So sánh kết quả thu được của chúng tôi với công
bố của một số nghiên cứu trước đây cho thấy:
Nghiên cứu của Võ Thành Thìn và cộng sự (2012)
cho biết có sự lưu hành của 10 serovar Leptospira
trên đàn lợn nái tại tỉnh Khánh Hòa, đó là L. pomona,
L. panama, L. autumnalis, L. icterohaemorrhagiae,
L. tarassovi, L. grippotyphosa, L. hebdomadis, L.
javanica, L. pyrogenes, L. hardjo. Trong đó, serovar
L. pomona chiếm tỷ lệ cao nhất (51,2%), tiếp theo
là L. panama (19,5%), L. icterohaemorrhagiae
(14,6%), L. autumnalis (12,2%).
Nghiên cứu của Trương Quang và Đặng Văn Minh
(2004) tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ cho biết có sự lưu
hành của 10 serovar gồm L. australis, L. autumnalis,
L. pomona, L. sejroe, L. bataviae, L. canicola, L.
grippotyphosa, L. hebdomadis, L. icterohaemorrhagiae,
L. javanica. Trong đó, các serovar chiếm tỷ lệ cao là
L. icterohaemorrhagiae (18,01%), L. grippotyphosa
(16,15%), L. pomona (15,53%), L. canicola (14,91%)
và L. bataviae (13,04%).
Hoàng Mạnh Lâm (2002) cho biết có sự lưu
hành của 15 serovar Leptospira trên lợn tại tỉnh
ĐăkLăk, trong đó, các serovar chiếm tỷ lệ cao nhất
là L. australis (17,68%), L. bataviae (15,66%), L.
autumnalis và L. panama (10,1%).
Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2017) cho biết
có sự lưu hành của 9 serovar Leptospira khác nhau
trên lợn tại 5 tỉnh/thành khác nhau của Việt Nam là
Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, ĐăkLăk và An Giang,
trong đó các serovar chiếm tỷ lệ cao nhất là L.
tarassovi, L. australis, L. javanica, L. autumnalis
và L. grippotyphosa.
Như vậy có thể nhận thấy sự lưu hành của
Leptospira trên lợn tại các khu vực khác nhau không
có sự đồng nhất. Trong nghiên cứu này của chúng
tôi, ngoài những serovar Leptospira tương ứng với
thành phần của vacxin hiện đang sử dụng để phòng
bệnh xoắn khuẩn cho lợn ở trong nước gồm các
serovar L. bataviae, L. canicola, L. grippotyphosa,
L. icterohaemorrhagiae, L. pomona, L. tarassovi,
còn có sự lưu hành của một số serovar khác thuộc
nhóm gây bệnh như L. autumnalis, L. pyrogenes và
L. hebdomadis. Chính vì vậy cần có những nghiên
cứu tiếp theo để đánh giá hiệu quả phòng bệnh của
loại vacxin đang sử dụng cũng như lựa chọn hoặc bổ
sung các serovar Leptospira phù hợp sản xuất vacxin
phòng bệnh cho lợn tại từng địa phương.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình nhiễm Leptospira trên lợn tại một số tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
TÌNH HÌNH NHIEÃM LEPTOSPIRA TREÂN LÔÏN
TAÏI MOÄT SOÁ TÆNH TRUNG DU VAØ MIEÀN NUÙI PHÍA BAÉC
Nguyễn Xuân Huyên, Cù Hữu Phú, Lưu Thị Hải Yến,
Tăng Thị Phương, Lê Thị Minh Hằng, Trần Việt Dũng Kiên,
Văn Thị Hường, Vũ Ngọc Quý, Đặng Vũ Hoàng
Viện Thú y
TÓM TẮT
Nghiên cứu này đã được tiến hành nhằm đánh giá sự lưu hành của Leptospira trên lợn nuôi tại 4 tỉnh khu
vực trung du và miền núi phía Bắc, đó là Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình, Lào Cai. Kết quả phân tích 1080 mẫu
huyết thanh lợn thu thập được bằng phản ứng vi ngưng kết (Microscopic Agglutination Test – MAT) cho thấy
tỷ lệ nhiễm Leptospira chung trên lợn tại 4 tỉnh nghiên cứu là 7,78%. Trong đó, tỷ lệ lợn bị nhiễm thứ tự là ở
tỉnh Phú Thọ (15,93%), tiếp đến là ở Hòa Bình (8,15%), ở Bắc Giang (5,56%) và ở Lào Cai (1,48%). Đã phát
hiện có sự lưu hành của 11 serovar Leptospira khác nhau, trong đó các serovar có tỷ lệ lưu hành lần lượt là L.
semaranga (39,58%), L. icterohaemorrhagiae (16,67%), L. autumnalis, L. pyrogenes, L. tarassovi (7,29%), L.
bataviae, L. canicola (6,25%) và L. hebdomadis (5,21%).
Từ khóa: Leptospira, lợn, tỷ lệ nhiễm, phản ứng vi ngưng kết (MAT)
Prevalence of Leptospira in pigs raising
in some Northern mountainous and midland provinces, Viet Nam
Nguyen Xuan Huyen, Cu Huu Phu, Luu Thi Hai Yen,
Tang Thi Phuong, Le Thi Minh Hang, Tran Viet Dung Kien,
Van Thi Huong, Vu Ngoc Quy, Dang Vu Hoang
SUMMARY
Prevalence of Leptospira in pigs raising in four provinces (Phu Tho, Bac Giang, Hoa Binh and Lao
Cai) of Viet Nam was detected by using Microscopic Agglutination Test (MAT). The average prevalence
of Leptospira in a total of 1080 swine serum samples collecting from the above provinces was 7.78%.
The prevalence range was in Phu Tho (15.93%), in Hoa Binh (8.15%), in Bac Giang (5.56%) and in Lao
Cai (1.48%). 11 different Leptospira serovars were determined and the most prominent serovars were L.
semaranga (39.58%), L. icterohaemorrhagiae (16.67%), L. autumnalis, L. pyrogenes, L. tarassovi (7.29%),
L. bataviae, L. canicola (6.25%) and L. hebdomadis (5.21%).
Keywords: Leptospira, pig, seroprevalence, Microscopic Agglutination Test (MAT)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Leptospirosis là một trong những bệnh truyền
lây chung giữa động vật và người phổ biến trên thế
giới do xoắn khuẩn thuộc giống Leptospira gây ra.
Các serovar gây bệnh thường mang tính đặc trưng
theo loài động vật hoặc vùng địa lý nhất định (OIE
Terrestrial Manual, 2014). Tại Việt Nam, bệnh xoắn
khuẩn ở lợn do Leptospira gây ra hay còn được gọi
là bệnh lợn nghệ được xác định là một trong những
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, gây tổn thất kinh
tế đáng kể cho ngành chăn nuôi. Tuy nhiên, cũng
như đa số các trường hợp gia súc khác mắc bệnh do
Leptospira, diễn biến bệnh thường ở thể mạn tính,
ít biểu hiện triệu chứng. Gia súc mắc thể bệnh này
thải xoắn khuẩn ra môi trường trong thời gian dài
và là nguồn lây nhiễm nguy hiểm trong chăn nuôi
(Levett, 2001). Lợn bị nhiễm bệnh còn là nguồn lây
nhiễm nguy hiểm cho con người.
Khu vực trung du và miền núi phía Bắc nước
ta được xem là một trong những vùng tồn tại nguy
cơ cao của bệnh xoắn khuẩn ở lợn do có điều kiện
thích hợp cho mầm bệnh Leptospira lưu trữ và phát
triển gây bệnh. Tuy nhiên, những năm gần đây có
rất ít thông tin về bệnh xoắn khuẩn và sự lưu hành
Leptospira trên lợn nuôi tại khu vực này. Chính vì
vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu nhằm xác định
38
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
tỷ lệ nhiễm Leptospira và các serovar Leptospira
phổ biến lưu hành trên lợn nuôi ở 4 tỉnh đại diện tại
khu vực là Phú Thọ, Bắc Giang, Hòa Bình và Lào
Cai. Kết quả thu được sẽ góp phần cảnh báo về sự
lưu hành của mầm bệnh Leptospira trên đàn lợn,
giúp tăng cường ý thức của người chăn nuôi, định
hướng cho việc nghiên cứu, sử dụng vacxin phòng
bệnh hiệu quả, giảm nguy cơ lây nhiễm và bảo vệ
sức khỏe cộng đồng.
II. NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Xác định tỷ lệ nhiễm Leptospira và các serovar
Leptospira lưu hành trên lợn nuôi tại 4 tỉnh: Bắc
Giang, Hòa Bình, Phú Thọ và Lào Cai.
2.2. Nguyên liệu nghiên cứu
- Mẫu huyết thanh lợn được thu thập từ lợn nuôi
tại các tỉnh Bắc Giang, Hòa Bình, Phú Thọ và Lào
Cai trong 2 năm 2015 và 2016. Lợn lấy huyết thanh
được nuôi theo quy mô nông hộ nhỏ, chưa được
tiêm phòng vacxin phòng bệnh xoắn khuẩn.
- Bộ kháng nguyên Leptospira gồm 15 serovar
dùng trong phản ứng MAT (bảng 1).
Bảng 1. Các chủng Leptospira dùng trong nghiên cứu
No. Genomospecies Serogroup Serovar Strain
1 L. interrogans Australis Australis Ballico
2 L. interrogans Autumnalis Autumnalis Akiyami A
3 L. interrogans Bataviae Bataviae Van Tienen
4 L. interrogans Canicola Canicola Hond Utrech IV
5 L. kirschneri Grippotyphosa Grippotyphosa Moskva V
6 L. interrogans Hebdomadis Hebdomadis Hebdomadis
7 L. interrogans Icterohaemorrhagiae Icterohaemorrhagiae Verdun
8 L. borgpetersenii Javanica Javanica Veldrat Batavia 46
9 L. noguchii Panama Panama CZ214K
10 L. interrogans Pomona Pomona Pomona
11 L. interrogans Pyrogenes Pyrogenes Salinem
12 L. borgpetersenii Sejroe Hardjo Hardjo Bovis
13 L. borgpetersenii Sejroe Saxkoebing Mus 24
14 L. biflexa Semaranga Patoc Patoc I
15 L. borgpetersenii Tarassovi Tarassovi Mitis Johnson
- Các nguyên vật liệu, hóa chất, dụng cụ sử dụng
cho phản ứng MAT.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Xác định mẫu huyết thanh dương tính với Leptospira
bằng phản ứng MAT với 15 serovar Leptospira khác
nhau (bảng 1) theo quy trình TCVN 8400-15:2011. Các
mẫu huyết thanh có hiệu giá ngưng kết ≥ 1:100 trong
phản ứng MAT được xem là dương tính với Leptospira.
- Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu được tổng
hợp và xử lý thống kê bằng phần mềm Microsoft
Excel.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên lợn tại các tỉnh
nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành thu thập được 1080
mẫu huyết thanh lợn tại 4 tỉnh Bắc Giang, Hòa
Bình, Phú Thọ và Lào Cai dùng cho nghiên cứu,
với mỗi tỉnh thu thập được 270 mẫu huyết thanh.
Kết quả xét nghiệm các mẫu huyết thanh lợn thu
thập được bằng phản ứng vi ngưng kết (MAT) với
15 serovar Leptospira cho kết quả như trình bày
ở bảng 2.
39
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
Bảng 3. Tỷ lệ nhiễm Leptospira theo giống lợn
Giống lợn Số mẫu kiểm tra Số mẫu dương tính Tỷ lệ (%)
Lợn địa phương 109 12 11,01
Lợn lai 971 72 7,42
Tổng 1080 84 7,78
(*P = 0,184)
Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm Leptospira chung
trên lợn tại 4 tỉnh nghiên cứu là 7,78%. Trong đó,
tỷ lệ nhiễm cao nhất ghi nhận được ở tỉnh Phú Thọ
là 15,93%, tiếp đến là Hòa Bình với 8,15%, Bắc
Giang là 5,56% và Lào Cai có tỷ lệ nhiễm thấp nhất
là 1,48%. Như vậy, có thể thấy, mặc dù tỷ lệ nhiễm
không cao nhưng đã khẳng định có sự lưu hành của
vi khuẩn Leptospira trên lợn tại các tỉnh nghiên cứu
và có sự khác nhau rõ rệt về mặt thống kê giữa các
địa phương (P < 0,05).
Kết quả thu được từ nghiên cứu của chúng tôi
khá tương đồng với kết quả nghiên cứu gần đây
của Lee và cộng sự (2017) khi tiến hành xác định
tỷ lệ lưu hành Leptospira trên lợn tại 5 tỉnh/thành
đại diện cho các khu vực, vùng miền khác nhau của
Việt Nam là Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, ĐăkLăk và
An Giang, cho biết tỷ lệ nhiễm Leptospira chung là
8,17%. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi thấp hơn
khá nhiều so với các kết quả nghiên cứu trước đây
của một số tác giả đã công bố tại Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu của Vũ Đình Hưng và Nguyễn Thị
Nội (1980) cho biết tỷ lệ nhiễm Leptospira ở gia
súc và người khá cao, trong đó tỷ lệ nhiễm ở lợn
là 22,9%. Nghiên cứu của Trương Quang và Đặng
Văn Minh (2004) tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ cho
biết tỷ lệ nhiễm Leptospira trung bình ở lợn giống
nuôi tại khu vực là 26,83%, trong đó có sự khác
nhau tại từng vùng sinh thái với tỷ lệ nhiễm cao nhất
tại vùng đồng bằng (32,28%), sau đó là vùng trung
du (27,50%), miền núi (23,01%), thấp nhất là vùng
ven biển (20,83%). Nghiên cứu của Hoàng Mạnh
Lâm (2002) cho thấy tỷ lệ nhiễm Leptospira trên
lợn tại ĐăkLăk là 28,41% và cũng có sự khác nhau
giữa các vùng sinh thái. Võ Thành Thìn và cộng sự
(2012) xác định tỷ lệ nhiễm Leptospira trên đàn lợn
nái tại Khánh Hòa là 17,7%.
Sự khác biệt về kết quả nghiên cứu của chúng
tôi với các nghiên cứu đã được công bố trước đây
tại Việt Nam có thể do sự khác nhau về thời điểm
nghiên cứu, về điều kiện địa lý, điều kiện và tập quán
chăn nuôi, sự lưu hành của mầm bệnh và các vật chủ
trung gian truyền bệnh trong thực tế tại các khu vực
nghiên cứu.
3.2. Tỷ lệ nhiễm Leptospira theo giống lợn và tính
biệt của lợn
Từ số liệu thu được, chúng tôi tiến hành đánh
giá xem có sự khác biệt hay không về tỷ lệ nhiễm
Leptospira giữa các giống lợn địa phương và giống
lợn lai ngoại được nuôi ở bốn tỉnh nghiên cứu. Kết
quả thu được cho thấy, tỷ lệ lưu hành Leptospira ở các
giống lợn địa phương là 11,01%, cao hơn so với tỷ lệ
nhiễm Leptospira ở các giống lợn lai (7,42%). Tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống
kê (bảng 3).
Bảng 2. Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên lợn tại các tỉnh nghiên cứu
Tỉnh Số mẫu kiểm tra Số mẫu dương tính Tỷ lệ (%)
Phú Thọ 270 43 15,93
Bắc Giang 270 15 5,56
Hòa Bình 270 22 8,15
Lào Cai 270 4 1,48
Tổng 1080 84 7,78
(*P < 0,05)
40
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
Về mặt lý thuyết, các giống lợn địa phương do có
khả năng thích nghi cao hơn với điều kiện sống tại địa
phương, thường được nuôi tự do hơn, dài ngày hơn, tận
dụng các thức ăn có sẵn hoặc tái chế nên nguy cơ tiếp xúc
với mầm bệnh là cao hơn so với các giống lợn lai ngoại
cần điều kiện nuôi dưỡng tốt hơn. Tuy nhiên, do phần
lớn lợn mà chúng tôi lấy mẫu đều được nuôi theo quy
mô nông hộ nhỏ với không gian mở nên khả năng tiếp
xúc với mầm bệnh từ các vật chủ trung gian bên ngoài là
không có sự khác biệt nhiều, dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh
giữa hai giống lợn không có sự chênh lệch lớn.
Tương tự, khi tiến hành so sánh tỷ lệ nhiễm
Leptospira theo tính biệt của lợn, kết quả cho thấy
không có sự sai khác về thống kê (P = 0,736) giữa
lợn đực và lợn cái, với tỷ lệ nhiễm ở lợn đực là 7,46%
và ở lợn cái là 8,01% (bảng 4).
Kết quả thu được của chúng tôi cũng tương đồng
với nghiên cứu của Lee và cộng sự (2017) khi cho rằng
không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa tỷ lệ nhiễm
Leptospira ở lợn đực và lợn cái, mặc dù tỷ lệ lưu hành
ở lợn cái cao hơn một chút so với ở lợn đực.
Như vậy kết quả thu được cho thấy tỷ lệ nhiễm
Leptospira trên lợn tại các khu vực nghiên cứu
không phụ thuộc vào giống lợn hoặc tính biệt của
lợn.
3.3. Kết quả xác định sự lưu hành của các serovar
Leptospira trên lợn
Tiến hành xác định sự lưu hành của các serovar
Leptospira trên lợn tại 4 tỉnh nghiên cứu, chúng tôi
thu được kết quả như trình bày ở bảng 5.
Bảng 4. Tỷ lệ lưu hành Leptospira theo tính biệt của lợn
Tính biệt Số mẫu kiểm tra Số mẫu dương tính Tỷ lệ (%)
Đực 456 34 7,46
Cái 624 50 8,01
Tổng 1080 84 7,78
*(P = 0,736)
Bảng 5. Kết quả xác định sự lưu hành các serovar Leptospira trên lợn
TT Serovar Số mẫu dương tính Tỷ lệ (%)
1 L. semaranga 38 39,58
2 L. icterohaemorrhagiae 16 16,67
3 L. autumnalis 7 7,29
4 L. pyrogenes 7 7,29
5 L. tarassovi 7 7,29
6 L. bataviae 6 6,25
7 L. canicola 6 6,25
8 L. hebdomadis 5 5,21
9 L. grippotyphosa 2 2,08
10 L. pomona 1 1,04
11 L. sejroe saxkoebing 1 1,04
Kết quả cho thấy, đã phát hiện có 11 serovar
Leptospira khác nhau lưu hành, đó là các serovar L.
autumnalis, L. bataviae, L. canicola, L. grippotyphosa,
L. hebdomadis, L. icterohaemorrhagiae, L. pomona,
L. pyrogenes, L. semaranga, L. tarassovi, L. sejroe
saxkoebing. Trong đó, các serovar có tỷ lệ lưu hành
cao nhất lần lượt là L. semaranga (39,58%), L.
icterohaemorrhagiae (16,67%), L. autumnalis, L.
pyrogenes và L. tarassovi (7,29%), L. bataviae và L.
canicola (6,25%) và L. hebdomadis (5,21%).
41
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
So sánh kết quả thu được của chúng tôi với công
bố của một số nghiên cứu trước đây cho thấy:
Nghiên cứu của Võ Thành Thìn và cộng sự (2012)
cho biết có sự lưu hành của 10 serovar Leptospira
trên đàn lợn nái tại tỉnh Khánh Hòa, đó là L. pomona,
L. panama, L. autumnalis, L. icterohaemorrhagiae,
L. tarassovi, L. grippotyphosa, L. hebdomadis, L.
javanica, L. pyrogenes, L. hardjo. Trong đó, serovar
L. pomona chiếm tỷ lệ cao nhất (51,2%), tiếp theo
là L. panama (19,5%), L. icterohaemorrhagiae
(14,6%), L. autumnalis (12,2%).
Nghiên cứu của Trương Quang và Đặng Văn Minh
(2004) tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ cho biết có sự lưu
hành của 10 serovar gồm L. australis, L. autumnalis,
L. pomona, L. sejroe, L. bataviae, L. canicola, L.
grippotyphosa, L. hebdomadis, L. icterohaemorrhagiae,
L. javanica. Trong đó, các serovar chiếm tỷ lệ cao là
L. icterohaemorrhagiae (18,01%), L. grippotyphosa
(16,15%), L. pomona (15,53%), L. canicola (14,91%)
và L. bataviae (13,04%).
Hoàng Mạnh Lâm (2002) cho biết có sự lưu
hành của 15 serovar Leptospira trên lợn tại tỉnh
ĐăkLăk, trong đó, các serovar chiếm tỷ lệ cao nhất
là L. australis (17,68%), L. bataviae (15,66%), L.
autumnalis và L. panama (10,1%).
Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2017) cho biết
có sự lưu hành của 9 serovar Leptospira khác nhau
trên lợn tại 5 tỉnh/thành khác nhau của Việt Nam là
Hà Nội, Nghệ An, Sơn La, ĐăkLăk và An Giang,
trong đó các serovar chiếm tỷ lệ cao nhất là L.
tarassovi, L. australis, L. javanica, L. autumnalis
và L. grippotyphosa.
Như vậy có thể nhận thấy sự lưu hành của
Leptospira trên lợn tại các khu vực khác nhau không
có sự đồng nhất. Trong nghiên cứu này của chúng
tôi, ngoài những serovar Leptospira tương ứng với
thành phần của vacxin hiện đang sử dụng để phòng
bệnh xoắn khuẩn cho lợn ở trong nước gồm các
serovar L. bataviae, L. canicola, L. grippotyphosa,
L. icterohaemorrhagiae, L. pomona, L. tarassovi,
còn có sự lưu hành của một số serovar khác thuộc
nhóm gây bệnh như L. autumnalis, L. pyrogenes và
L. hebdomadis. Chính vì vậy cần có những nghiên
cứu tiếp theo để đánh giá hiệu quả phòng bệnh của
loại vacxin đang sử dụng cũng như lựa chọn hoặc bổ
sung các serovar Leptospira phù hợp sản xuất vacxin
phòng bệnh cho lợn tại từng địa phương.
IV. KẾT LUẬN
- Tỷ lệ nhiễm Leptospira chung trên lợn tại 4 tỉnh
nghiên cứu là 7,78%; trong đó tỷ lệ nhiễm ở Phú Thọ
là cao nhất với 15,93%, tiếp đến là Hòa Bình 8,15%,
Bắc Giang là 5,56% và Lào Cai là 1,48%.
- Tỷ lệ nhiễm Leptospira trên lợn tại các khu vực
nghiên cứu không phụ thuộc vào giống lợn hoặc tính
biệt của lợn.
- Đã xác định có 11 serovar Leptospira khác
nhau lưu hành, trong đó các serovar chiếm ưu
thế là L. semaranga, L. icterohaemorrhagiae,
L. autumnalis, L. pyrogenes, L. tarassovi, L.
bataviae, L. canicola và L. hebdomadis.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Đình Hưng, Nguyễn Thị Nội, 1980.
Bệnh Leptospirosis ở gia súc và người. Kết
quả nghiên cứu KH&KT thú y 1968 – 1978, Nhà xuất
bản Nông nghiệp, 226-232.
2. Hoàng Mạnh Lâm, 2002. Tình hình nhiễm Leptospira
của gia súc và người ở ĐăkLăk và biện pháp phòng,
trị. Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, Viện Thú y quốc gia
- Hà Nội.
3. Trương Quang, Đặng Văn Minh, 2004. Tình hình
nhiễm và mối tương quan về tỷ lệ nhiễm các serovar
Leptospira ở đàn lợn giống và các động vật có liên
quan tại một số tỉnh Bắc Trung bộ. Tạp chí KHKT
Nông nghiệp (ĐHNN Hà Nội), tập 2, số 2, 121-126.
4. Võ Thành Thìn, Đào Duy Hưng, Đặng Văn Tuấn,
Phạm Trung Hiếu và Lê Thắng, 2012. Tình hình nhiễm
Leptospira trên lợn nái tại Khánh Hòa. Tạp chí Khoa
học kỹ thuật thú y, 19(5), 55-59.
5. Hu Suk Lee, Nguyen Viet Khong, Huyen Nguyen
Xuan, Vuong Bui Nghia, Hung Nguyen-Viet, Delia
Grace, 2017. Sero-prevalence of specific Leptospira
serovars in fattening pigs from 5 provinces in Vietnam.
BMC Veterinary Research (2017) 13:125.
6. OIE Terrestrial Manual 2014. Leptospirosis. Chapter
2.1.9.
7. Levett, P.N., 2001. Leptospirosis. Clinical
Microbiology Review, 14(2), 296-326.
8. Picardeau M., 2013. Diagnosis and epidemiology of
leptospirosis. Médecine et Maladies Infectieuses, 43
(1), 1–9.
Ngày nhận 11-1-2018
Ngày phản biện 15-1-2018
Ngày đăng 1-5-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_hinh_nhiem_leptospira_tren_lon_tai_mot_so_tinh_trung_du.pdf