu để hình thành và phát triển vùng nguyên liệu mía cho các nhà máy đường Việt Nam” -Đinh Quang Tuấn (năm 1996), đã tập trung nghiên cứu những vấn đề kinh tế chủ yếu để xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu mía trong bối cảnh xoá bỏ cơ chế kinh tế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, trên cơ sở phân tích thực trạng vùng nguyên liệu mía nước ta giai đoạn 1984 – 1994.
30 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động và phát triển của Bộ kế hoạch và đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Việt Nam ra nước ngoài.
Điều hoà và phối hợp việc thực hiện các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân; chịu trách nhiệm điều hành thực hiện kế hoạch về một số lĩnh vực do Chính phủ giao; làm đầu mối phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong việc xử lý các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp của nước ngoài và các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư trên.
Làm Chủ tịch các Hội đồng cấp Nhà nước; Xét duyệt định mức kinh tế kỹ thuật, xét thầu quốc gia, thẩm định thành lập doanh nghiệp Nhà nước; là cơ quan thường trực hội đồng thẩm định dự án đầu tư trong nước và ngoài nước; là cơ quan đầu mối trong việc điều phối quản lý và sử dụng nguồn ODA, quản lý đăng ký kinh doanh; cấp giấy phép đầu tư cho các dự án hợp tác, liên doanh, liên kết của nước ngoài vào Việt Nam và của Việt Nam ra nước ngoài. Quản lý nhà nước đối với các tổ chức dịch vụ tư vấn đầu tư. Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc sử dụng quỹ dự trữ Nhà nước.
Tổ chức nghiên cứu dự báo, thu thập xử lý các thông tin về phát triển kinh tế – xã hội trong nước và ngoài nước phục vụ cho việc xây dựng và điều hành kế hoạch.
Tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ công chức, viên chức trực thuộc Bộ quản lý
Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chiến lược phát triển, chính sách kinh tế, quy hoạch và kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội, hỗ trợ phát triển và hợp tác đầu tư.
Ngày 17-8-2000 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 99/2000/TTg về việc chuyển giao Ban Quản lý các khu công nghiệp Việt Nam về Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Như vậy, nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày càng được mở rộng hơn về phạm vi và đổi mới về nội dung và phương pháp phù hợp với công cuộc đổi mới chung của đất nước.
II. Cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bộ máy của Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo Nghị định 75/CP gồm 22 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và 7 tổ chức sự nghiệp trực thuộc.
Các cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước :
Vụ Pháp luật đầu tư nước ngoài.
Vụ Quản lý dự án đầu tư nước ngoài.
Vụ Quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp.
Vụ Đầu tư nước ngoài.
Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân.
Vụ Kinh tế đối ngoại.
Vụ Kinh tế địa phương lãnh thổ.
Vụ Doanh nghiệp.
Vụ Tài chính tiền tệ.
Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông tôn
Vụ Công nghiệp.
Vụ Thương mại và dịch vụ.
Vụ Cơ sở hạ tầng.
Vụ Lao động - Văn hoá Xã hội.
Vụ Khoa học, Giáo dục và Môi trường.
Vụ Quan hệ với Lào và Campuchia.
Vụ Quốc phòng - An ninh.
Vụ Tổ chức cán bộ.
Văn phòng thẩm định dự án đầu tư.
Văn phòng Xét thầu Quốc gia.
Văn phòng Bộ.
Cơ quan đại diện phía Nam.
Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ:
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
Viện Chiến lược Phát triển.
Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam.
Trung tâm Thông tin.
Trường Nghiệp vụ Kế hoạch.
Báo Việt Nam đầu tư nước ngoài.
Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và biên chế các đơn vị nói trên do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định trong phạm vi tổng biên chế đã được Chính phủ quy định.
III. Chức năng, nhiệm vụ, Cơ cấu tổ chức của Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
1. Chức năng nhiệm vụ:
Căn cứ vào Nghị định số 75/CP ngày 01 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ra Quyết định số 90 BKH/TCCB quy định về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn như sau:
Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là đơn vị thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Bộ trưởng theo dõi và quản lý về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn với các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Nghiên cứu tổng hợp quy hoạch phát triển của các ngành Nông, Lâm, Ngư nghiệp, thuỷ lợi, phát triển nông thôn toàn diện trong phạm vi cả nước và theo vùng, lãnh thổ .
Tổng hợp xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn về phát triển ngành: Nông nghiệp, Lâm nghiệp (cả khai thác về chế biến gỗ), Thuỷ sản (cả khai thác và chế biến thuỷ sản), thuỷ lợi, chế biến đường, chè, cà phê, dâu, tơ tằm, cao su… định canh định cư, điều động lao động dân cư.
Cùng các đơn vị liên quan nghiên cứu, phân tích lựa chọn các dự án đầu tư trong nước và ngoài nước thuộc lĩnh vực do vụ phụ trách, đề xuất các cơ chế chính sách nhằm đảm bảo thực hiện định hướng của kế hoạch phát triển ngành và lĩnh vực. Trực tiếp xây dựng các cơ chế chính sách theo sự phân công của lãnh đạo Bộ.
Kiểm tra theo dõi việc thực hiện các chương trình dự án, năm tình hình, lập báo cáo việc thực hiện kế hoạch quý, 6 tháng, 9 tháng và hàng năm của các ngành lĩnh vực thuộc Vụ phụ trách. Đề xuất các giải pháp xử lý những vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án thuộc ngành lĩnh vực đảm nhận.
Tham gia thẩm định thành lập các doanh nghiệp Nhà nước, Thẩm định các dự án đầu tư ( cả vốn trong nước và ngoài nước ), thẩm định xét thầu; phan bổ nguồn vốn ODA, xác định định mức kinh tế kỹ thuật của ngành do Vụ phụ trách theo quy trình của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Làm đầu mối quản lý các chương trình dự án Quốc gia của các ngành lĩnh vực thuộc Vụ phụ trách.
Tổ chức nghiên cứu dự báo, thu thập và hệ thống hoá các thông tin về kinh tế phục vụ cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành do Vụ phụ trách.
Làm đầu mối tổng hợp kế hoạch của: Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Bộ thuỷ sản.
Thực hiện nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao.
Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn làm việc theo chế độ chuyên viên. Vụ có 1 Vụ trưởng; 1 số Vụ phó. Biên chế của Vụ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định riêng.
2. Cơ cấu tổ chức và phân công công tác:
Vụ Nông nghiệp và PTNT hiện nay có tất cả 23 cán bộ, nhân viên. Trong đó lãnh đạo Vụ có 4 người (1 Vụ trưởng và 3 Phó Vụ trưởng ).
Các cán bộ trong vụ được phân công 2 nhóm công việc, các công việc có tính tổng hợp chung và các công việc cụ thể theo từng lĩnh vực.
Lãnh đạo Vụ có nhiệm vụ bám sát chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ, bao quát nắm công việc toàn diện để chỉ đạo, điều hành. Vụ trưởng có nhiệm vụ phụ trách Nông nghiệp và phụ trách chung, 1 Phó Vụ trưởng phụ trách đối ngoại, 2 Phó vụ trưởng phụ trách một số mảng lớn có tính chiến lược và quan trọng trong nông nghiệp như: lân nghiệp, thuỷ lợi, định canh định cư, di dân tự do…
Các chuyên viên của Vụ (gồm 19 người) phụ trách các mảng quan trọng khác trong nông nghiệp và tham gia làm các dự án. Nhiệm vụ cụ thể được phân công cho từng chuyên viên như sau:
+ Phụ trách khối kinh tế, quốc phòng, Hội nông dân, Hội làm vườn, khuyến nông.
+ Phụ trách khoa học kỹ thuật, kinh tế hộ, kinh tế trang trại.
+ Phụ trách đê điều, ODA thuỷ lợi.
+ Phụ trách chương trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn.
+ Phụ trách cây cà phê, cây có sợi.
+ Phụ trách cao su, chè, điều.
+ Phụ trách cây ăn quả.
+ Phụ trách chăn nuôi.
+ Phụ trách nuôi trồng thuỷ sản.
+ Phụ trách khai thác, tổng hợp ngành thuỷ sản.
+ Phụ trách khối lâm sinh, 5 triệu ha rừng, tổng hợp ODA toàn Vụ.
+ Phụ trách công nghiệp chế biến gỗ.
+ Phụ trách công nghiệp chế biến nông sản.
+ Phụ trách văn thư và các công tác khác.
+ Tham gia làm các dự án của Vụ do Bộ giao (5 người)
Tập thể cán bộ trong Vụ đa số đều có trình độ chuyên môn, thâm niên và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong công tác. Tất cả 23 cán bộ của Vụ đều đã tốt nghiệp đại học, trong đó có 5 người học vị tiến sĩ, 1 người đang làm nghiên cứu tiến sĩ, 2 người có bằng Master. Như vậy, số người có trình độ trên đại học và đang học trên đại học là 8 người chiếm 30,8% toàn thể cán bộ Vụ. Về thâm niên công tác Vụ có 20 người có ít nhất 15 năm trở lên chiếm 80,8% số cán bộ Vụ.
Trong năm 2001 và 2002 Vụ có 3 người học quản lý nhà nước để thi chuyên viên chính và 5 người học lớp chính trị cao cấp.
Chương II: quá trình thực hiện nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và mục tiêu chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn 2001-2010
I. Quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời kỳ 15 năm đổi mới .
Nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, xây dựng các kế hoạch hàng năm, 5 năm và điều hành kinh tế, xây dựng các cơ chế chính sách. Thành tích của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thể hiện cụ thể qua từng thời kỳ gắn với các kế hoạch 5 năm, đặc biệt là thời kỳ 15 năm đổi mới.
Giai đoạn 1986- 1990 ( Kế hoạch 5 năm lần thứ 4)
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp và thông qua chương trình đổi mới kinh tế toàn diện theo hướng chính: Một là, chuyển đổi từ chính sách đơn thành phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều thành phần sở hữu nhằm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; Hai là, chuyển từ cơ chế Nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh tế bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn với cơ chế bao cấp, sang cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của từng doanh nghiệp; Ba là, chuyển từ kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài.
Quán triệt các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã triển khai cụ thể hoá thành các kế hoạch và các chương trình hành động, trong đó nổi bật là ba chương trình kinh tế lớn: chương trình lương thực, chương trình hàng tiêu dùng và chương trình xuất khẩu. Nền kinh tế đã thu được thành tựu đáng khích lệ như sản lượng lương thực đã đủ ăn, có dự trữ và có phần để xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng 2 lần so với kế hoạch 5 năm trước, bước đầu đã giải phóng được lực lượng sản xuất xã hội, động viên nhân dân tích cực tham gia vào sản xuất kinh doanh, các mặt xã hội và đời sống dân cư có nhiều tiến bộ.
Nhìn chung, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 1986- 1990, bước đầu tạo được niềm tin trong xã hội, chuẩn bị những tiền đề cho quá trình đổi mới tiếp theo.
Giai đoạn 1991- 1995 ( kế hoạch 5 năm lần thứ 5 )
Trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 do Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã nước các cấp lãnh đạo kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 với mục tiêu tổng quát là: ổn định tình hình kinh tế xã hội và chính trị, sớm thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và lạm phát, tạo tiền đề đẩy nhanh sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Những nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm này là thực hiện các biện pháp có hiệu quả để đẩy lùi lạm phát ở mức dưới 2 con số vào năm 1995; đưa nền kinh tế đi vào ổn định và có tốc độ tăng trưởng nhất định; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá các cơ sở kinh tế, nhất là các cơ sở làm hàng xuất khẩu; và tiếp tục đổi mới một cách đồng bộ cơ chế quản lý Nhà nước và cơ chế sản xuất kinh doanh, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Cùng với chuẩn bị kế hoạch 5 năm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã tham gia xây dựng và tổng hợp 13 chương trình mục tiêu: chống lạm phát, phát triển lương thực, chăn nuôi và chế biến thịt xuất khẩu, phát triển một số cây công nghiệp, trồng rừng, phát triển điện năng, giải quyết việc làm, đổi mới kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế xã hội miền núi, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chương trình y tế, danh mục các công trình khoa học và công nghệ bao gồm 30 chương trình khoa học và công nghệ quốc gia, và hệ thống hành chính nhà nước.
Trong thời gian này, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã chủ trì nghiên cứu để trình các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước và trình Đại hội lần thứ VII của Đảng về Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991-2000.
Giai đoạn 1996-2000 ( Kế hoạch 5 năm lần thứ 6)
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 1996-2000 là khai thác và sử dụng tốt các nguồn lực phát triển để đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kỳ 1991-1995, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội; chuẩn bị các tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triểm cao hơn sau năm 2000.
Thực tế chứng minh rằng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có vai trò rất to lớn trong việc chuẩn bị các cơ chế chính sách, bao gồm cả Luật (Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Phá sản,…). Đặc biệt gần đây nhất Luật Doanh nghiệp và Luật sửa đổi bổ sung của một số điều Luật Đầu tư nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn là đầu mối trong việc: đấu thầu, thẩm định dự án đầu tư, quản lý ODA,…
Chuẩn bị kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 – 2010
Công tác xây dựng kế hoạch 5 năm 2001-2005 và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì triển khai từ giữa năm 1998, đến nay đã hoàn thành. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã hoàn thành nhiều chuyên đề tổng kết kinh tế phục vụ các hội nghị Trung ương và cho Đại hội Đảng IX.
Trong giai đoạn này đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triểnlực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao nội lực của cả dân tộc gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoàI và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp với phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Mục tiêu của kế hoạch 5 năm là: Tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt súc cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Tạo chuyển biến mạnh về nhân tố con người, giáo duc - đào tạo, phát triển khoa học công nghệ. Giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói, giảm mạnh số hộ nghèo, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đòi sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng GDP ít nhất 7%/ năm.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tập trung sức xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao.
Năm 2010 GDP tăng lên gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông thôn xuống còn khoảng 50%.
II. đường lối chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn 2001 – 2010 và nhiệm vụ mục tiêu thời kỳ 2001 – 2005:
Đường lối chiến lược phát triển nông, lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn 2001-2010
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá; đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất đạt mức tiến trong khu vực; tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Chú trọng điện khí hoá nông thôn, phát triển công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, …Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Quy hoạch hợp lý và nâng cao hiệu quả việc sử dụng đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ môi trường.
Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hoá và ngô làm thức ăn chăn nuôi. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Phát triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm canh các cây công nghiệp như cà phê, cao su, chè, điều, hạt tiêu…, hình thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến. Phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm: mở rộng phương pháp nuôI công nghiệp gắn với chế biến sản phẩm: tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp. Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản, tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ. Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng cao độ che phủ đến 2010 lên 43%. Kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp để định canh định cư và ổn định, cải thiện đời sống cho nhân dân miền núi.
Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây, con có năng suất, chất lượng và giấ trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt, kiểm soát lũ, bảo đảm tưới tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp ( kể cả cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) và đời sống nhân dân. Nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại.
Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các đIểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công ( may mặc, da giày…) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Nhiệm vụ, mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001 – 2005
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân năm là 4,8%; GDP tăng 4,3% năm; cơ cấu sản xuất năm 2005 dự kiến: nông nghiệp chiếm 75-76%, lâm nghiệp 5-6%, thuỷ sản 19-20%.
Sản lượng lương thực có hạt đạt 37 triệu tấn; trồng rừng 1,3 triệu ha, năng suất độ che phủ rừng lên 38-39%; sản lượng thuỷ sản 2,4 triệu tấn.
Kim ngạnh xuất khẩu mặt hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng 16,2% năm; trong đó riêng thuỷ sản là 2,5 tỷ USD.
Mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,5 triệu người; đưa quỹ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80%; giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp tư 63% hiệ nay xuống 56-57% năm 2005; thu nhập bình quan của nông dân tăng 1,7 lần so với hiện nay; không còn hộ đói, chỉ còn 10% hộ nghèo theo tiêu chí mới.
Đảm bảo 100% số xã có đường ô tô đi tới trung tâm; 100% số xã có đIện; 60% dân số nông thôn được dùng nước sạc; xoá các xã đặc biệt khó khăn; xoá các xã trắng về y tế; xoá lớp học ca 3, phòng học tranh tre nứa lá; giải quyết cơ bản nhà ở cho nhân dân vùng ngập lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long; đảm bảo người nghéo có ruộng sản xuất…
Chương III: Tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác và phương hướng hoạt động của Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
I. Tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác của Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Về công tác chuyên môn:
- Về công tác tham gia điều hành kế hoạch năm 2002:
Vụ đã thực hiện nhiệm vụ theo dõi, tham gia điều hành kế hoạch năm 2002. Các báo cáo hàng tháng của Vụ luôn được Vụ tổng hợp đánh giá tốt. Năm 2002, mặc dầu gặp nhiều khó khăn: lũ lụt và hạn hán xảy ra ở nhiều nơi, giá cả thị trường thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, nhưng ngành nông nghiệp nông thôn vẫn tiếp tục phát triển mạnh và toàn diện, phần lớn các chỉ tiêu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển chung của cả nước. Đạt được kết quả đó do nhiều nguyên nhân, song không thể không kể đến phần đóng góp quan trọng của mỗi cán bộ Vụ Nông nghiệp và PTNT.
- Về công tác tổng hợp và xây dựng kế hoạch năm 2003:
Vụ đã tổ chức các buổi làm việc với Vụ Kế hoạch và Đầu tư, các Cục, Vụ liên quan của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản, làm việc với nhiều địa phương; Đã thực hiện tốt chức năng Bộ ngoại giao làm đầu mối tổng hợp, phối hợp giữa các Vụ trong Bộ, làm cầu nối giữa các Vụ trong Bộ với các Bộ: Nông nghiệp và PTNT, Thuỷ sản, với TCT Cao su, TCT Cà phê trong việc xây dựng kế hoạch năm 2003, trong việc phân bổ vốn đầu tư cho các chương trình mục tiêu, chương trình mục tiêu quốc gia của ngành như: Chương trình Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án 5 triệu ha rừng, Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, một số dự án thuộc Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình 135 …
- Về công tác nghiên cứu, xây dựng quy hoạch:
Xác định đây là công việc quan trọng, Vụ đã tích cức tham gia cùng các Bộ ngành và địa phương rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch theo tinh thần Nghị quyết 09/CP của Chính phủ, cùng Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản xây dựng đề án công nghiệp hoá, hiện đại hoá từng ngành và lĩnh vực thực hiện Nghị quyết lần thứ 5 BCH TW Đảng về “công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, được các Bộ, ngành đánh giá cao.
- Về công tác nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách:
Trong năm Vụ đã chủ trì xây dựng hoặc tham gia cùnh các Bộ ngành xây dựng nhiều cơ chế, chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Một số chính sách Vụ đề xuất nổi bật trong năm như :
Đã cùng Bộ Nông nghiệp và PTNT, các Bộ ngành xây dựng cơ chế, chính sách giải quyết đất đai cho đồng bào thiểu số tại chỗ thiếu đất ở và đất sản xuất ở Tây Nguyên. Đề xuất của Vụ về cách làm đã được Chính phủ chấp thuận. Đến nay, cả 4 tỉnh Tây Nguyên đều đã có phương án giải quyết đất đai được được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt và đã được Chính phủ cho bố trí vốn trong kế hoạch 2003 để thực hiện.
Vụ đã chủ trì nghiên cứu, kiến nghị Bộ tham mưu cho Chính phủ phương án giải quyết khó khăn về tài chính cho các nhà máy đường, thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng chính phủ giao. Phương án đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư do Vụ chuẩn bị được nghiên cứu, lấy ý kiến rông rãi nên được các Bộ ngành địa phương đồng tình ủng hộ, được coi là phương án thực tế và có tính khả thi cao. Vụ cũng đã tham gia ý kiến với Bộ Thuỷ sản nghiên cứu đề xuất phương án giải quyết khó khăn trong thu hồi nợ vốn vay của cơn bão số 5/1997 và chương trình đánh cá xa bờ.
Dưới sự chỉ đạo của Thứ trưởng Nguyễn Xuân Thảo, Vụ đã chủ trì cùng các Bộ ngành liên quan, các Tổng công ty được giao thầu xây dựng hồ Cửa Đạt nghiên cứu, xây dựng cơ chế huy động vốn đầu tư cho công trình Cửa Đạt và các công trình thuỷ lợi lớn khác, đảm bảo mục tiêu Nhà nước sớm có công trình với chất lượng tốt, giá thành hợp lý, huy động được các nguồn nội lực xe máy nhàn rỗi của các công ty.
Bên cạnh đó, Vụ đã hoàn thành tốt công tác chuyên môn đột xuất do lãnh đạo Bộ giao, tích cực tham gia cùng các Vụ, Viện trong nghiên cứu, sửa đổi quy chế về quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý đấu thầu, xét thầu …, tham gia xây dựng các đề án về phát triển kinh tế về các vùng lãnh thổ, về tăng cường năng lực cạnh tranh…Những ý kiến tham gia của Vụ luôn được nghiên cứu nghiêm túc, đảm bảo chất lượng, đúng thời gian quy định, được Vụ, Viện chủ trì đánh giá cao.
Về công tác nghiên cứu khoa học:
Trong năm 2001 và 2002, Vụ đã tổ chức thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, nghiên cứu một số đề án phát triển ngành và lĩnh vực, có đề tài do Bộ giao, có đề tài do Vụ chủ động nêu ra và được Bộ chấp nhận. Kết quả thực hiện các đề tài, đề án đến nay như sau:
- Nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu các giải pháp phát triển vùng nguyên liệu giấy phục vụ chiến lược phát triển ngành công nghiệp giấy đến năm 2010”. Nhờ kết quả nghiên cứu của đề tài, Chính phủ đã có những điều chỉnh chính sách thích hợp, yêu cầu Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Công nghiệp, Tổng Công ty giấy VN xem xét, rà soát lại quy hoạch vùng nguyên liệu, đánh giá lại chủ trương xây dựng một số nhà máy sản xuất bột giấy và ván nhân tạo đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư.
- Hoàn thành đề án “Các biện pháp giảm thua thiệt do biến động của giá nông sản để nâng cao thu nhập cho nông dân”. Kết quả nghiên cứu của đề án đã báo cáo lãnh đạo Bộ. Nội dung đề án được đánh giá có tính tổng hợp cao, thu thập được nhiều số liệu có hệ thống, đánh giá được sự biến động của giá cả và ảnh hưởng của biến động đó đến thu nhập và mức sống của nông dân. Đề án được Bộ đánh giá tốt.
- Đã cơ bản hoàn thành đề tài “ Nghiên cứu vấn đề lao động việc làm nông thôn”, dự kiến trong quý I/2003 sẽ được nghiệm thu. Đề tài này được Vụ triển khai nghiên cứu vào năm 2001. Đề tài đã đi sâu nghiên cứu đánh giá về thu nhập, đIều tra xu hướng chuyển dịch lao động và việc làm ở nông thôn trong thời gian vừa qua, dự báo xu hướng chuyển dịch lao động và việc làm ở nông thôn trong thời gian vừa qua, dự báo xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm 5 năm tới, đề ra được một số những giải pháp giải quyết vấn đề lao đông và việc làm cho khu vực nông thôn.
- Xây dựng đề án “Tăng nhanh chế biến xuất khẩu” theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ. Trong 6 tháng cuối năm, toàn Vụ đã tập trung nghiên cứu nên bước đầu hình thành báo cáo chung, đã tổ chức lấy ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý, các Vụ, Viện trong cơ quan, đã báo cáo Bộ một lần. Hiện đề án vẫn đang được khẩn trương bổ sung, chỉnh sửa, dự kiến sẽ báo cáo Bộ và Thủ tướng Chính phủ trong quý I/2003.
- Ngoài những đề tài, đề án nghiên cứu khoa học do Vụ chủ trì thực hiện nêu trên, trong năm 2002, Vụ cũng đã tham gia tích cực với các Vụ, Viện trong cơ quan, với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản trong nhiều đề tài nghiên cưú khác.
Về việc quản lý văn bản:
Công tác quản lý, lưu trữ và hệ thống hoá các thông tin đã được tăng cường và tổ chức một cách có khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho tra cứu truy tìm và tổng hợp khi cần thiết. Thực hiện tốt giữ gìn bí mật các tài liệu, văn bản của Nhà nước theo đúng quy định.
Tổng số văn bản tiếp nhận xử lý đến 25/12 năm 2002 như sau:
Tiếp nhận công văn đến: 4010 văn bản bằng 100% năm 2001
Công văn trả lời (đi) : 349 văn bản bằng 113% năm 2001
Trong đó:
Trình Chính phủ và VP Chính phủ: 70 văn bản bằng 140% năm 2001
Trả lời các Bộ ngành : 46 văn bản bằng 102% năm 2001
Trả lời địa phương : 49 văn bản bằng 132% năm 2001
Công văn góp ý kiến với các Vụ : 186 văn bản
Về các mặt công tác khác:
Ngoài công tác chuyên môn, công tác nghiên cứu khoa học phục vụ nhiệm vụ chính được Bộ giao, Vụ cũng đã hoàn thành nhiều công tác khác không kếm phần quan trong phạm vi quyền hạn và chức năng của mình, cụ thể:
- Vụ đã chỉ đạo điều hành tốt Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc. Đến nay, dự án đã được triển khai thuận lợi, là một trong các dự án thực hiện tốt cơ chế xây dựng dự án từ cơ sở, là một trong ít dự án ngay năm đầu tiên triển khai đã thực hiện giải ngân khá,đạt kế hoạch đề ra.
- Vụ cũng tạo mọi điều kiện cho thuận lợi cho mọi các bộ có nhu cầu học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ và năng lực công tác như : cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài, học quản lý nhà nước để thi chuyên viên chính, học các lớp chính trị cao cấp, học thêm ngoại ngữ…
II. Phương hướng - Nhiệm vụ công tác - hoạt động của Vụ năm 2003.
Căn cứ chức năng nhiệm vụ của Bộ giao, các chương trình kế hoạch của Nhà nước, chương trình hành động của Chính phủ, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX … Vụ Nông nghiệp và PTNT dự kiến một số nhiệm vụ công tác chính sẽ tập trung chỉ đạo năm 2003 như sau:
Một số nhiệm vụ công tác chính ( có 5 nhiệm vụ chủ yếu ) sau:
Theo dõi tham gia điều hành kế hoạch năm 2003.
Tổng hợp xây dựng kế hoạch năm 2004.
Điều hành dự án ODA được Bộ giao.
Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học.
Xử lý công việc thường xuyên, trả lời các văn bản của Bộ ngành và địa phương.
Một số công tác trọng tâm:
1. Khẩn thương xử lý văn bản đảm bảo về thời gian, chất lượng.
2. Nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông lâm ngư nghiệp, tăng nhanh công nghiệp chế biến để tăng giá trị xuất khẩu hàng nông sản. Đi vào nghiên cứu các chuyên đề :
- Tiếp tục hoàn chỉnh đề án “Tăng nhanh chế biến hàng nông sản xuất khẩu”, tìm giải pháp thúc đẩy công nghiệp chế biến của một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, tỷ trọng lớn như : gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, sản phẩm thuỷ sản để nâng giá bán, nâng cao tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản và trình lãnh đạo Bộ quý I/2003.
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản theo dõi, xây dựng cơ chế hỗ trợ đầu tư, tháo gỡ khó khăn khuyến khích các nhà tiêu thụ, nhà chế biến ký hợp đồng sản xuất lâu dài với nông dân, đảm bảo ổn định sản xuất theo tinh thần Quyết định 80/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Theo dõi, phối hợp với ngành Thuỷ sản xây dựng các biện pháp kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm, đa dạng hoá các sản phẩm, đa dạng hoá thị trường nhằm thúc đẩy xuất khẩu, phấn đấu đạt mục tiêu xuất khẩu 2,3 tỷ USD năm 2003. Chuẩn bị các phương án đối phó trong trường hợp Toà án Mỹ có thể kết luận không thuận lợi cho xuất khẩu cá BaSa và có thể các sản phẩm khác nữa (tôm) và thị trường Mỹ trong thời gian tới.
- Tham gia với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng công ty Chè Việt Nam nghiên cứu giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chè, hạn chế thiệt hại trong trường hợp Mỹ tấn công Irắc, hoặc LHQ bãi bỏ cấm vận, Irắc không mua chè của Việt Nam nữa ( hiện Irắc là thị trường chính xuất khẩu chè Việt Nam, chiếm khoảng 30 – 35% lượng xuất khẩu, khoảng 25 – 30 ngàn tấn / năm).
3. Nghiên cứu giải pháp thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất, công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng khoá IX:
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản nghiên cứu xây dựng đề án công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nâng cao khả năng cạnh tranh của cả sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH T W Đảng khoá IX:
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản nghiên cứu xây dựng đề án công nghiệp hoá, hiện đại hoá từng ngành, từng lĩnh vực.
- Nghiên cứu tổng kết thực tiễn, xây dựng các mô hình đầu tư trong từng ngành, từng lĩnh vực đảm bảo huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư, tạo điều kiện đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn theo hướng khai thác lợi thế từng vùng và cả nước.
- Nghiên cứu giải pháp cơ chế, chế tài để kiểm soát phát triển sản xuất nông lâm ngư nghiệp đảm bảo phù hợp theo kế hoạch được duyệt, ttranh phát triển tự phát quá gây thiệt hại cho người sản xuất, nhất là đối với cây công nghiệp dài ngày.
4.Tham gia lĩnh vực lao động và việc làm, xoá đói giảm nghèo.
- Tham gia với Bộ Nông nghiệp và PTNT xây dựng cơ chế chính sách, cải tiến nội dung lồng ghép các chương trình, huy động nguồn lực xã hội nhằm chương trình xoá đói giảm nghèo. Tham gia với Bộ Thuỷ sản sớm hoàn thành xây dựng tiêu chí các xã nghèo các xã bãi ngang, ven biển, hải đảo để đưa vào đầu tư theo cơ chế giống như chương trình 135.
- Tham gia với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư cho các xã nghèo nguyên nhân do thiếu việc làm ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi bằng ven biển.
Trong lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tập trung nghiên cứu các chuyên đề:
- Hoàn thiện cơ chế huy động vốn đầu tư xây dựng công trình hồ chứa nước Cửa Đạt và các công trình thuỷ lợi lớn cấp bách khác trình Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhằm tháo gỡ khó khăn do khả năng đầu tư ngân sách hạn chế.
- Tham gia với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản nghiên cứu cơ chế chính sách xã hội hoá đầu tư trong lĩnh vực giống cây trồng, vật nuôi phát triển nuô trồng thuỷ sản, … nhằm huy động cao nguồn lực xã hội hiện có để đầu tư phát triển nhanh cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông thôn.
Thực hiện lành mạnh hoá các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp:
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản nắm lại tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành, có biện pháp tổ cức sắp xếp lại theo quyết định 53/TTg của TTCP.
- Đánh giá lại nông, lâm trường quốc doanh để có chính sách xử lý, thu hồi bớt đất giao lại cho nông dân sản xuất, đặc biệt ở các vùng như Tây Nguyên (hiện các nông lâm trường ở Tây Nguyên đang chiếm 50 – 60% diện tích tự nhiên của toàn vùng, nhưng hiệu quả sản xuất chưa tương xứng).
- Tiếp tục theo dõi xử lý nợ các nhà máy đường; giải quyết khó khăn thu hồi nợ vốn vay cơn bão số 5/1997, chương trình đánh cá xa bờ…
Thực hiện tốt điều hành các dự án ODA do Bộ giao như: Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc; làm cơ quan đầu mối phối hợp với các tỉnh xây dựng Dự án phát triển nông thôn tổng hợp vay vốn IFAD; thư ký hỗ trợ các xã nghèo giữa Chính phủ và các nhà tài trợ (Nhóm PAC).
8. Tiếp tục nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học đang thực hiện dở dang, sớm hoàn thành nghiệm thu; xây dựng một số đề tài nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề búc xúc của ngành và lĩnh vực:
- Hoàn thiện, báo cáo nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu vấn đề lao động việc làm nông thôn” trong quý I/2003.
- Một đồng chí theo nhiệm vụ phân công đi sâu nghiên cứu các vấn đề đang bức xúc trong chuyên môn.
9. Tham gia điều hành kế hoạch 2003:
Phối hợp các Bộ ngành và địa phương nắm tình hình, phát hiện khó khăn vướng mắc trong triển khai kế hoạch 2003 để báo cáo Bộ hàng tháng, hàng quý, đảm bảo tiến độ thời gian và chất lượng.
10. Tổng hợp kế hoạch 2004:
- Thực hiện tốt chức năng đầu mối tổng hợp, phối hợp giữa các Vụ trong Bộ, làm cầu nối giữa các Vụ trong Bộ với các Bộ: Nông nghiệp và PTNT, Thuỷ sản, với TCT Cao su, TCT Cà phê trong việc xây dựng kế hoạch năm 2004. Thực hiện các nhiệm vụ khác do lãnh đạo Bộ giao.
Phần II
Tổng quan về vấn đề lựa chọn đề tài
I. Hội nhập kinh tế thê giới cơ hội và thách thức với nông nghiệp Việt nam.
Trong thời đại ngày nay, dưới sự tác động của xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự phát triển của khoa học công nghệ và xu thế hoà bình hợp tác cùng phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan. Đó là vấn đề bức bách của mỗi quốc gia, nếu không muốn tụt hậu quá xa trong phát triển kinh tế.
Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là tự do hoá thương mại và đầu tư, vì vậy phải thực hiện xoá bó hàng rào cản trở trong mối quan hệ kinh tế thương mại và tham gia vào các quá trình liên kết kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thách thức đặt ra với mỗi quốc gia khi hội nhập kinh tế cũng rất khó khăn và phức tạp, đó là: phải chấp nhận sự cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh với các quốc gia khác, đây là khó khăn lớn nhất nếu năng lực cạnh tranh yếu; hệ thống pháp luật và cơ chế điều hành nền kinh tế phải từng bước được đIều chỉnh cho phù hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là chấp nhận cạnh tranh với các nước, là cuộc đấu tranh phức tạp để phát triển nền kinh tế quốc gia và giữ vững độc lập về kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Năm 1995, chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của khu vực tự do AFTA và năm 1998 tham gia tổ chức Phát triển Châu A Thái Bình Dương (AFEC). Ngay từ năm 1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hiện đã ký kết các biên bản ghi nhớ với WTO để tham gia đàm phán trả lời các câu hỏi của tổ chức này. Bên cạnh đó một trong những bước đi quan trọng chuẩn bị cho tiến trình hội nhập vào WTO là việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ năm 2000 và được Chính phủ phê chuẩn vào năm 2001.
Tất cả các bước đi này đã mở ra một con đường mới với nhiều cơ hội thuận lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình khẳng định vị trí của mình trên trườnh quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, chúng ta cũng phảI đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức. Trong đó vấn đề nan giải nhất là hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều rất lạc hậu về máy móc thiết bị và công nghệ. Tỷ lệ tích luỹ nội địa của nền kinh tế thấp, chỉ đạt 16 – 17 % càng khiến cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư để nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm đủ sức cạnh tranh với thị trường thế giới. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2001, sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đứng ở vị trí khiêm tốn( 49 trên tổng số 53 quốc gia).
Trong khuôn khổ mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) Việt Nam cam kết đến năm 2003 thuế suất nhập khẩu tất cả các mặt hàng không vượt quá 20%. Tới năm 2006 thuế suất không vượt quá 5%. Tuy nhiên, một số mặt hàng nông sản thuộc danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm SEL như: gà giống, gạo, cam, quuýt, chanh, bưởi, đường… có thời gian cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan chậm hơn. Trong đó đáng chú ý là mía đường (2006), quả có múi, thịt và các bộ phận nội tạng của gia cầm (2005). Tới năm 2013 thuế suất đối với toàn bộ các nông sản chưa chế biến thuộc danh mục SEL sẽ không vượt quá 5% và mọi hàng rào phi thuế quan phải bãi bỏ. Như vậy, nhìn tổng thể từ năm 2006 nông sản đã qua chế biến của các thành viên AFTA có thể tiếp cận thị trường Việt Nam một cách dễ dàng, nhưng phải tới năm 2010 tở đi, nhiều nông sản chưa chế biến mới có thể tiếp cận thị trường Việt Nam mà không bị cản trở bởi các hàng rào phi thuế quan và thuế quan.
Trong khi đó, các cam kết liên quan đến nông nghiệp và Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ tuy có thời gian thực hiện dài hơn nhưng bao trùm hầu hết các nhóm nông sản. Mức tự do hoá trong cam kết này được đánh giá là cao hơn so với Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT) và AFTA. Cụ thể, với Hiệp định được phê chuẩn thì Việt Nam có thể duy trì biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu đối với nhiều nông sản nhập khẩu từ Mỹ tới khoảng 2006 như: thịt trâu, bò, thịt gia cầm, sữa, kem, quả có múi, ngô, nhiều loại dầu thực vật, rau quả chế biến…Riêng với đường tinh luyện có thể bị áp dụng biện pháp hạn chế định lượng tới năm 2011, tương đương với mức cam kết trong CEFT/AFTA.
Một điều dễ nhận thấy là những cam kết quốc tế về nông nghiệp của Việt Nam liên quan đến thương mại sẽ không chỉ tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới một số ngành sản xuất nông sản mà tới cả những người nông dân xưa nay chỉ sống nhờ vào việc cung cấp đầu vào cho các ngành sản xuất này. Người nông dân sẽ rất thụ động nếu như các nhà máy tiêu thụ sản phẩm của họ gặp khó khăn lớn, thậm chí đi đến phá sản do không có kế hoạch điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư thích hợp. Nhiều vùng nông thôn sẽ trở nên khó khăn hơn nếu không có sự chuyển đổi phù hợp.
Ví dụ: Chỉ sau vài năm nữa là dầu thực vật tinh chế dạng lỏng sẽ được tự do nhập khẩu và Việt Nam với thuế suất khá thấp. Trong khi việc sản xuất các mặt hàng này lại phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu nhập khẩu, giá thành sản xuất trong nước thường cao hơn hàng nhập khẩu gần 30%. Liệu khi không còn được bảo hộ, các doanh nghiệp sản xuất dầu thực vật trong nước có thể giữ được thị phần nội địa 90% như hiện nay (?). Hoặc với ngành giấy, một ngành đã và đang được bảo hộ bằng nhiều biện pháp như giấy phép nhập khẩu, giá nhập khẩu tối thiểu, thuế quan cao… sau vài năm nữa cũng phải đối mặt với giấy nhập khẩu chất lượng cao, giá rẻ. Không chỉ các nhà máy giấy mà ngay cả những vùng rừng nguyên liệu cũng phải chịu ảnh hưởng lớn của tự do hoá thương mại.
Cũng như ngành giấy và nhiều ngành khác thì ngành đường hiện nay cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Chương trình 1 triệu tấn mía đường (1995) đã đạt được những thành công lớn: góp phần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng; đưa hàng tăm ngàn ha đất đồi, đất chua phèn vào sử dụng có hiệu quả; hình thành các vùng sản xuất tập trung; bố trí lại lao động trong nông thôn. Hiện nay cả nước đã có một hệ thống 44 nhà máy đường hoạt động đạt công suất thiết kế 82.950 tấn mía ngày(TMN), sản xuất 12 triệu tấn mía/năm để đảm bảo 1 triệu tấn đường. Ngành mía đường đã giải quyết công ăn việc làm cho trên 950.000 lao động công nghiệp, nông nghiệp (trên 600.000 lao động nông nghiệp và trên 300.000 lao động công nghiệp) và hàng vạn người làm dịch vụ, ổn định đời sống cho khoảng 2 triệu người. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, xét trên khía cạnh thương mại thì sản xuất đường hiện nay chưa mang tính cạnh tranh. Giá đường sản xuất trong nước cao hơn của một số nước khác từ 1,5 đến 2 lần. Theo báo cáo của 39 doanh nghiệp sản xuất mía đường ( chưa thẩm định ) thì có tới 33 doanh nghiệp lỗ nặng, chỉ có 6 doanh nghiệp là có lãi nhưng ít. Tính đến hết năm 2001 Nhà nước đã phải bù lỗ cho các doanh nghiệp này trên 2000 tỷ đồng. Như vậy, về phía các doanh nghiệp và Nhà nước nếu không có giải pháp kịp thời, nhanh chóng thì khi hội nhập hoàn toàn các doanh nghiệp mía đường Việt Nam khó lòng mà đứng vững được khi mà phải đối mặt với đường nhập khẩu chất lượng cao, giá thấp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để “nâng cao sức cạnh tranh của mía đường Việt Nam trong tiến trình hội nhập”. Đây cũng chính là vấn đề mà em quan tâm và có dự định nghiên cứu, tìm hiểu chọn làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
II. Cơ sở lựa chọn đề tài.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Nông nghiệp và PTNT thì vấn đề mía đường cũng là vấn đề hiện đang được lãnh đạo Vụ cũng như các cán bộ trong Vụ rất quan tâm. Vụ được Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao cho nhiệm vụ kiểm tra giám sát hoạt động của các nhà máy đường để tổng hợp xử lý nợ cho các nhà máy và đưa ra phương án giải quyết khó khăn tài chính cho các nhà máy này. Bên cạnh đó em cũng có điều kiện tìm hiểu được một số công trình nghiên cứu khoa học đã và một số tài liệu về mía đường của một số cơ quan chức năng đã được công bố. Có thể khái quát các tài liệu đó như sau:
Các công trình nghiên cứu khoa học:
Trước khi chương trình 1 triệu tấn mía đường ra đời, sản xuất mía đường nước ta mới chỉ đáp ứng được mức tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm 6 – 7 kg/người, trong khi mức tiêu thụ bình quân thế giới là 20 – 21 kg/người. Thị trường mía đường nước ta luôn mất ổn định do cung chưa đáp ứng cầu. Mỗi năm nước ta phải nhập trên 20% tổng lượng đường tiêu thụ trong nước (hàng chục vạn tấn). Xét về mặt kinh tế xã hội thì với điều kiện tự nhiên và lao động của nước ta lúc đó là tạo cân đối cung cầu về đường bằng cách nhập khẩu là không hiệu quả so với đầu tư phát triển sản xuất mía đường trong nước. Trước tình hình đó vấn đề cấp bách đặt ra là làm thế nào để tổ chức lại các vùng mía, đảm bảo đủ nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy đường, cân đối được nhu cầu đường trong nước.
Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Kinh tế “Những giải pháp kinh tế chủ yếu để hình thành và phát triển vùng nguyên liệu mía cho các nhà máy đường Việt Nam” -Đinh Quang Tuấn (năm 1996), đã tập trung nghiên cứu những vấn đề kinh tế chủ yếu để xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu mía trong bối cảnh xoá bỏ cơ chế kinh tế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, trên cơ sở phân tích thực trạng vùng nguyên liệu mía nước ta giai đoạn 1984 – 1994.
Mục đích của Luận án là:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành và phát triển vùng mía nguyên liệu.
Phân tích đánh giá thực trạng, chỉ ra những vấn đề cần giải quyết đối với việc phát triển vùng mía nguyên liệu ở nước ta.
Kiến nghị những giải pháp kinh tế chủ yếu để hình thành và phát triển vùng mía nguyên liệu cho các nhà máy đường ở Việt Nam giai đoạn từ 1996 – 2000 và từ năm 2000 trở đi.
Đi sâu vào giải quyết vấn đề nguyên liệu cho từng nhà máy đường cụ thể, cũng là đề tài được nhiều người quan tâm:
- Đề tài: “Những giải pháp kinh tế chủ yếu để phát triển vùng mía nguyên liệu cho Công ty đường Lam Sơn” – Luận văn tốt nghiệp ĐH KTQD (năm 2000).
- Đề tài: “ Phương hướng và giải pháp mở rộng vùng nguyên liệu mía ở công ty mía đường Sơn La” – Luận văn tốt nghiệp ĐHKTQD (năm 2002).
Căn cứ vào đặc điểm của từng vùng mía nguyên liệu, thực trạng sản xuất của các nhà máy trong từng Công ty mía đường, các tác giả đã đưa ra các giải pháp kinh tế cụ thể, phù hợp để phát triển và mở rộng vùng nguyên liệu mía, bao gồm một số giảI pháp cơ bản sau:
+ Giải pháp bố trí sản xuất và quy hoạch vùng mía nguyên liệu tập trung nhằm: tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật, chăm sóc, vận chuyển, thu mua… đảm bảo tiết kiệm chi phí cho cả nhà sản xuất và người trồng mía.
+ Giải pháp về thâm canh mía, bao gồm: lựa chọn giống mía, kỹ thuật thâm canh mía…
+ Giải pháp về vốn gồm: tạo vốn, huy động vốn, sử dụng vốn có hiệu quả để phát triển các vùng mía chuyên canh tập trung ổn định.
+ Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa Công ty và người trồng mía.
Một thực tế là, trong những năm vừa qua để thực hiện được chương trình 1 triệu tấn đường, chúng ta đã có sự đầu tư lớn cho ngành mía đường với tốc độ đầu tư rất nhanh, từ 12 nhà máy năm 1994 đến nay đã có 44 nhà máy (tăng gần 4 lần). Với tiến độ phát triển nhanh và mạnh như vậy, câu hỏi đặt ra là hiệu quả hoạt động của các nhà máy đó như thế nào? Đề tài: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành mía đường Việt Nam” – Luận văn tốt nghiệp ĐHKTQD (năm 2001) dựa trên một mô hình đầu tư có hiệu quả là Công ty mía đường Lam Sơn đã đưa ra các nhóm giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư cho ngành mía đường Việt Nam như: đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, khoa học kỹ thuật, chính sách tài chính, tín dụng…
Tốc độ các nhà máy mía đường tăng nhanh, vùng nguyên liệu ngày càng được mở rộng đã khiến cho sản lượng mía tăng cao, cung vượt cầu song giá thành lại cao hơn mức trung bình chung của thế giới do vậy sản phẩm bị ứ đọng gây gánh nặng cho doanh nghiệp về lãi suất ngân hàng và vốn lưu động mua nguyên liệu. Trước mắt cũng như lâu dài để các nhà máy có thể hoạt động ổn định liên tục, hoàn thành kế hoạch sản lượng của ngành, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các dự án, biện pháp cần thiết là giảI quyết chặt chẽ khâu đầu ra của sản xuất mía đường. Đề tài “Những giải pháp kinh tế chủ yếu mở rộng thị truờng tiêu thụ sản phẩm mía đường Việt Nam” - Luận văn tốt nghiệp ĐHKTQD (năm 2000) đã đưa ra vai trò của tiêu thụ mía đường, thực trạng của ngành mía đường và một số giải pháp kinh tế chủ yếu để mở rộng thị trường tiêu thụ như: các giải pháp hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm; giải pháp về thị trường, hoàn thiện hệ thống chính sách để mở rộng thị trường…
Các tài liệu của các cơ quan liên quan:
+ Báo cáo tình hình sản xuất mía đường các niên vụ 1998-1999, 1999-2000, 2000-2001, 2001-2002 và Phương hướng sản xuất các năm 1999-2000, 2000-2001, 2001-2002, 2002-2003 của Bộ Nông nghiệp &PTNT.
+ Phương án tiêu thụ đường từ vụ mía 1999-2000 trở đi - Bộ Nông nghiệp & PTNT, Vụ Kế hoạch và Quy hoạch.
+ Nhóm các ngành có khả năng cạnh tranh kém của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Vụ Nông nghiệp & PTNT.
+ Báo cáo về sản xuất các sản phẩm sau đường của Ban điều hành mía đường – Bộ Nông nghiệp và PTNT.
+ Công văn của Bộ Nông nghiệp & PTNT phúc đáp Bộ Kế hoạch và Đầu tư về xử lý khó khăn tài chính cho các Công ty và nhà máy mía đường, tháng1/2003.
+ Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh mía đường, tháng1/2003 – Bộ Nông nghiệp & PTNT.
Ngoài các tài liệu trên còn có nhiều bài viết liên quan đến mía đường của những người quan tâm đến lĩnh vực mía đường được đăng trên sách, báo, tạp chí …mà em đã có điều kiện thu thập và tổng hợp. Đây là những điều kiện cơ bản giúp em có thể xây dựng chuyên đề thực tập của mình .
Kết luận
Trong thời gian thực tập tại Vụ Nông nghiệp và PTNT thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, được sự giúp đỡ tận tình của cán bộ Vụ và nhân viên thư viện Bộ em đã thu được những kiến thức rất bổ ích và có được những hiểu biết nhất định về Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, một trong 22 đơn vị trực thuộc Bộ, giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu của Đảng và Chính phủ, trung tâm giao lưu giữa các Bộ ngành và các địa phương, giải quyết mâu thuẫn, lập kế hoạch đầu tư phát triển đất nước, xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm, hàng quý để cả nước điều hành, thực hiện mục tiêu nhà nước đề ra; tổng hợp những kết quả đã thực hiện năm trước và kế hoạch năm sau do các Bộ, ngành địa phương đề xuất, hướng dẫn lập quy hoạch tổng hợp điều chỉnh quy hoạch để tránh mâu thuẫn giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương; thẩm định dự án để xây dựng công trình, vận động thu hút vốn nước ngoài, dự thảo các văn bản cơ chế chính sách. Hàng năm phải lập báo cáo trình Chính phủ, Quốc hội về kết quả thực hiện những định hướng chiến lược và kế hoạch những năm tiếp.
Để giúp Bộ thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nói trên phải cần đến sự trợ giúp của nhiều đơn vị trong Bộ. Trong đó phải kể đến Vụ Nông nghiệp và PTNT thuộc khối các Vụ chuyên ngành có chức năng giúp Bộ trưởng theo dõi và quản lý về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Vụ cũng là đầu mối tích cực phối hợp các Vụ, Viện liên quan trong Bộ làm việc với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Tổng công ty…
Chương trình mía đường là một trong những chương trình quốc gia trọng điểm, nằm trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đưa và Nghị quyết Đại hội Đảng VIII. Từ năm 1995 đến nay chương trình bước đầu đã hình thành lên những cơ sở vật chất chủ yếu và cần thiết cho ngành mía đường, làm thay đổi đáng kể bộ mặt. Tuy sản lượng đường Việt Nam đã vượt dự kiến 1 triệu tấn, song sản xuất đường hiện nay còn bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Với thực trạng của ngành mía đường hiện nay, trước thách thức của hội nhập kinh tế thế giới để ngành mía đường có thể trụ vững được đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp hữu hiệu kịp thời để nâng cao sức tranh cạnh của mía đường Việt Nam. Đó cũng là vấn đề được em quan tâm và lựa chọn làm chuyên đề thực tập của mình trong thời gian thực tập tại Vụ Nông nghiệp và PTNT trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC282.doc