MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
Chương I
Giới thiệu khái quát về bộ thương mại
và vụ xuất nhập khẩu- bộ thương mại 3
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ THƯƠNG MẠI 3
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ BỘ THƯƠNG MẠI 4
1. Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. 4
2. Các tổ chức sự nghiệp 6
III. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA BỘ THƯƠNG MẠI
VÀ CỦA MỘT SỐ BỘ PHẬN TRONG BỘ THƯƠNG MẠI 7
1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Thương Mại 7
2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của một số bộ phận trong
Bộ Thương Mại 9
IV. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA VỤ XUẤT NHẬP KHẨU 12
1. Xây dựng cơ chế chính sách quản lý xuất nhập khẩu 12
2. Điều hành xuất nhập khẩu 16
V. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA VỤ XUẤT NHẬP KHẨU,
GIAI ĐOẠN 1998-2002 20
1. Phần việc về xây dựng cơ chế chính sách 20
2. Phần về quản lý và điều hành xuất nhập khẩu 20
Chương II
Tình hình hoạt động xuất-nhập khẩu
của Việt Nam, giai đoạn 1998-2002 22
I. THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM,
GIAI ĐOẠN 1998-2002 22
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG 27
Chương III 30
Phương hướng, mục tiêu và các giải pháp phát triển hoạt động xuất- nhập khẩu của Việt Nam. 30
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÀ CÁC CHỈ TIÊU
XUẤT NHẬP KHẨU 30
1. Mục tiêu 30
2. Quan điểm chỉ đạo 30
3. Các chỉ tiêu về xuất nhập khẩu đến năm 2010 30
II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG THỜI GIAN TỚI 32
Kết luận 35
38 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động xuất - Nhập khẩu của Việt Nam, giai đoạn 1998 - 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u đãi.
Xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu
Tham gia đàm phán Hiệp định Việt-Mỹ
Xây dùng quy chế đổi hàng với Lào
Xây dùng quy chế đổi hàng với ASEAN, SNG
Xây dùng Tờ trình Chính phủ về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000
Tham gia xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu năm 2000
Xây dựng đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Xây dựng đề án đẩy mạnh buôn bán Việt Nam-Trung Quốc, trước mắt là các biện pháp đưa kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Trung Quốc lên 2 tỷ USD năm 2000
Tham gia sơ kết chủ trương xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu của Chính phủ
Xây dùng Quy chế hàng hóa CHDCND Lào quá cảnh lãnh thổ Việt Nam
Quy định việc giao hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quy đinh hạn ngạch năm 1999: Thông tư liên tịch Bộ Thương Mại-Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư số 20/1998/TTLT/BTM-BKHĐT-BCN ngày 12/10/1998
Ban hành quy chế Đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quy định hạn ngạch: Quyết đinh số 1405/1998/QĐ-BTM ngày 17/11/1998
Quy định việc tổ chức đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào thị trưởng EU năm 1999: Quyết định số 1406/1998/QĐ-BTM ngày 17/11/1998
Quy định việc ưu tiên và thưởng hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm bằng vải sản xuất trong nước và thưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường không hạn ngạch năm 1998: Thông tư liên tịch sô 04/1998/TTLT-BTM-BKHĐT-BCN ngày 03/02/1999
Đề nghị Bộ Tài chính điều chỉnh phí hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường EU, Canada và có văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp nộp phí theo mức mới bằng tiền Việt Nam: Công văn số 4200/TM-XNK ngày 03/09/1999
Xây dùng Tờ trình và dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ vê xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón năm 2000
Soạn thảo văn bản giao nhiệm vụ cho các tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài.
Xây dựng điều lệ của Hiệp hội lương thực.
1.3. Năm 2000:
Tham gia xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu năm 2001-2010
Xây dựng chiến lược xuất khẩu
Điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá, các mặt hàng trong danh mục hàng xuất nhập khẩu có điều kiện bao gồm: gạo, hàng dệt may và thị trường có hạn ngạch, phân bón.
Theo dõi tình hình xuất nhập khẩu của các tỉnh thành phố các Bộ, ngành để có kiến nghị đẩy mạnh xuất khẩu.
Tham gia với các Bộ ngành về quy chế quản lý xuất nhập khẩu thuộc chức năng của các Bộ, ngành.
Nghiên cứu thị trường ngoài nước:
-Tình hình thị trường giá cả và hàng hoá, hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
-Nhu cầu hàng hoá tiêu thụ của thị trường nước ngoài để định hướng phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.
Nghiên cứu và theo dõi tình hình sản xuất, lưu thông, giá cả, hàng hoá ở thị trường trong nước cân đối cung cầu phục vô cho việc điều hành hoạt động xuất nhập khẩu.
1.4. Năm 2001:
1.4.1. Vụ đã soạn thảo Tờ trình Thủ tướng Chính phủ về bổ sung và sửa đổi nghị định 57/1998/NĐ-CP nhằm giải quyết những tồn tại của nghị định này, trên cơ sở đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg về điều hành xuất khẩu hàng hoá thời kì 2001-2005 và Chính phủ đã ban hành Nghị định của Chính phủ số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/04/2001 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị đinh số 57/1998/NĐ-CP. Vụ đã soạn thảo Bộ ban hành Thông tư số 11/2001/TT-ĐTM ngày 18/04/2001 hướng dẫn thực hiện quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 04/04/2001 của Thủ tướng Chính phủ và thông tư số 20/2001/TT-BTM ngày 17/08/2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/04/2001 của Chính phủ.
1.4.2. Vụ đã soạn thảo Tờ trình Thủ tướng Chính phủ số 1095/TM-XNK ngày 03/05/2001 về các biện pháp khuyến khích xuất khẩu.Trên cơ sở đó, Chính phủ có Nghị quyết số 05/2001/NQ-CP về việc bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế năm 2001.
1.4.3. Vụ đã soạn thảo Tờ trình Chính phủ số 2403 BTM6 ngày 04/7/2001. Trên cơ sở này, Văn phòng Chính phủ đã ra Thông tư số 58/TB-VPCP ngày 04/7/2001.
1.4.4. Thông báo số 58 đã được cụ thể hoá thành Quyết định số 908/QĐ-TTg ngày 26/7/2001 vÒ các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý nhập khẩu trong 6 tháng cuối năm 2001.
1.4.5. Để đáp ứng nguyện vọng của các doanh nghiệp, sau khi xem xét giải trình của Bộ so sánh Vụ soạn thảo và các Bộ, ngành, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ tín dụng thuộc Quỹ hỗ trợ phát triển và Bộ tài chính đã có thông tư hướng dẫn thực hiện.
1.4.6. Ngoài ra, Vụ đã soạn thảo trình Bộ ban hành:
Quyết định số 0093/2001/QĐ-BTM ngày 05/02/2001 về việc sửa đổi bổ sung quy chế xét thưởng xuất khẩu.
Thông tư số 05/2001/TT-BTM ngày 23/02/2001 hướng dẫn việc cấm nhập khẩu xe và phương tiện sử dụng xăng pha chì theo chỉ thị số 24/2000/CT-TTg ngày 23/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai sử dụng xăng không pha chì tại Việt Nam.
Văn bản số 0549/TM-XNK ngày 13/03/2001 về việc bổ sung danh sách các nước và vùng lãnh thổ được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi của Việt Nam (hàng hoá có xuất sứ từ CH Môn-đô-va được hưởng thuế xuất thuế nhập khẩu ưu đãi từ ngày 27/2/2001 ban hành kèm theo công văn số7280/1998 TM-PC ngày 31/12/1998 của Bộ Thương Mại).
Quyết định số 0305/2001QĐ-BTM ngày 26/3/2001 ban hành quy chế về hàng hoá của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quá cảnh lãnh thổ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Quyết định số 0314/2001/QĐ-BTM ngày 29/3/2001 về việc sửa đổi danh mục hàng tiêu dùng để phục vụ việc xác định thời hạn nộp thuế nhập khẩu.
Văn bản số 1961/TM-XNK ngày 09/8/2001 về việc hướng dẫn việc nhập khẩu linh kiện CKD xe hai bánh gắn máy đổi hàng với Lào.
1.4.7. Vụ đã soạn thảo quy chế kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu thay quy chế ban hành năm 1998 và quy chế tạm nhập tái xuất khác. Các quy chế này đã gửi lấy ý kiến tham gia của các bộ, ngành có thể trình Bộ vào cuối năm.
1.4.8. Vụ đã tham gia soạn thảo:
Thông tư số 06/2001/TT-BTM ngày 12/3/2001 hướng dẫn trả nợ Liên bang Nga bằng hàng hoá và dịch vụ.
Thông tư số 14/2001/TT- BTM ngày 02/5/2001 hướng dẫn thi đua bán hàng hoá qua biên giới trên bộ giứa Việt Nam và Trung Quốc.
Thông tư số 17/2001/ TT- BTM ngày 12/7/2001 hướng dẫn thực hiện hoạt động khuyến mại theo quy định tại Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại .
1.5. Năm 2002:
1.5.1. Về việc khuyến khích xuất khẩu:
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 10-13% như Quốc hội đã đề ra. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có sự chỉ đạo hết sức sâu sát và quyết liệt, nắm bắt được những khó khăn của năm 2002, ngay từ cuối năm 2001, Vụ chính sách XNK đã có dự tờ trình của Bộ trình Chính phủ như sau:
Tờ trình về các biện pháp thực hiện kế hoạch xuất khẩu năm 2002 ngày 13/12/2001 Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 31/2001CT-TTg về đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2002
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1311/VPCP-KTTH ngày 18/3/2002 của Văn Phòng Chính phủ, Bộ Thương Mại đã cùng Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư thành lập tổ công tác cán bộ của Bộ, ngành và Văn Phòng Chính phủ để nghiên cứu chính sách, biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, thực hiện kế hoạch năm 2002. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các thành viên Tổ công tác liên ngành, Bộ Thương Mại đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tạo tờ trình số 0511/TM-XNK ngày 09/4/2002. Ngày 19/4/2002 Bộ Thương Mại có tờ trình bổ sung về một số chính sách, biện pháp khuyến khích xuất khẩu năm 2002.
1.5.2. Về quản lý nhập khẩu
- Bộ Thương Mại đã có tờ trình Thủ tướng Chính phủ số 0660/TM-XNK về áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với hàng nhập khẩu.
- Tờ trình số 0747/TM-XNK ngày 10/5/2002 về áp dụng thuế nhập khẩu theo giá trị tuyết đối.
- Tham gia với Bộ tài chính về xác định thuế suất đối với một số mặt hàng nhập khẩu.
2. Điều hành xuất nhập khẩu
2.1. Năm 1998:
Tham gia với Bộ Tài chính hướng dẫn lộ trình giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may cho EU.
Tham gia ý kiến với Tổng cục Hải quan về nhập khẩu xe máy theo đường phi mậu dịch.
Tham gia ý kiến Nghị định về thành lập thị trường chứng khoán.
Tham gia Hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
Báo cáo lãnh đạo Bộ đề án khắc phục khủng hoảng tài chính.
Phối hợp với Tổng cục Hải quan tổ chức hai cuộc họp tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh giải quyết các vướng mắc để đảy mạnh xuất khẩu .
Phối hợp với trường cao đẳng kinh tế đối ngoại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tập huấn nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp, triển khai thực hiện Quyết định 55/1998/QĐ-TTg của Chính phủ.
Phối hợp với Vụ Châu á - Thái Bình Dương tổ chức hội thảo về hàng dệt may xuất khẩu sang New Zealand (tại Thành phố Hồ Chí Minh) kết hợp Bộ trưởng gặp gì doanh nghiệp.
Đối chiếu số liệu thực hiện với Uỷ Ban EU về hạn ngạch năm 1997 và 1998, xử lý các sai phạm gian lận thương mại, truy nộp ngân sách hàng tỷ đồng. Đàm phán với các nước ASEAN để tăng hạn ngạch cho Việt Nam.
Triển khai công tác xúc tiến thương mại theo chỉ thị của Bộ trưởng, tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi khảo sát thị trường Thuỵ Sỹ, úc và New Zealand, thanh tra các gian lận thương mại hạn ngạch.
Tham gia cùng tổ xúc tiến và Vụ Tây Nam Á- Châu Phi: thành lập Trung tâm thương mại Việt Nam tại Đu-bai.
Công văn số 3581 TM/XNK ngày 1/7/1998 gửi Bộ Tài chính đề nghị kéo dài thời gian hoàn thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu sản xuất hàng xuất khẩu và giảm phí hạn ngạch 2 chủng loại hàng Cat.21 và 15.
Công văn 3609 TM/XNK ngày 3/7/1998 gửi Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển C/O về phòng quản lý xuất nhập khẩu thay vì hiện là phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam cấp.
Công văn số 1697 TM/XNK ngày 2/4/1998 gửi Bộ tài chính góp ý dự thoả thông tư liên tịch hướng dẫn Nghị định 107/1997/NĐ-CP.
2.2. Năm 1999:
Theo dõi tình hình thực hiện xuất nhập khẩu năm 1999, đề xuất các biện pháp để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu và quản lý nhập khẩu.
Điều hành xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón.
Điều hành việc xuất nhập khẩu đổi hàng.
Xử lý các tồn tại về tạm nhập tái xuất ô tô.
Giao hạn ngạch cho các doang nghiệp theo đúng quy định của Thông tư liên tịch.
Tổ chức đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may sang thị trường EU năm 1999 cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Theo dõi tình hình thực hiện hạn ngạch và trình lãnh đạo Liên Bộ các biện pháp thúc đẩy việc xuất khẩu hạn ngạch Cat. 21 sang thị trường EU khi Cat. 21 xuất khẩu chậm hơn năm 1998 và kết quả Cat. 21đến tháng 8 bắt đầu xuất khẩu vượt năm 1998.
Phối hợp với các ngành và Bộ Công an để chống hiện tượng gian lận hạn ngạch (như làm Thông báo giao hàng hạn ngạch giả, E/L giả).
Phối hợp với Văn phòng Bộ và Vụ Tổ chức Cán bộ triển khai mở thêm 5 phòng quản lý XNK tại Hải Phòng, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu và Cần Thơ.
Phối hợp cùng Vụ Âu-Mỹ đàm phán và đề nghị EU tăng hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang EU (khoảng 20-30%).
Phối hợp với Tham tán thương mại tại các nước ASEAN để đề nghị các nước Singapore, Philippines, Indonesia chuyển hạn ngạch xuất khẩu vào EU năm 1999. Kết quả đạt được là Việt Nam đã được chuyển đến 10% hạn ngạch của các Cat mà năm 1998 Việt Nam đề nghị: Cat.4, 5, 6, 7, 8, 15, 26 và 73. Riêng Cat.21 do hạn ngạch năm 1999 không “nóng” nên Việt Nam đề nghị được chuyển đến 7% (01 chiếc).
Phối hợp với EU để chống gian lận hạn ngạch (E/L giả).
Phối hợp cùng EU hoàn chỉnh hệ thống truyền số liệu cấp giấy phép xuất khẩu (SIGL) và từ 01/11/1999 hệ thống máy tính này đi vào hoạt động chính thức.
Ký bản ghi nhí (MOU) với EU về chống gian lận trong buôn bán sản phẩm dầy dép.
2.3. Năm 2000:
Vụ đã soạn thảo Tờ trình Chính phủ về nguyên tắc điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2001.
Đã điều chỉnh, sửa đổi bổ sung một số điều về các quy chế quản lý xuất nhập khẩu.
Theo dõi việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu, đã có kiến nghị bổ sung, sửa đổi Luật thuế xuất nhập khẩu, các quy định hướng dẫn thực hiện Luật thuế, điều chỉnh thuế suất trong biểu thuế xuất nhập khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và điều tiết nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu bảo đảm cung ứng đủ thiết bị vật tư cho nhu cầu phát triển kinh tế, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Đã tham gia chuẩn bị trong tiến trình Việt Nam ra nhập WTO và ký kết.
Tham gia đàm phán Hiệp định thương mại Việt –Mỹ.
Tham gia xây dựng các đề án phát triển sản xuất chế biến các mặt hàng chủ lực xuất khẩu.
2.4. Năm 2001:
Vụ đã giúp Bộ tổ chức 3 cuộc hội nghị doanh nghiệp tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh để cùng các doanh nghiệp trao đổi tháo gỡ khó khăn vướng mắc do tác động của lũ lụt trong nước và tình trạng sức mua thế giới giảm làm ảnh hưởng đÕn xuất khẩu. Những vấn đề thuộc thẩm quyền Bộ thương mại đã được giải quyết kịp thời, còn những vấn đề vượt hoặc ngoài thẩm quyền Bộ Thương mại đã tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ ngay sau khi cuộc họp kết thúc. Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo cá Bộ, ngành xử lý các đề nghị của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp đó, tháng 8/2001 Vụ đã giúp Bộ tổ chức 3 cuộc hội nghị tại thành phố Hồ Chí Minh về 3 ngành hàng quan trọng là dệt may, dầy dép, thủ công mỹ nghệ để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu.
Nhiều giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ các khó khăn đối với từng mặt hàng xuất khẩu cũng đã được Vụ trình Bộ hoặc Bộ trình Chính phủ, từ đó Cính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp hữu hiệu.
2.5. Năm 2002:
Trước tình hình kim ngạch xuất nhập khẩu những tháng đầu năm bị sụt giảm, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tháng 7/2002 Bộ đã tổ chức hội nghị giao ban xuất khẩu với các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn để đánh giá tình hình xuất khẩu những tháng đầu năm, nêu lên những khó khăn và tìm các giải pháp tháo gỡ để đẩy mạnh xuất khẩu những tháng cuối năm. những vấn đề vượt thẩm quyền đã được báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo. Tiếp đến tháng 10/2002 Bộ lại tổ chức hội nghị giao ban xuất khẩu để kiểm điểm tình hình xuất khẩu 9 tháng đầu năm, đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch năm 2002, rà soát tình hình triển khai các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đã được Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ cho phép thực hiện và nêu các kiến nghị cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng.
Dự thảo Bộ ban hành các quyết định và thông tư sau:
Quyết định số 02/2002/QĐ-BTM ngày 02/01/2002 của Bộ Thương Mại về việc ban hành quy chế xét thưởng xuất khẩu.
Quyết định số 0858/2002/QĐ-BTM ngày 19/7/2002 của Bộ Thương Mại về việc sửa đổi danh mục hàng tiêu dùng để phục vụ việc xác định thời hạn nộp thuế xuất nhập khẩu.
Thông báo số 1316/2002/TM-XNK ngày 31/7/2002 của Bộ Thương Mại về việc hàng hoá xuất nhập khẩu của Lào được giảm thuế năm 2002.
Thông tư liên tịch số 08/2002/TTLT/BTM/BKHĐT/BCN ngày 12/8/2002 của Bộ Thương Mại –Bộ Kế Hoạch Đầu Tư -Bộ Công Nghiệp hướng dẫn việc giao và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ năm 2003.
Quyết định số 1026/2002/QĐ-BTM ngày 04/09/2002 của Bộ Trưởng Bộ Thương Mại về việc bổ sung Phụ lục 3 quy chế cấp giấy chững nhận xuất sứ hàng hoá ASEAN của Việt Nam –Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT).
Quyết định số 1191/2002/QĐ-BTM ngày 04/10/2002 của Bộ Thương Mại về việc ban hành quy chế đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may, may xuất khẩu vào thị trường có quy định hạn ngạch.
Quyết định số 112/2002/QĐ-BTM ngày 10/10/2002 của Chủ tịch hội đồng đấu thầu quy định việc thị trườngổ chức đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may và thị trường EU năm 2003.
Giúp Bộ điều hành việc xuất khẩu hàng dệt may, xuất khẩu gạo, nhập khẩu xăng dầu, hàng nhập khẩu của cửa hàng miễn thuế, hàng tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu. Phối hợp với Tổng cục hải quan xử lý các vướng mắc đối với một số mặt hàng nhập khẩu.
Tham gia với các cơ quan hữu quan về một số vấn đề sau:
Đàm phán gia nhập WTO, dầm phán với IMF, WB.
đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 12/NQ/TW của Bộ chính trị ngày 03/01/1996 về việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sửa đổi bổ sung một số điều Luật thương mại .
Xây dựng kế hạch thương mại năm 2003.
Chế độ về thuế đối với hàng xuất khẩu tại chỗ, sửa đổi khung thuế.
Biên soạn tài liệu: “Cục diện kinh tế thế giới 2002 và dự báo thương mại năm 2003”.
đoàn khảo sát các thị trường Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật, Châu Phi.
Xây dùng quy chế về hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu và buôn bán biên giới.
Thực hiện chương trình hành động vÒ thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ.
Thực hiện hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng.
Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá IX.
Giải quyết việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
V. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG CỦA VỤ XUẤT NHẬP KHẨU,
GIAI ĐOẠN 1998-2002
1. Phần việc về xây dựng cơ chế chính sách
Nét nổi bật của công tác này là đã tổng kết được những hạn chế trong việc khuyến khích xuất khẩu của những năm qua để xây dựng một hệ thống các chính sách và biện pháp khuyến khích xuất khẩu phù hợp trong những năm tới.
Loại bỏ các bất hợp lý, cản trở, chồng chéo trong các quy định về quản lý xuất nhập khẩu trước đây, xây dựng một cơ chế thông thoáng phù hợp với yêu cầu phát triển hoạt động ngoại thương, khai thác nội lực của nền kinh tế, của các thành phần kinh tế hướng về xuất khẩu, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Có thể nói những chính sách, biện pháp cơ chế quản lý xuất nhập khẩu ban hành trong giai đoạn này đã đánh dấu một bước ngoặt mở ra một thời kỳ mới trong sự nghiệp phát triển ngoại thương nước ta theo cả chiều rộng và chiều sâu.
2. Phần về quản lý và điều hành xuất nhập khẩu
2.1. Nét nổi bật của công tác quản lý và điều hành xuất nhập khẩu giai đoạn này là:
Các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu còn phải phân giao chỉ tiêu đã được giảm tới mức tối thiểu.
Những mặt hàng trong diện phân giao chỉ tiêu được quy định các nguyên tắc cụ thể để phân giao và được phân giao ngay từ đầu năm.
Thực tế chỉ còn các mặt hàng sau đây:
+ Hàng xuất khẩu
Gạo Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Thương Mại điều hành.
Hàng dệt may xuất khẩu vào các thị trường có hạn ngạch: Liên Bộ Thương Mại-Bộ Công Nghiệp-Bộ Kế Hoach và Đầu Tư giao và điều hành.
+ Hàng nhập khẩu: Hàng nhập khẩu chỉ còn linh kiện CKD xe 2 bánh gắn máy đổi hàng với Lào.
2.2. Đã theo dõi sát tình hình khủng hoảng tài chính ở các nước ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, kịp thời đề xuất các biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu.
2.3. Thường xuyên phối hợp với Tổng cục Hải quan để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc cho doanh nghiệp trong khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu ở Hải quan.
2.4. Tổ chức nhiều lớp học để phổ biến và hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo co chế mới.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT-NHẬP KHẨU
CỦA VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 1998-2002
I. THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM,
GIAI ĐOẠN 1998-2002
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á Thái Bình Dương đã cơ bản được khống chế, ảnh hưởng của nó đã dần dần được khắc phục, nền kinh tế của các nước này đã phát triển trở lại một cách mau lẹ; hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam từ chỗ gặp nhiều khó khăn do một phần chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, nay cũng đã phát triển mạnh mẽ trở lại. Giai đoạn 1998-2002 được coi như là giai đoạn phát triển xoay vòng ở tầm cao hơn của xoáy chôn ốc về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam mà mốc là năm 1998.
1. Trước hết là hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong giai đoạn này luôn tăng qua các năm. Nếu năm 1998 đạt 9.360 triệu USD, năm 2000 đã đạt 14.308 triệu USD gấp 1,53 lần năm 1998, thì đến năm 2002, con sè này là 16.530 triệu USD gấp 1,77 lần năm 1998. Tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này nhìn chung đạt mức cao (trừ năm 1998-đây là năm chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực), trung bình cả giai đoạn đạt xÊp sỉ 13% (xem bảng 1).
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, giai đoạn 1998-2002
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu \ Năm
1998
1999
2000
2001
2002
Kim ngạch xuất khẩu
9.360
11.540
14.308
15.100
16.530
Tốc độ tăng trưởng (%)
2,20
23,29
23,98
5,53
9,47
Chỉ số phát triển (%)
(năm trước là 100%)
101,9
123,3
124,0
105,5
109,5
Nguồn: Kỷ yếu 55 năm Thương Mại Việt Nam 1946-2001, tr.59 và Báo cáo của Bộ thương mại năm 2001, 2002
Có được tốc độ tăng trưởng như vậy trong hoàn cảnh hiện tại là nhờ vào sự cố gắng của toàn ngành thương mại Việt Nam, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước và sự chỉ đạo sáng suốt của các Bộ, ngành, trong đó trọng yếu là Bộ thương mại. Ngành thương mại Việt Nam chủ trương phát triển hoạt động thương mại theo cả chiều rộng và chiều sâu. Những năm thị trường khó khăn như năm 1998, 1999; toàn ngành phát triển hoạt động xuất khẩu bằng việc tăng xuất khẩu (về lượng) thay cho sự sụt giảm về giá. Bên cạnh đó, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã được cải thiện đáng kể, tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm qua chế biến tăng mạnh, khối lượng các mặt hàng chủ lực cũng tăng khá. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có tỷ trọng giá trị xuất khẩu trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, từ 27,9% năm 1998 đến 41,3% năm 2002; nhãm hàng nông, lâm, hải sản và nhóm hàng công nghiệp nhẹ- tiểu thủ công nghiệp có xu hướng giảm dần, năm 1998 lần lượt là 35,5% và 36,6% đến năm 2002 con số này chỉ còn là 28,2% đối với hàng nông, lâm, hải sản và 31,5% đối với hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Điều này xuất phát từ việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế; ngành nông, lâm nghiệp giảm mạnh, chỉ có ngành ngư nghiệp là được khôi phục và khá phát triển, ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh nhưng giá trị hàng xuất khẩu chưa cao, ngành công nghiệp nặng và khoáng sản sản xuất các mặt hàng có giá trị cao ngày càng phát triển và được thị trường trong nước cũng như thế giới chấp nhận, ngành này có giá trị hàng hoá xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
Bảng 2: Giá trị và tỷ trọng xuất khẩu phân theo nhóm hàng
Nhóm hàng \ Năm
1998
1999
2000
2001
2002
Giá trị xuất khẩu (triệu USD)
Nông, lâm, hải sản
3323,7
3774
4308
4370
4661,5
Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
3427,6
4190
4900
4983
5206,9
Công nghiệp nặng và khoáng sản
2609
3576
5100
5723
6826,9
Tỷ trọng giá trị xuất khẩu trong tổng giá trị kim ngạch (%)
Nông, lâm, hải sản
35,5
32,7
30,1
29,0
28,2
Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
36,6
36,3
34,3
33,1
31,5
Công nghiệp nặng và khoáng sản
27,9
31,0
35,6
37,9
41,3
Tổng
100
100
100
100
100
Nguồn: Kỷ yếu 55 năm Thương Mại Việt Nam 1941-2001, tr.63 và Báo cáo của Bộ thương mại năm 2001, 2002
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước (xem bảng 2)
Một nguyên nhân khác có vị trí quan trọng giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh là quy mô cũng như cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam có những chuyển biến mạnh. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hầu hết các nước và khu vực trên toàn thế giới, các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam phải kể đến như:
Khu vực châu Á- đây là thị xuất khẩu chính của Việt Nam từ năm 1995 trở về trước (năm 1995 chiếm 78,27%(1) tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam); các thị trường khá chiếm phần nhỏ như châu Âu 16,82%(1), châu Mỹ 3,8%(1), sau cùng là châu Đại Dương 1,12%(1). Thực hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, ngành thương mại chủ trương phát triển thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá cơ cấu ngành, thị trường; đến nay, hàng hoá của Việt Nam đã có mặt hầu khắp trên toàn thế giới, theo đó cơ cầu thị trường có chuyển biến mạnh theo hướng từ châu Á sang châu Âu và châu Mỹ, trong đó lòng cốt là EU và Mỹ. Năm 2000 thị trường châu Á giảm xuống còn 61,41%(1) trong đó các nước ASEAN chiếm 19,6%(1), năm 2001 con số này là 56,83%(2), ước thực hiện năm 2002 chỉ chiếm khoảng 50%(2). Tại thị trường Châu Âu mà chủ yếu là EU, Bảng 3: Quan hệ buôn bán Việt Nam-Mĩ
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ
Tổng giá trị buôn bán
Trong đó dệt may
1995
193,96
-
252,86
466,82
1996
319,07
23,6
616,04
935,11
1997
425,51
25,928
817,23
1.242,74
1998
500,00
26,4
250,00
750
1999
504,04
34,38
334,75
838,79
2000
732,44
37.465
351,76
1084,2
2001
758,12
48,38
373,69
1.131,81
6T/2002
814,55
-
230,37
1.044,92
Nguồn: VER, tháng 2/1999, Bảng 3 tr.17; Standley Foundation, tr.42 và TCNT sè 1/2001 tr.10, sè 21/2001, sè 21/2002 tr.9
(1)- Kỷ yếu 55 năm thương mại Việt Nam, tr.62 ; (2)- Báo cáo của Bộ thương mại năm 2001, 2002
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng đều, chiếm tỷ trọng ngày càng cao, năm 2000 là 22,76%(1), ước thực hiện năm 2002 khoảng 25%(2). Quan hệ thương mại với Bắc Mỹ, chủ yếu là Mỹ có bước phát triển mạnh từ năm 1995, (xem bảng 3). Với thị trường châu Đại Dương, chủ yếu là Ôxtrâylia tăng từ 5,3%(1) năm 1999 lên 8,8%(3) năm 2000, ước thực hiện năm 2002 xấp xỉ 10%(2).
2. Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng đều qua các năm theo nhịp tăng của tốc độ tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu (xem bảng 5). Hàng nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên, nhiên, vật liệu và có xu hướng tăng, năm 1998 đạt 7.011 triệu USD chiếm 61% tổng kim ngạch, năm 1999 là 63,5% và năm 2000 là 9.700 triệu USD chiếm 63,8%. Tiếp theo là các mặt hàng thiết bị toàn bộ và máy móc dụng cụ phụ tùng ở mức ổn định, năm 1998 đạt 3.513 triệu USD chiếm 30,5%, năm 1999 là 30,1%, năm 2000 là 4.700 triệu USD chếm 30,9%. Riêng các mặt hàng tiêu dùng có xu hướng giảm, năm 1998 là 975,5 triệu USD chiếm 8,5%, năm 1999 là 6,4% và năm 2000 chỉ còn 5,3% (các số Bảng 4: Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu năm 2001, 2002
Đơn vị tính: Triệu USD
T/h năm 2001
Ước t/h năm 2002
(%) 2001 so với 2000
(%)2002 so 2001
1. ễtụ nguyờn chiếc các loại
197
250
147
126,9
2. ễtụ dạng linh kiện lắp ráp
234
335
240,7
143,2
3. Thép thành phẩm
636
878
110,3
138,1
4. Phụi thộp
329
450
140,4
136,8
5. Phân bón các loại
404
453
79,6
112,1
- Phân bón URE
195
208
74,7
106,7
6. Xăng dầu
1.828
2.022
88,8
110,6
7.Xe gắn máy
668
360
84,9
54,0
8. Giấy các loại
159
193
111,9
121,4
9. Chất dẻo nguyên liệu
494
617
102,9
124,9
10. Sợi các loại
247
312
106,8
126,3
11.Bông
132
94
130,7
71,2
12. Hoá chất nguyên liệu
352
404
114,8
114,8
13. Mỏy múc,TB, PT khác
2.741
3.700
106,7
135,0
14. Tân dược
295
312
95,8
105,8
15. Linh kiện điện tử
668
650
89,3
97,3
16.Nguyên, phụ liệu dệt may
1.606
1.781
112,9
110,9
Nguồn: Bộ Thương Mại.
(3)- Tạp chí ngoại thương 1-10/3/2001, tr.10
liệu trích lại từ kỷ yếu 55 năm thương mại Việt Nam 1941-2001, tr.64). Điều này xuất phát từ việc Việt Nam thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu và tăng hàng xuất khẩu, đồng thời cùng với nhịp độ công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhu cầu về nguyên, nhiên, vật liệu có xu hướng tăng. Năm 2001, 2002 Việt Nam nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu như: (xem bảng 4). Về thị trường nhập khẩu, hàng hoá Việt Nam được nhập khẩu chủ yếu từ khu vực châu Á, năm 1995 thị trường này chiếm tới 78,27%(1), đến năm 2000 con số này vẫn ở mức cao 61,46%(1). Theo báo cáo của Bộ thương mại năm 2002 giống như xuất khẩu, cơ cấu thị trường nhập khẩu có chuyển biến theo hướng giảm nhập khẩu từ các thị trường thuộc khu vực Châu Á và tăng nhập khẩu từ khu vực Châu Mỹ và Châu Âu, chủ yếu là các mặt hàng như máy móc, thiết bị, phụ tùng... Số liệu ở bảng 5 cho thấy kim ngạch nhập khẩu tăng đều ở các năm, duy chỉ có năm 2002 là tăng đột biến, nguyên nhân nhập khẩu năm 2002 tăng nhanh do: Tăng nhu cầu vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong nước và hàng xuất khẩu làm cho khối lượng nhập khẩu tăng 22,2%(2); giá giảm 2,2%(2)trong đó giá của nhiều mặt hàng như giấy, phân bón, máy móc thiết bị... giảm và rẻ hơn hàng sản xuất trong nước, nên đã kích thích tăng nhập khẩu; khu chế xuất tăng nhập khẩu 35%(2); nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,5%.
Tóm lại, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn này đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ do chủ trương phát triển xuất nhập khẩu bắt nguồn từ đường lối đổi mới do Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra. Việt Nam từ chỗ đơn thuần xuất khẩu một số loại nguyên liệu thô chưa qua chế biến như than đá, thiếc, gỗ tròn và một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản; chủng loại hàng hoá xuất khẩu tới nay đã trở nên đa dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao vào thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo, cà phê. Cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Ở chỗ tỷ lệ hàng đã qua chế biến tăng khá nhanh; thị trường xuất khẩu, nhờ chủ trương đa phương hoá của Đảng và Nhà nước, được mở rộng và đa dạng hơn, không còn phụ thuộc quá lớn vào một số nước, một số khu vực như trước đây. Đặc biệt, trong nhiều năm liền, xuất khẩu đã trở thành động lực chính của tăng trưởng GDP và góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu luôn tăng qua các năm theo hướng tích cực về cán cân thương mại, đặc biệt là năm 1999 (ngoại trừ năm 2002), chính tốc độ tăng trưởng khá nhanh của xuất khẩu tuy chưa kịp nhịp độ tăng trưởng của nhập khẩu nhưng đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế cho Việt Nam (xem Bảng 5)
Bảng 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1998-2002
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cân đối
Tổng kim ngạch
1998
9.360
11.499
-2139
20.859
1999
11.540
11.622
-82
23.162
2000
14.308
15.200
-892
29.508
2001
15.100
16.162
-1062
31.262
2002
16.530
19.300
-2770
35.830
Nguồn: Kỷ yếu 55 năm thương mại Việt Nam 1946-2001, tr.59 và Báo cáo của Bộ thương mại năm 2001, 2002
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Thực trạng và kết quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1998-2002 được phân tích trên đây có thể tóm lược những thành tựu đáng kể như: kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh, trung bình đạt 13% góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu có những chuyển biến tích cực phù hợp với đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước; cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu cũng thay đổi mạnh, không còn bị phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường như trước kia; theo đó hàng hoá của Việt Nam đã có mặt hầu khắp và ngày càng có uy tín trên toàn thế giới. Đạt được những thành quả này ngoài những nguyên nhân trên còn phải kể đến những nguyên nhân khác như: Tình hình sản xuất trong cả nước trên các lĩnh vực cơ bản như công ghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải... đều phát triển rất tốt; các hoạt động kinh doanh, liên doanh liên kết, các hình thức kinh tế trang trại đang phát triển mạnh; cùng với đó Chính phủ bạn hành một loạt các cơ chế, chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp tư nhân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Từ đó các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đã phát huy được thế chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình, kéo theo một loạt các đơn vị sản xuất kinh doanh cung cấp các đầu vào trước đó phát triển theo. Ngoài ra việc đưa ra hoặc thi hành một loạt các giải pháp vĩ mô đúng đắn của các Bộ, ngành hữu quan đặc biệt là Bộ thương mại trong khoảng thời gian 1999-2002 (giai đoạn sau khi xẩy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực) đã góp phần thúc đÈy tăng trưởng xuất khẩu, thực tế cho thấy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này đã trở nên linh hoạt và rất có triển vọng trong các năm tới.
Bên cạnh những thành tựu trên đây, trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam thời gian qua còn mét số bất cập cần tháo gớ đó là:
Thứ nhất, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu còn chưa có sự sắp xếp hợp lý và phối hợp một cách nhịp nhàng giữa các doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng. Cạnh tranh luôn là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Nhưng kinh tế thị trường ở bất cứ nước nào cũng luôn gắn với định hướng xã hội, hoặc định hướng vĩ mô của nhà nước. Do đó, cạnh tranh không có nghĩa là trong cùng một quốc gia có quá nhiều tổ chức cùng đặt mua hay chào hàng với những lô hàng nhỏ để tạo nên một thế cạnh tranh không có lợi cho các doanh nghiệp trong nước và tạo điều kiện cho các tổ chức nước ngoài Ðp cấp, Ðp giá hoặc gây nên các điều kiện bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nhìn trên góc độ chung, thị trường xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới đang bị cạnh tranh gay gắt, thị trường thương mại dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của xuất khẩu; tình trạng buôn lậu gian lận trong buôn bán vẫn còn xẩy ra.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu còn nhiền hạn chế. Hệ thống kho tàng, bến bãi, vận chuyển nội địa của Việt Nam còn yếu kém...gây nhiều tổn thất, làm tăng chi phí cho hàng xuất, hàng nhập, dẫn tới giảm bớt khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Thị trường thông tin ở Việt Nam chưa phát triển, thông tin về thị trường còn bị hạn chế, các dự báo thiếu chính xác...; do đó, các nhà doanh nghiệpkhông đủ thông tin cho hoạt động xuất nhập khẩu. Điều này làm cho việc mua bán kém hiệu quả, đặc biệt là những hàng hoá không được xuất khẩu một cách thường xuyên, mặt khác còn hạn chế việc mở rộng thị trường do thông tin không đầy đủ. Các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm thanh toán quốc tế và cả những công đoạn như chuyên chở, bốc dỡ, giao nhận hàng cũng còn nhiều hạn chế... gây nên không Ýt khó khăn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Các nhà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam, kể cả đội ngũ cán bộ nhà nước quản lý họ, còn bị hạn chế nhiều về kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu, chưa am hiểu đầy đủ luật pháp và thông lệ quốc tế...ít nhiều trong tư duy của họ vẫn còn kinh doanh theo kiểu bao cấp phụ thuộc nhiều vào hạn ngạch hoặc trợ cấp xuất nhập khẩu.
Thứ ba, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO, cho nên quan hệ kinh tế- thương mại, hợp tác buôn bán giữa Việt Nam với một số nước chưa thực sự phát triển mạnh mẽ. Những hợp đồng thương mại bền vững giữa Việt Nam với các nước thực sự còn chưa nhiều, do đó làm hạn chế phát triển mạnh mẽ mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại- cơ sở vật chất lâu dài, ổn định của bất kỳ quốc gia nào.
Nguyên nhân cuối cùng có thể đề cập đến là tuy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời gian này có tăng tương đối nhanh, nhưng quy mô còn nhỏ, chưa phát huy hết được nội lực quốc gia, tiềm năng kinh tế của đất nước; cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam tuy có chuyển biến đáng kể nhưng nhìn một cách tổng thể tỷ lệ hàng thô và hàng sơ chế còn cao, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Điều này là do các nguyên nhân: công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu chủ yếu hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập nay không phù hợp với nền sản xuất trong cơ chế thị trường. Các xí nghiệp, kho tàng, bến bãi, máy móc, thiết bị lạc hậu, kém hiệu quả, chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên kiệu cao, sản phẩm làm ra chất lượng thấp và sức cạnh tranh yếu. Việc thu gom hàng xuất khẩu lại không tập trung, chất lượng không đồng đều do chưa quy hoạch được vùng sản xuất.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT- NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM.
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÀ CÁC CHỈ TIÊU
XUẤT NHẬP KHẨU
1. Mục tiêu
Hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ cho mục tiêu chung là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thóc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chu trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu; mử rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kin doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới.
2. Quan điểm chỉ đạo
Tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hót lao động, có thêm ngoại tệ.
Chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giởitên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đát nước và quy định của các tổ chức mà Việt Nam tham gia.
Lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới quy chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu qủa và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kin tế làm khâu than chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất nhập khẩu, hội nhập quốc tế.
Gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; vừa chu trọng htị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hoá thị trường ngoài nước.
Kiên trì chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
3. Các chỉ tiêu về xuất nhập khẩu đến năm 2010
3.1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng
Theo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu phải là 14,4%/năm; trong đó, nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Phương án phấn đấu tăng trưởng xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 do Bộ thương mại đề xuất như sau:
Về xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hóa: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm. Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
Xuất khẩu dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ này là 15%/năm. Giá trị tăng từ 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD năm 2000 lên 32,4 tỷ USD và năm 2005 và 62,7 tỷ USD và năm 2010 (gấp hơn 4 lần).
Về nhập khẩu
Nhập khẩu hàng hóa: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2006-2010 là 13%. Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ USD vào năm 2005 và 53,7 tỷ USD vào năm 2010.
Nhập khẩu dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm. Giá trị tăng từ khoảng 1,2 tỷ USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD và năm 2010.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7 tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD và năm 2010.
3.2. Về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu và cơ cấu dịch vụ
Nhóm nguyên nhiên liệu
Kim ngạch xuất khẩu của nhóm này sẽ có xu hướng giảm tới năm 2005 còn khoảng 9% tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 2000 là 20%), tới năm 2010 dù kiến chỉ chiếm 1% hoặc 3,5%, tuỳ theo phương án khai thác dầu thô.
Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
Kim ngạch xuất khẩu tuyệt đối của nhóm này dự kiến vẫn tăng nhưng tỷ trọng giảm xuống (năm 2000 là 30,1%), năm 2005 còn 22% và giảm xuống 17,2% và năm 2010.
Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo
Mục tiêu phấn đấu về kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này đến năm 2010 là 20-21 tỷ USD chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch và năm 2010 so với hiện tại khoảng 4 tỷ USD và chiếm 30%.
Nhóm sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành này là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 6 đến 7 tỷ USD vào năm 2010.
Cơ cấu dịch vụ xuất khẩu
Xuất khẩu lao động: Mục tiêu phấn đấu năm 2005 là xuất khẩu 150-200 nghàn lao động và đến năm 2010 là 1 triệu lao động; Kim ngạch dự kiến đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2005 và 4,5-6 tỷ USD vào năm 2010.
Dịch vô du lịch: Mục tiêu của ngành là tới năm 2005 thu hút được 3 triệu khách quốc tế với doanh thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu hót 4,5 triệu khách đạt 1,6 tỷ USD.
Vận tải biển và dịch vụ cảng giao nhận: Mục tiêu của ngành là đến năm 2005 đạt 250 triệu USD và 500 triệu USD vào năm 2010.
3.3.Về thị trường xuất nhập khẩu
Tới năm 2010, tỷ trọng các thị trường xuất khẩu được dự kiến như sau:(xem bảng 6)
Bảng 6: Định hướng cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến 2010
Thị trường
Tỷ trọng năm 2000 (%)
Tỷ trọng năm 2010 (%)
Châu Á
57-60
46-50
Châu Âu
26-27
27-30
Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ)
5-6
15-20
Ôxtrâylia và Niu Di Lân
3-5
5-7
Các khu vực khác
2
2-3
Nguồn: Kỷ yếu 55 năm thương mại Việt Nam, tr.90
II.MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG THỜI GIAN TỚI
Để đạt được những chỉ tiêu trong chiến lược phát triển xuất nhập khẩu đến năm 2010, cần phải khắc phục được những tồn tại trong thực tế hoạt động xuất nhập khẩu đang diễn ra; những tồn tại được đề cập đến trong phạm vi của bài viết có thể chưa phản ánh hết được những yếu tố làm hạn chế hoạt động xuất nhập khẩu. Nhưng đó là những căn cứ để đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển hoạt động xuất nhập khẩu đem lại những kết quả nhanh trong thời gian ngắn, một trong số những giải pháp đó là:
* Xây dựng nhanh thể chế của kinh tế thị trường định hướng XHCN: củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đi đôi với tạo điều kiện cho các thành phần kint tế khác cùng phát triển, cải tiến chế độ phân phối, chế độ xuất nhập khẩu; xây dựng đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo ra những cơ sở hợp lý cho việc tổ chức những hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tạo ra một sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ cho các doanh nghiệp cùng làm nhiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu với cùng một ngành hàng, không phân biệt đó là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân... Chỉ có như vậy mới có thể tạo nên sức mạnh tổng hợp và vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế mới được củng cố, tạo nên sức mạnh của cạnh tranh theo đúng nghĩa của nó “Cạnh tranh lành mạnh”.
* Việt Nam cần phấn đấu thực hiện những mục tiêu mà APEC đã đề ra:
Thúc đẩy tự do hoá thương mại giữa các quốc gia bằng biện pháp giảm bớt thuế, dần dần tiến tới phi thuế; từ bỏ việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; thực hiện cạnh tranh bình đẳng; giảm bớt chi phí sản xuất hàng hoá, tăng năng xuất lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và giao lưu của các doanh nghiệp trong khu vực.
Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục đầu tư, thủ tục hải quan, ngoại hối, ngân hàng... Nếu điều này sớm được thực hiện, nó sẽ giúp cho Việt Nam mở rộng thị trường, trên cơ sở đó mở rộng xuất khẩu.
Đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi với tất cả các quốc gia, trên mọi lĩnh vực: phát triển nguồn nhân lực: ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công nghiệp, nông nghiệp; hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng, về kinh tế, năng lượng, giao thông vận tải, bảo hiểm hàng hoá, viễn thông và thông tin. Một hệ thống thông tin thị trường chính xác sẽ cung cấp đầy đủ các dữ liệu, thông tin; giúp cho các doanh nghiệp phân tích, đánh giá, đưa ra các quyết định sát thực tránh được những thiệt hại và rủi ro...
* Để khắc phục tình trạng tỉ lệ hàng sơ chế và thô còn cao trong kim ngạch xuất nhập khẩu; nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu; các doanh nghiệp Việt Nam cần tập chung vào đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất , chế biến hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam cần liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao; đồng thời chú trọng hợp lý hoá quy trình sản xuất- kinh doanh, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, coi trọng việc áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến để được cấp chứng chỉ chất lượng ISO 9000 đối với hàng xuất khẩu. Nhà nước cần áp dụng chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với một số mặt hàng xuất khẩu lớn như nông sản, dệt may, đồ điện điện tử... Để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch), vừa nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới.
* Tăng cường vai trò của Nhà nước trong điều hành xuất nhập khẩu trên cơ sở phối hợp các biện pháp chính sách vĩ mô; đồng thời Nhà nước cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu là đàm phán và ký kết các hiệp định, thoả thuận song phương và đa phương với chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu và xúc tiến xuất khẩu hàng Việt Nam ra thị trường quốc tế. Bộ thương mại cần phối hợp với một số Bộ, ngành hữu qua khác thúc đẩy việc trao đổi các đoàn doanh nghiệp với các nước, trao thông tin thương mại và quảng cáo mặt hàng thông qua các hoạt động hội chợ triển lãm trong nước cũng như quốc tế. Song song với các hoạt động đó, Nhà nước cần xây dựng chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu: Quy hoạch và đầu tư cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ bảo hiểm xuất khẩu, Quỹ khen thưởng xuất khẩu... Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã được đề cập trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp tục làm tốt chính sách thường xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghịêp tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính và hải quan gây khó khăn, phiền hà cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu: Đơn giản hoá đến mức tối đa thủ tuạc thành lập doanh nghiệp, bỏ khâu kiểm dịch xuất xứ hàng hoá nếu không có yêu cầu của đối tác, bỏ việc chứng minh nguồn gốc nguyên liệu sản xuất hàng hoá nếu không liên quan tới hoàn thuế, cho phép xuất khẩu hàng qua nơi không phải là cửa khẩu quốc tế.
KẾT LUẬN
Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu là mục tiêu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đó thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu có vị trÝ quan trọng; điều này đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, là tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bước vào cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt Nam xuất phát từ nền móng không mấy vững chắc, nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp hầu như chưa phát triển chủ yếu là công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; nền kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp, hơn nữa lại trải qua một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Hoạt động xuất nhập khẩu cũng từ đó mà phát triển lên; thế nên, trong chặng đường phát triển của nó tất yếu gặp nhiều khó khăn, cản trở và thăng trầm. Trong tổng thể nền kinh tế không thể khẳng định chỉ có bộ phận này là quan trọng, bộ phận khác là thứ yếu, bởi nền kinh tế của bất kể quốc gia nào hay rộng hơn là nền kinh tế toàn cầu, nó là một hệ thống với các bộ phận không thể tách rời, có các mối quan hệ cả hữu lẫn vô hình chế ngự nhau. Hoạt động xuất khẩu phát triển được là nhờ vào một loạt các hoạt động khác phát triển hậu thuẫn cho nó, chẳng hạn như: hoạt động nhập khẩu, đầu tư... Nhưng sự phát triển của xuất khẩu và đi liền với nó là nhập khẩu là một trong những nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Biết được tầm quan trọng đó; với chức năng, nhiệm vụ của mình Bộ thương mại mà đặc biệt là Vụ xuất nhập khẩu- Bộ thương mại đã lỗ lực không ngừng trong việc khuyến khích xuất khẩu cũng như quản lý nhập khẩu thông qua việc ban hành, thực hiện hàng loạt các Thông tư, Nghị định, Nghị quyết, Quyết định nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động xuất nhập khẩu với mục đích cuối cùng là làm cho nó phát triển mạnh mẽ, góp phần làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển một cách bền vững, để tiến tới Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Kết quả là hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam thời gian qua đã phát triển thần kỳ trong bối cảnh nền kinh tế thế giới trì trệ, còn nền kinh tế các nước khu vực thì trong tình trạng khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng. Nền kinh tế Việt Nam, cũng như hoạt động xuất nhập khẩu chắc chắn còn phát triển mạnh và tiến xa hơn nữa.
Bé trëng Bé th¬ng m¹i
Thø trëng thø ba
Vô TC-KT
Vô Ch©u Phi- T©y Nam ¸
Thanh tra
Bé
Thêng trùc thuéc Bé
Thêng trùc
thi ®ua
T¹p chÝ th¬ng m¹i
B¸o ®èi ngo¹i
B¸o th¬ng m¹i
Thø trëng thø nhÊt
Vô xuÊt nhËp khÈu
Vô Ch©u ¸ TBD
V¨n phßng Bé
Vô ®Çu t
Vô ph¸p chÕ
Côc xóc tiÕn
th¬ng m¹i
Thø trëng thø n¨m
VPUBQG vÒ hîp t¸c
KTQT
Vô chÝnh s¸ch TM ®a biªn
Vô Ch©u ©u - Mü
Thø trëng thø hai
Vô ChÝnh
s¸ch thÞ trêng miÒn nói
Côc
qu¶n lý
thÞ trêng
Vô ChÝnh s¸ch thÞ trêng ®« thÞ vµ n«ng th«n
Thø trëng thø t
Vô kÕ ho¹ch thèng kª
ViÖn nghiªn cøu th¬ng
m¹i
Trung t©m TT th¬ng m¹i
Côc qu¶n lý chÊt lîng
Vô khoa häc kü thuËt
Sơ đồ 2: Các bộ phận trong Bộ Thương Mại
Bé trëng Bé th¬ng m¹i
Thø trëng thø ba
Thø trëng thø nhÊt
Thø trëng thø hai
Vô chÝnh s¸ch TM ®a biªn
VPUBQG vÒ hîp t¸c
KTQT
V¨n phßng Bé
Vô Ch©u ¸ TBD
Vô xuÊt nhËp khÈu
Thêng trùc thuéc Bé
Thanh tra
Bé
Vô Ch©u Phi- T©y Nam ¸
Vô TC-KT
Vô Ch©u ©u - Mü
Côc xóc tiÕn
th¬ng m¹i
Vô ph¸p chÕ
Vô ®Çu t
B¸o th¬ng m¹i
B¸o ®èi ngo¹i
T¹p chÝ th¬ng m¹i
Thêng trùc
thi ®ua
Thø trëng thø n¨m
Thø trëng thø t
Vô khoa häc kü thuËt
Côc qu¶n lý chÊt lîng
Trung t©m TT th¬ng m¹i
ViÖn nghiªn cøu th¬ng
m¹i
Vô kÕ ho¹ch thèng kª
Vô ChÝnh s¸ch thÞ trêng ®« thÞ vµ n«ng th«n
Côc
qu¶n lý
thÞ trêng
Vô ChÝnh
s¸ch thÞ trêng miÒn nói
Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Bộ Thương Mại
Bé trëng Bé Th¬ng M¹i
Thø trëng
thø hai
Thø trëng thø ba
Thø trëng
thø nhÊt
Thø trëng thø t
Thø trëng thø n¨m
Trëng phßngV¨n phßng Bé
Vô
trëng
Vô
®Çu t
Vô trëng Vô ph¸p chÕ
Vô trëng Vô xuÊt nhËp khÈu
Vô trëng Vô ch©u ¸ TBD
Côc trëng Côc xóc tiÕn TM
Vô phã thø ba
Vô phã thø t
Tæ trëng tæ EU
C¸c phßng ban
C¸c phßng ban
C¸c phßng ban
C¸c phßng ban
Vô phã thø hai
Vô phã thø nhÊt
Vô phã thø n¨m
C¸c chuyªn viªn
C¸c chuyªn viªn
C¸c chuyªn viªn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 201.doc