Chu kỳ sinh học của sán lá sinh sản trên vịt
phải qua 2 vật chủ trung gian: Vật chủ trung gian
thứ nhất là ốc Bithynia sp., vật chủ trung gian thứ
2 là ấu trùng chuồn chuồn. Vịt nhiễm sán lá sinh
sản do ăn phải ấu trùng chuồn chuồn chứa nang
kén sán (McDonald, 1969). Kết quả nghiên cứu
cho thấy tỷ lệ vịt nhiễm sán lá sinh sản ở mùa
mưa cao hơn ở mùa khô. Điều này có thể do mùa
mưa có đủ các điều kiện thích hợp để vật chủ
trung gian phát triển. Mặt khác, khi vịt thải trứng
sán theo phân ra ngoài môi trường, trứng được
phát tán đến các vùng rộng lớn nhờ các dòng suối
chảy mạnh hoặc kênh mương tưới tiêu,. Vì vậy,
vật chủ trung gian dễ tiếp cận mầm bệnh và khép
kín chu kỳ sinh học. Điều này cũng giải thích tại
sao vịt nuôi ở những vùng đồng bằng nhiễm sán
cao hơn so với vùng đồi núi.
Ở Nam Trung Bộ chủ yếu tồn tại 2 phương
thức chăn nuôi: vịt nuôi bán chăn thả (vịt nuôi
nhốt trên các con sông, kênh mương, đến mùa thu
hoạch lúa thả chạy đồng); vịt nuôi nhốt (vịt nuôi
nhốt trên các con sông, kênh mương và không thả
chạy đồng). Trong 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và
Khánh Hòa khảo sát đều cho thấy tỷ lệ nhiễm sán
lá sinh sản trên vịt ở phương thức nuôi bán chăn
thả cao hơn nuôi nhốt. Điều này cho thấy vịt chạy
đồng được chăn thả từ cánh đồng này sang cánh
đồng khác để nhặt thóc rơi vãi sau thu hoạch, do
đó dễ tiếp xúc với vật chủ trung gian thứ 2 (ấu
trùng chuồn chuồn) hơn so với vịt nuôi nhốt.
Vịt ở tất cả các nhóm tuổi khảo sát đều nhiễm
sán lá sinh sản. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm trên vịt ở
nhóm tuổi ≤ 8 tuần thấp hơn so với tỷ lệ nhiễm trên
vịt ở nhóm 9-24 tuần và >24 tuần. Điều này có thể
do thời gian nuôi lâu, vịt có nhiều cơ hội tiếp xúc
với mầm bệnh hơn nên tỷ lệ nhiễm ở vịt lớn cao
hơn so với vịt nhỏ.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình nhiễm sán lá sinh sản (prosthogonimus sp) trên vịt tại một số tỉnh Nam Trung Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
TÌNH HÌNH NHIEÃM SAÙN LAÙ SINH SAÛN (PROSTHOGONIMUS SP.)
TREÂN VÒT TAÏI MOÄT SOÁ TÆNH NAM TRUNG BOÄ
Nguyễn Đức Tân, Nguyễn Văn Thoại,
Huỳnh Vũ Vỹ, Lê Hứa Ngọc Lực
Phân viện Thú y miền Trung
TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu này nhằm xác định sự phân bố và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm sán lá
sinh sản trên đàn vịt nuôi tại tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Tổng số 960 con vịt đã được
mổ khám để xét nghiệm túi Fabricius và ống dẫn trứng. Kết quả là đã phát hiện được 292 vịt nhiễm
sán, với tỷ lệ nhiễm chung ở 3 tỉnh là 30,41%, không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm này giữa 3 tỉnh
nghiên cứu. Tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt phụ thuộc vào nhóm tuổi, vịt ở nhóm từ 9-24 tuần
và >24 tuần tuổi bị nhiễm sán cao hơn so với vịt ở nhóm ≤ 8 tuần tuổi; vịt nuôi ở vùng đồng bằng
bị nhiễm (36,25%) cao hơn so với vịt nuôi ở vùng đồi núi (24,58%); vịt nuôi ở mùa mưa bị nhiễm
(38,33%) cao hơn so với vịt nuôi ở mùa khô (22,8%); vịt nuôi theo phương thức bán chăn thả có tỷ
lệ nhiễm (38,96%) cao hơn so với vịt nuôi nhốt (21,87%); không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa
giống vịt siêu trứng (30,83%) và giống vịt siêu thịt (30%).
Từ khóa: vịt, sán lá sinh sản, tỷ lệ nhiễm, Nam Trung Bộ
Situation of Prosthogonimus sp. infection of duck
in some Southern Central provinces, Viet Nam
Nguyen Duc Tan, Nguyen Van Thoai,
Huynh Vu Vy, Le Hua Ngoc Luc
SUMMARY
The objective of this study was to identify the distribution and influential factors to the prevalence
of Prosthogonimus sp in the duck flock raising in Binh Dinh, Phu Yen and Khanh Hoa provinces.
Autopsy method was applied for 960 ducks to test the Fabricius and oviduct. As a result, the
average infection rate of ducks with Prosthogonimus sp was 30.41%; there was no significant
difference of the infection rate of ducks in the three provinces. The infection rate was depended
on the duck age groups, the lowest infection rate was at the age group ≤ 8 weeks old, followed
by age groups from 9-24 weeks old and > 24 weeks old. The infection rate of ducks raising in the
plain area was 36.25%, It was higher than that in the mountainous area (24.58%). The infection
rate in the rainy season (38.33%) was significantly higher than that in the dry season (22.8%).
The infection rate of duck raising in the semi-outdoor and indoor raising systems was 21.97% and
38.96%, respectively (P<0.05). There was no significant difference of the infection rate between
the egg laying duck breed and the meat raising duck breed (p>0.05).
Keywords: duck, Prosthogonimus sp., prevalence, South Central province
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ nằm trên
lưu vực của các con sông hoặc ven biển, là vùng
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển chăn
nuôi vịt. Nghề nuôi vịt ở đây đã có từ lâu và
chiếm một vị trí khá quan trọng, góp phần không
nhỏ trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, cùng với những điều kiện sinh thái thích
hợp để phát triển đàn vịt thì cũng là môi trường
thuận lợi cho các bệnh ký sinh trùng phát triển.
Những năm gần đây, theo báo cáo của Chi cục
Thú y các tỉnh, vịt ở đây bị bệnh nhưng không
rõ nguyên nhân, ảnh hưởng lớn đến ngành chăn
65
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
nuôi vịt, đặc biệt là đối với vịt đẻ. Qua điều tra
tình hình thực tế cho thấy, vịt ở đây nhiễm loài
sán lá sinh sản Prosthogonimus sp., sán ký sinh
trong ống dẫn trứng và túi Fabricius của vịt.
Sán lá sinh sản thuộc lớp sán lá Trematoda;
họ Prosthogonimidae; giống Prosthogonimus,
loài Prosthogonimus sp. Sán lá sinh sản ở vịt
phân bố khắp các vùng miền: từ miền núi, đến
trung du và đồng bằng, nhất là những nơi có
nhiều ao, hồ, đầm, phá, ruộng nước... (Phạm
Văn Khuê và Phan Lục, 1996). Tại khu vực
Nam Trung Bộ, chưa có nghiên cứu nào đánh
giá tình hình nhiễm sán lá sinh sản trên vịt. Do
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này
nhằm xác định tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên
vịt và các yếu tố liên quan đến sự phân bố của
mầm bệnh, làm cơ sở khoa học cho các nghiên
cứu tiếp theo.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên, vật liệu nghiên cứu
Địa điểm lấy mẫu: các tỉnh Bình Định, Phú
Yên và Khánh Hòa.
Thời gian: năm 2016 - 2017.
Một số dụng cụ, hóa chất: Formol, thuốc
nhuộm carmine, acid acetic, nước cất, acid
chlohydric, cồn, kính hiển vi, kính lúp, bộ đồ
mổ tiểu gia súc,
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để xác định đặc điểm phân bố mầm bệnh sán
lá sinh sản trên vịt tại tỉnh Bình Định, Phú Yên
và Khánh Hòa, thiết kế nghiên cứu là điều tra
cắt ngang, chọn mẫu ngẫu nhiên đơn. Mỗi tỉnh
chọn 5 huyện đại diện vùng núi và vùng đồng
bằng, mỗi huyện chọn 5 xã, mỗi xã chọn 5 hộ
chăn nuôi, mỗi hộ chọn khoảng 5 vịt.
Tính dung lượng mẫu tối thiểu theo công
thức: n = Z21-α/2 x P(1-P)/d2
Trong đó n là cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được;
P là tỷ lệ nhiễm dự kiến.
Z21-α/2 = hệ số tin cậy 95%, có giá trị 1,96%;
d là sai số tuyệt đối 0,05%.
Các chỉ tiêu đánh giá tình hình nhiễm như
sau:
Mùa vụ: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết
tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng
4 năm sau.
Nhóm tuổi: vịt con (1-8 tuần tuổi), vịt hậu bị
(9-24 tuần tuổi), vịt sinh sản (trên 24 tuần tuổi).
Phương thức nuôi: vịt nuôi nhốt và nuôi bán
công nghiệp.
Địa hình: vùng đồi núi và vùng đồng bằng.
Giống vịt: giống siêu thịt và giống siêu trứng.
Xác định tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt
bằng phương pháp mổ khám không toàn diện
(Skrjabin K. I., 1928). Các mẫu sán thu thập
được trong ống dẫn trứng và túi Fabricius của
vịt, giữ ở nhiệt độ 4-80C và vận chuyển ngay
đến phòng thí nghiệm. Rửa sạch sán bằng dung
dịch nước muối sinh lý và phân loại theo tài liệu
của Phan Thế Việt và cs (1977); Soulsby (1982).
Các số liệu được xử lý bằng Excel 2010. So
sánh sự sai khác bằng phần mềm Epical 2.0.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt tại
tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa
Từ năm 2016-2017, tổng số 960 vịt được mổ
khám ở tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa
để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản. Kết quả
được thể hiện ở bảng 1.
Từ kết quả ở bảng 1 cho thấy, tổng số 960
vịt được xét nghiệm ở tỉnh Bình Định, Phú Yên
và Khánh Hòa, phát hiện 292 vịt nhiễm sán lá
sinh sản Prosthogonimus sp., với tỷ lệ nhiễm là
30,41%. Tổng số 1691 sán thu thập được ở túi
Fabricius và ống dẫn trứng của 292 vịt nhiễm
bệnh, trung bình 5,79 ± 3,6 sán/vịt (biến động
từ 1 đến 27 sán/vịt).
Trong đó xét nghiệm 320 vịt ở tỉnh Bình
Định, phát hiện 103 vịt nhiễm sán, tỷ lệ
nhiễm là 32,18%; tổng số 632 sán được thu
66
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
thập, cường độ nhiễm thấp nhất là 2 sán và
cao nhất là 27 sán, trung bình 6,13 ± 4,4 sán/
vịt. Xét nghiệm 320 vịt ở tỉnh Phú Yên, phát
hiện 96 vịt nhiễm sán, với tỷ lệ nhiễm là
30,00%; tổng số 547 sán được thu thập, với
số vịt nhiễm thấp nhất là 2 sán và cao nhất
là 19 sán, trung bình 5,69 ± 3,5 sán/vịt. Xét
nghiệm 320 vịt ở tỉnh Khánh Hòa, phát hiện
93 vịt nhiễm sán, với tỷ lệ nhiễm là 29,06%;
tổng số 512 sán được thu thập, với cường
độ nhiễm thấp nhất là 1 sán và cao nhất là
18 sán, trung bình 5,5 ± 3,1 sán/vịt. Phân
tích thống kê, không có sự khác biệt về tỷ lệ
nhiễm sán trên vịt giữa các tỉnh Bình Định,
Phú Yên và Khánh Hòa (P>0,05).
Quan sát vịt nhiễm bệnh sán lá sinh sản cho
thấy: vịt thường có dấu hiệu mệt mỏi, ốm yếu,
giảm bắt mồi, giảm sản lượng trứng, trứng vỏ
mỏng, biến dạng, không có lòng đỏ,... Mổ khám
những vịt nhiễm bệnh thấy sán ký sinh trong túi
Fabricius hoặc ống dẫn trứng. Sán ký sinh làm
tổn thương thành niêm mạc (viêm, xuất huyết),
dẫn đến chức năng của ống dẫn trứng và túi
Fabcicius cũng bị ảnh hưởng (hình 1).
Bảng 1. Tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt ở tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa
Địa phương Số con xét nghiệm
Số con nhiễm
(%)
Vị trí sán ký sinh
ở vịt Tổng số sán
(biến động)
Số sán
trung bình/vịt
Fab O
Bình Định 320 103 (32,18) + + 632 (2-27) 6,13 ± 4,4
Phú Yên 320 96 (30,00) + + 547 (2-19) 5,69 ± 3,5
Khánh Hòa 320 93 (29,06) + + 512 (1-18) 5,50 ± 3,1
Tổng cộng 960 292 (30,41) + + 1691 (1-27) 5,79 ± 3,6
Ghi chú: Fab là túi Fabricius, O là ống dẫn trứng
1 2 3
Hình 1. Sán lá sinh sản Prosthogonimus sp. trên vịt
(1: Sán ký sinh ống dẫn trứng, 2: Sán ký sinh ở túi Fabricius; 3: Sán trưởng thành)
3.2. Tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt theo
các chỉ tiêu khảo sát
Phân tích tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt
tại tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa theo
các chỉ tiêu mùa vụ, nhóm tuổi, phương thức
chăn nuôi, giống vịt. Kết quả thể hiện ở bảng 2
và hình 2.
Kết quả ở bảng 2 cho thấy: tỷ lệ nhiễm
sán lá sinh sản trên vịt ở mùa mưa là 38,33%
(184/480), cao hơn so với tỷ lệ nhiễm trên vịt
ở mùa khô 22,80% (108/480). Tỷ lệ nhiễm trên
vịt ở phương thức nuôi bán chăn thả là 38,96%
(187/480), cao hơn so với nuôi nhốt 21,87%
(105/480). Tỷ lệ nhiễm trên vịt ở vùng đồng
bằng là 36,25% (174/480), cao hơn so với ở
67
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
vùng đồi núi 24,58% (174/480). Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Phân tích tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt theo
các nhóm tuổi cho thấy, tỷ lệ nhiễm ở nhóm tuổi
≤ 8 tuần, 9-24 tuần, >24 tuần lần lượt là 18,44%
(59/320), 28,44% (123/320) và 34,37% (110/320).
Kết quả so sánh thống kê cho thấy không có sự
khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa 2 nhóm 9-24 tuần và
>24 tuần tuổi (P>0,05). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm trên
vịt ở nhóm 9-24 tuần và >24 tuần tuổi cao hơn so
với nhóm vịt ≤ 8 tuần tuổi (P<0,05). Trong khi đó,
tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên giống vịt siêu thịt là
30,83% (148/480), ở giống vịt siêu trứng là 30,0%
(144/480), không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm
giữa 2 giống vịt (P>0,05).
Chu kỳ sinh học của sán lá sinh sản trên vịt
phải qua 2 vật chủ trung gian: Vật chủ trung gian
thứ nhất là ốc Bithynia sp., vật chủ trung gian thứ
2 là ấu trùng chuồn chuồn. Vịt nhiễm sán lá sinh
sản do ăn phải ấu trùng chuồn chuồn chứa nang
Bảng 2. Tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt theo các chỉ tiêu khảo sát
Chi tiêu phân tích
Số vịt nhiễm/số vịt xét nghiệm (%)
Mùa khô Mùa mưa Tổng cộng
≤ 8 tuần tuổi 22/160 (13,75) 37/160 (23,12) 59/320 (18,44)
9-24 tuần tuổi 47/160 (29,37) 76/160 (47,50) 123/320 (38,44)
> 24 tuần tuổi 39/160 (24,37) 71/160 (44,37) 110/320 (34,37)
Cộng 108/480 (22,8) 184/480 (38,33) 292/960 (30,41)
Nuôi bán chăn thả 74/240 (30,83) 113/240 (47,08) 187/480 (38,96)
Nuôi nhốt 34/240 (14,17) 71/240 (29,58) 105/480 (21,87)
Cộng 108/480 (22,8) 184/480 (38,33 292/960 (30,41)
Vịt siêu thịt 51/240 (21,25) 97/240 (40,42) 148/480 (30,83)
Vịt siêu trứng 57/240 (23,75) 87/240 (36,25) 144/480 (30,00)
Cộng 108/480 (22,8) 184/480 (38,33 292/960 (30,41)
Vùng đồi núi 36/240 (15,00) 82/240 (34,17) 118/480 (24,58)
Vùng đồng bằng 72/240 (30,00) 102/240 (42,50) 174/480 (36,25)
Cộng 108/480 (22,8) 184/480 (38,33 292/960 (30,41)
Hình 2. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt theo các chỉ tiêu khảo sát
68
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
kén sán (McDonald, 1969). Kết quả nghiên cứu
cho thấy tỷ lệ vịt nhiễm sán lá sinh sản ở mùa
mưa cao hơn ở mùa khô. Điều này có thể do mùa
mưa có đủ các điều kiện thích hợp để vật chủ
trung gian phát triển. Mặt khác, khi vịt thải trứng
sán theo phân ra ngoài môi trường, trứng được
phát tán đến các vùng rộng lớn nhờ các dòng suối
chảy mạnh hoặc kênh mương tưới tiêu,... Vì vậy,
vật chủ trung gian dễ tiếp cận mầm bệnh và khép
kín chu kỳ sinh học. Điều này cũng giải thích tại
sao vịt nuôi ở những vùng đồng bằng nhiễm sán
cao hơn so với vùng đồi núi.
Ở Nam Trung Bộ chủ yếu tồn tại 2 phương
thức chăn nuôi: vịt nuôi bán chăn thả (vịt nuôi
nhốt trên các con sông, kênh mương, đến mùa thu
hoạch lúa thả chạy đồng); vịt nuôi nhốt (vịt nuôi
nhốt trên các con sông, kênh mương và không thả
chạy đồng). Trong 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và
Khánh Hòa khảo sát đều cho thấy tỷ lệ nhiễm sán
lá sinh sản trên vịt ở phương thức nuôi bán chăn
thả cao hơn nuôi nhốt. Điều này cho thấy vịt chạy
đồng được chăn thả từ cánh đồng này sang cánh
đồng khác để nhặt thóc rơi vãi sau thu hoạch, do
đó dễ tiếp xúc với vật chủ trung gian thứ 2 (ấu
trùng chuồn chuồn) hơn so với vịt nuôi nhốt.
Vịt ở tất cả các nhóm tuổi khảo sát đều nhiễm
sán lá sinh sản. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm trên vịt ở
nhóm tuổi ≤ 8 tuần thấp hơn so với tỷ lệ nhiễm trên
vịt ở nhóm 9-24 tuần và >24 tuần. Điều này có thể
do thời gian nuôi lâu, vịt có nhiều cơ hội tiếp xúc
với mầm bệnh hơn nên tỷ lệ nhiễm ở vịt lớn cao
hơn so với vịt nhỏ.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt
tại Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa (30,41%)
cao hơn tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt tại đồng
bằng sông Cửu Long 9,51% (Nguyễn Hữu Hưng,
2007), tại Thái Bình, Nam Định và Hải Dương là
6,97% (Nguyễn Xuân Dương, 2009), tại trại vịt
giống VIGOVA, thành phố Hồ Chí Minh là 5,24%
(Nguyễn Ngọc Huân, 2008).
IV. KẾT LUẬN
Tỷ lệ nhiễm sán lá sinh sản trên vịt ở tỉnh
Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa lần lượt là
32,18%, 30,00% và 29,06%. Tỷ lệ nhiễm sán
trên vịt ở mùa mưa cao hơn so với mùa khô; tỷ
lệ nhiễm ở phương thức nuôi bán chăn thả cao
hơn so với nuôi nhốt; tỷ lệ nhiễm ở vùng đồng
bằng cao hơn so với ở vùng đồi núi. Không có
sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa giống vịt siêu
thịt và vịt siêu trứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Xuân Dương, 2009. Nghiên cứu tình hình
nhiễm giun sán của vịt ở Thái Bình, Nam Định, Hải
Dương và đề xuất giải pháp phòng trị. Luận án Tiến sĩ
Nông nghiệp, Viện Thú y.
2. Phạm Văn Khuê, Phan Lục, 1996. Ký sinh trùng thú y.
Nxb nông nghiệp-Hà Nội. Tr 73-80.
3. Nguyễn Ngọc Huân, 2008. Tình hình nhiễm giun
sán đường tiêu hóa ở vịt VC-Super-M nhập nội được
nuôi theo phương thức bán công nghiệp tại trại giống
VIGOVA. Tạp chí Khoa học công nghệ chăn nuôi số 12.
4. Nguyễn Hữu Hưng, 2007. Giun sán ký sinh trên vịt tại
Đồng Bằng Sông Cửu Long và thí nghiệm thuốc phòng
trị một số loài giun sán chủ yếu. Luận án tiến sĩ Nông
nghiệp, Đại Học Nông Lâm, TP. Hồ Chí Minh.
5. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ và Nguyễn Thị Lê.
1977. Giun sán ký sinh ở động vật Việt Nam (Thành
phần loài, vị trí và hệ thống phân loại). Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
6. Skrjabin K.I và Petrov A.M (1963), Nguyên lý môn
giun tròn thú y (người dịch: Bùi Lập, Đoàn Thị Băng
Tâm, Tạ Thị Vịnh), Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật,
Hà Nội, 1997.
7. Kavetska, K. M., Rzad, I., Sitko, J., 2008. Taxonomic
structure of Digenea in wild ducks (Anatinae) from
West Pomerania. Wiad Parasitol 54, 131-136.
8. Farias JD, Canaris AG, 1986. Gastrointestinal
helminths of the Mexican duck, Anas platyrhynchos
diazi Ridgway, from north central Mexico and
southwestern United States. J Wildl Dis. 22(1):51-4.
9. McDonald, M., 1969. Catalogue of helminths of
waterfowl (Anatidae). Spec. scient. Rep. US Fish
Wildl. Serv., Wildlife.
10. Soulsby, E. J. L., 1982. Helminths, Arthropods and
Protozoa of domesticaled animals. London: Bailliere
Tindall, 7th edition: 1-809
Ngày nhận 12-1-2018
Ngày phản biện 4-2-2018
Ngày đăng 1-5-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_hinh_nhiem_san_la_sinh_san_prosthogonimus_sp_tren_vit_t.pdf