KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Điều tra tại tỉnh Quảng Nam đã cho thấy không
ghi nhận cá thể sâm Ngọc Linh nào ngoài tự nhiên
(năm 1995). Với chủ trương của tỉnh là quy hoạch
bảo tồn và phát triển 7 xã với tổng số cây hỗ trợ
11.500 cây. Đồng thời cho các doanh nghiệp thuê
môi trường rừng (với tổng diện tích là 197,08 ha) với
khả năng cung ứng khoảng 381500 cây sâm Ngọc
Linh giống
Điều tra tại tỉnh Kon Tum đã cho thấy, các vườn
sâm Ngọc Linh được quản lý chủ yếu bởi các doanh
nghiệp, điển hình như công ty cổ phần sâm Ngọc
Linh Kon Tum (300 ha) và công ty TNHH một
thành viên lâm nghiệp Đăk Tô (20 ha). Các doanh
nghiệp đang từng bước phát triển nhằm cung cấp
lượng cây sâm giống cho các vườn ươm trong tỉnh.
4.2. Đề nghị
Trao đổi lấy ý kiến chuyên gia cho thấy 2 tỉnh
Quảng Nam và Kon Tum có tiềm năng để phát triển
bền vững sâm Ngọc Linh. Tuy nhiên, để phát triển
sâm bền vững cần có những nghiên cứu về giống,
quy hoạch vùng trồng, kỹ thuật canh tác phù hợp,
quy trình sơ chế, bảo quản và chế biến sản phẩm
hàng hóa; khuyến khích nông dân, doanh nghiệp
tham gia chuỗi giá trị cây sâm.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình phát triển cây giống sâm Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Nam và Kon Tum, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
122
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Morphology, anatomy and effect of temperature and soaking time
on germination rate of Codonopsis javanica seeds
Pham Ngoc Khanh, Nghiem Tien Chung,
Chu Thi Thuy Nga, Do Ly Giang
Abstract
Codonopsis javanica (Blume) Hook.f - Campanulaceae is a medicinal plant which is popularly used in traditional
medicine of Vietnam. The study of seed morphology and anatomy showed that seed shapes are diverse such as ovoid,
elliptic, broad ovate with 0.174 g/1,000 grains and the size of 0.4 - 0.6 ˟ 0.2 - 0.3 mm. Seed coat colour is yellow-
brownish to dark-brown; including one layer of five to seven-slides cell, cell wall absorbent wax and cutin; surface
seed coat has vein in net shape, small embryo small; large endosperm, including cells storing lipid. The suitable
temperature for seed germination is about 25 - 30oC with seed germinate rate from 76.7% to 81.3%. The suitable
soaking time of seed is 48 hours, with germination rate is 82.1%.
Keywords: Codonopsos javamica, morphology, anatomy, temperature, soaking time
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÂY GIỐNG SÂM NGỌC LINH
TẠI TỈNH QUẢNG NAM VÀ KON TUM
Đinh Văn Phê1, Lê Thị Cẩm Nhung1,
Chu Đức Hà2, Nguyễn Văn Nam3, Lê Hùng Lĩnh2
TÓM TẮT
Sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis) là loài dược liệu quý, phân bố đặc hữu tại tỉnh Quảng Nam và Kon Tum.
Trong nghiên cứu này, các thông tin về hiện trạng nguồn cây giống sâm Ngọc Linh tại hai tỉnh đã được điều tra, khảo
sát và đánh giá. Tại tỉnh Quảng Nam, khu vực trồng sâm Ngọc Linh đã được mở rộng quy hoạch vùng bảo tồn ra
7 xã với số lượng hỗ trợ 11.500 cây giống 01 năm tuổi. Năng lực cung ứng cây giống trong tỉnh ước đạt 381500 cây.
Tại tỉnh Kon Tum, các vườn sâm Ngọc Linh được quản lý bởi các doanh nghiệp tư nhân và nhà nước. Trao đổi lấy
ý kiến chuyên gia cho thấy tỉnh Quảng Nam và Kon Tum có tiềm năng để phát triển sâm Ngọc Linh. Để phát triển
sâm bền vững cần có đầu tư về mặt khoa học, chính sách và kinh phí nhằm đưa sâm Ngọc Linh trở thành một sản
phẩm quốc gia.
Từ khóa: Sâm Ngọc Linh, điều tra, phân bố, Quảng Nam, Kon Tum
Ngày nhận bài: 10/3/2020
Ngày phản biện: 18/3/2020
Người phản biện: PGS. TS. Ninh Thị Phíp
Ngày duyệt đăng: 23/3/2020
1 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên; 2 Viện Di truyền Nông nghiệp; 3 Đại học Tây Nguyên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha &
Grushv. var. vietnamensis) là loài thực vật đặc hữu
ở Việt Nam, có chỉ giới địa lý hẹp, được phân bố
chủ yếu tại đỉnh núi Ngok Linh (hay còn gọi là
Ngọc Linh), thuộc dãy núi Ngọc Linh, nằm trên dải
Trường Sơn Nam, qua các tỉnh Kon Tum và Quảng
Nam (Chu Đức Hà và ctv., 2017). Đây là một loài
cây thuộc chi Panax, chứa nhiều hợp chất quý, có
tác dụng dược lý nên được dùng chủ yếu làm thuốc
(Le et al., 2015). Đến nay, sâm Ngọc Linh đã được bổ
sung vào danh mục sản phẩm quốc gia nhằm phát
huy tiềm năng của loài dược liệu quý này.
Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển sâm Ngọc
Linh (và các sản phẩm từ sâm) đang đối mặt với
nhiều thách thức, do chưa phát huy thế mạnh của
vùng, hạn chế trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất và tiêu chuẩn chất lượng giống
sâm chưa được quan tâm đúng mức (Chu Đức Hà
và ctv., 2018). Điều này dẫn đến tình trạng thật/giả
sâm diễn ra phổ biến và không được kiểm soát trên
thị trường. Công tác điều tra và đánh giá hiện trạng
phân bố của sâm Ngọc Linh là cần thiết và cần được
tiến hành.
Trong nghiên cứu này, hiện trạng sâm Ngọc Linh
tại hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum đã được đánh
giá một cách tổng thể và chi tiết. Bên cạnh đó, một
số giải pháp và kiến nghị đã được đề xuất và thảo
luận. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chia sẻ
những thông tin quan trọng về hiện trạng sâm Ngọc
123
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Linh ở Việt Nam, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển
cây sâm Ngọc Linh bền vững.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Quần thể sâm Ngọc Linh phân bố tại các khu
vực thuộc hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum đã
được đánh giá sơ bộ về hình thái (Chu Đức Hà và
ctv., 2019).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trao đổi lấy ý kiến chuyên gia:
Tiến hành phỏng vấn trực tiếp, thông qua lãnh đạo,
cán bộ kỹ thuật đang làm việc ở các cấp xã, huyện,
tỉnh. Những người cung cấp thông tin khác được
phỏng vấn, bao gồm các nông hộ, đại lý thu mua đầu
mối và một số doanh nghiệp phát triển sâm Ngọc
Linh tại địa phương. Nội dung phỏng vấn được xây
dựng xoay quanh diện tích, năng suất và quy trình
kỹ thuật trồng sâm Ngọc Linh, nhu cầu và khả năng
cung ứng giống cây sâm Ngọc Linh.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, phân
tích tài liệu: Một số thông tin, như hiện trạng sản
xuất cây giống sâm, diện tích quy hoạch của sâm
Ngọc Linh được tham khảo và kế thừa từ các công
bố, hội nghị khoa học, hội thảo liên quan đến phát
triển sâm Ngọc Linh.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 10 năm
2016 đến tháng 2 năm 2020 tại các xã, huyện thuộc
hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát hiện trạng phát triển cây giống sâm
Ngọc Linh tại tỉnh Quảng Nam
Để đánh giá hiện trạng sâm Ngọc Linh tại tỉnh
Quảng Nam, các tài liệu có liên quan đã được thu
thập từ các Phòng cấp huyện và Sở cấp tỉnh. Đối
chiếu các tài liệu trước đây, sâm Ngọc Linh đã được
phát hiện bởi đoàn điều tra cây thuốc khu 5, gồm
dược sỹ Đào Kim Long và các thành viên Nguyễn
Châu Giang, Nguyễn Thị Lê tại dãy núi Ngọc Linh
ở độ cao 1800 m so với mực nước biển. Năm 1978,
tỉnh Quảng Nam đã thành lập Trạm dược liệu Trà
Linh để quản lý, bảo tồn và phát triển sâm Ngọc Linh
tại ba chốt thuộc ba khu vực địa lý có sự phân bố
sâm Ngọc Linh (Bộ Y tế, 2003). Năm 1985, Công ty
dược liệu Ngọc Linh giải thể, Trạm dược liệu Quảng
Nam - Đà Nẵng sát nhập vào Liên hiệp dược liệu
Quảng Nam - Đà Nẵng nên Trạm dược liệu Trà Linh
không hoạt động, dẫn đến các cá thể sâm Ngọc Linh
tự nhiên không được bảo vệ và bị khai thác cạn kiệt
(Bộ Y tế, 2003).
Nhiều cuộc khảo sát diễn ra trong năm 1995 đều
ghi nhận, sâm Ngọc Linh cơ bản không còn tìm thấy
ngoài tự nhiên (Bộ Y tế, 2003). Năm 1997, Sở Y tế
tỉnh Quảng Nam đã khôi phục lại Trạm dược liệu
Trà Linh với mục đích chọn lọc và xây dựng vườn
giống gốc sâm Ngọc Linh với diện tích khoảng
1200 m2 (Bộ Y tế, 2003). Năm 2003, tỉnh Quảng
Nam đã hỗ trợ và chỉ đạo chuyển giao cho Công
ty Dược vật tư y tế Quảng Nam (nay là Công ty Cổ
phần Thương mại - Dược - Sâm Ngọc Linh Quảng
Nam) xây dựng Trạm dược liệu Trà Linh (nay thuộc
quản lý của Trung tâm Phát triển Sâm và Dược liệu
Quảng Nam - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tỉnh Quảng Nam) và thành lập Trung tâm Phát
triển Sâm Ngọc Linh và Dược liệu Quảng Nam. Từ
đó, trạm và trung tâm đã phối hợp cùng các xã xây
dựng các trại sâm giống để mở rộng quy mô sản xuất
cây giống sâm Ngọc Linh. Ví dụ như trại sâm giống
Tắk Ngo, thuộc thôn 2 xã Trà Linh, do huyện Nam
Trà My quản lý với diện tích 3,5 ha, quy mô 2 vạn cây
sâm giống nhiều độ tuổi khác nhau (Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, 2015).
Bảng 1. Diện tích Sâm Ngọc Linh được triển khai
tại huyện Nam Trà My
TT Xã Số lượng chốt
Số lượng
cây
Diện tích
(ha)
1 Trà Linh 21 615000 61,5
2 Trà Nam 02 12400 1,20
3 Trà Cang 04 26500 2,65
Tổng cộng 27 653500 65,35
Theo số liệu điều tra năm 2013 trên địa bàn huyện
Nam Trà My, các quần thể sâm Ngọc Linh (khoảng
653500 cá thể) phân bố tại một số xã quanh đỉnh
Ngọc Linh với tổng diện tích 65,35 ha, bao gồm xã
Trà Linh (61,5 ha), Trà Nam (1,2 ha) và Trà Cang
(2,65 ha) và đang được bảo tồn nghiêm ngặt (Ủy ban
nhân dân huyện Nam Trà My, 2013) (Bảng 1). Đáng
chú ý, 11 chốt gieo ươm thuộc 4 thôn của xã Trà
Linh và Trà Cang đã được đầu tư nhằm tổ chức gieo
ươm để hình thành các vườn ươm với số lượng cây
giống trên 381500 cá thể (Bảng 2). Trong giai đoạn
2016 - 2018, 7 xã trong vùng quy hoạch bảo tồn đã
được tỉnh Quảng Nam hỗ trợ 11500 cây sâm Ngọc
Linh loại 01 năm tuổi (Ủy ban nhân dân huyện Nam
Trà My, 2018).
124
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Bảng 2. Thống kê về cây sâm Ngọc Linh giống
được chọn để bảo tồn
Xã Thôn Số lượng chốt
Số lượng
cây
Số hộ
tham gia
Trà Linh
Thôn 2 06 225000 140
Thôn 3 02 95000 45
Thôn 4 02 45000 25
Trà Cang Thôn 2 01 16500 10
Tổng cộng 11 381500 220
Trong nghiên cứu này, một trong những nội
dung khảo sát được quan tâm, đó là khả năng cung
ứng và trao đổi cây sâm Ngọc Linh giống gốc trong
nhân dân. Kết quả điều tra cho thấy, lượng cung ứng
và trao đổi cây giống trong nhân dân tương đối ít,
phụ thuộc chủ yếu vào Trung tâm phát triển sâm
và dược liệu Quảng Nam (khoảng 25000 cây giống)
(Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Quảng Nam, 2015). Vì vậy, nếu mở rộng diện tích
tại các vườn ươm trên địa bàn 3 xã Trà Nam, Trà
Linh và Trà Cang sẽ không đủ lượng cây giống cung
cấp. Đến nay, tỉnh Quảng Nam đã ban hành cơ chế
khuyến khích, ưu đãi lựa chọn các doanh nghiệp có
tiềm lực tham gia nghiên cứu trồng và phát triển sâm
Ngọc Linh. Theo số liệu điều tra, 6 doanh nghiệp
đã được tỉnh Quảng Nam phê duyệt sử dụng môi
trường rừng trồng sâm Ngọc Linh với tổng diện tích
trên 197,08 ha tại 3 xã Trà Linh, Trà Cang và Trà
Nam (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Quảng Nam, 2015) (Bảng 3).
Bảng 3. Thống kê diện tích cho thuê môi trường rừng
TT Tên chủ đầu tư Địa điểm Diện tích (ha)
1 Công ty TNHH MTV Sâm Sâm Trà Linh 9,97
2 Công ty CP Thương mại - Dược - sâm Ngọc Linh Trà Cang 14,08
3 Công ty CP Nguyên liệu giấy Miền Trung Trà Cang 10,03
4 Công ty TNHH Tân Nghĩa Sơn Trà Linh 12,98
5 Công ty TNHH dược Sâm Ngọc Linh Việt Nam Trà Nam 99,77
6 Trung tâm Phát triển sâm Ngọc Linh và Dược liệu Quảng Nam Trà Linh 50,25
Tổng cộng 197,08
Một nội dung khác cũng được khảo sát, đó là giá
trị kinh tế mang lại từ việ c trồng sâm Ngọc Linh.
Kết quả điều tra cho thấy 1 kg sâm tươi hiện nay có
giá trên 20 triệu đồng, những lúc khan hiếm có thể
lên tới 30 - 40 triệu đồng/kg. Theo tính toán sơ bộ
nếu trồng 01 ha sâm sau 8 năm sẽ thu lợi nhuận trên
2 tỷ đồng/ha (Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng
Nam, 2015). Mới đây, giá cây sâm giống 01 năm tuổi
khoảng 300000 đồng/cây, trong khi giá sâm các loại
từ 75 - 100 triệu đồng/kg. Cá biệt, loại 1 củ 200 gram
có giá từ 150 - 200 triệu đồng/kg. Mỗi ha sau 5 năm
trồng sẽ thu lợi nhuận từ 30 -50 tỷ đồng (Ủy ban
nhân dân huyện Nam Trà My, 2019).
3.2. Khảo sát hiện trạng phát triển cây giống sâm
Ngọc Linh tại tỉnh Kon Tum
Trong thời gian qua với nhiều nỗ lực của tỉnh
Kon Tum, công tác bảo tồn và phát triển sâm trên
địa bàn tỉnh đã được những kết quả nhất định. Tra
cứu các tài liệu lịch sử cho thấy, năm 1976, Sở Y tế
Gia Lai - Kon Tum (nay là tỉnh Kon Tum) đã thành
lập Công ty dược liệu Ngọc Linh với nhiệm vụ
quản lý khai thác và phát triển cây sâm Ngọc Linh
(Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kon
Tum, 2017). Năm 2018, diện tích trồng mới hơn
330,961 ha tập trung chủ yếu tại 02 doanh nghiệp là
Công ty cổ phần sâm Ngọc Linh Kon Tum (300 ha) và
công ty TNHH MTV lâm nghiệp Đăk Tô (13,84 ha).
Ngoài ra, diện tích sâm Ngọc Linh phát triển trong
nhân dân trồng phân tán dưới tán rừng là 17,121 ha,
chủ yếu tại xã Ngọc Lây (13,6 ha), Tê Xăng (0,9 ha)
và Măng Ri (2,6 ha) (Ủy ban nhân dân huyện Tu Mơ
Rông, 2018). Đồng thời, tỉnh Kon Tum cũng đã kêu
gọi đầu tư nhiều dự án trồng sâm Ngọc Linh, như
dự án đầu tư của Bộ khoa học và Công nghệ với diện
tích dự kiến 500 ha; dự án đầu tư của Công ty cổ
phần sâm Ngọc Linh Kon Tum với diện tích 5036 ha;
dự án trồng sâm của Công ty lâm nghiệp Đăk Tô
diện tích 78,8 ha; dự án của Công ty Cổ phần Dược
phẩm Việt Nam với diện tích khoảng 400 ha; dự án
của Công ty TNHH Thái Hòa với diện tích xin thuê
là 263,5 ha; dự án của Công ty TNHH Trung Hòa với
diện tích khoảng 410 ha (Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh Kon Tum, 2017).
Tương tự, công ty TNHH Thái Hòa cũng là
doanh nghiệp mới tham gia vào hoạt động trồng
125
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
sâm, được tỉnh Kon Tum cấp khoảng 100 ha đất,
phát triển vườn sâm chủ yếu là cây dưới 5 năm tuổi.
Tuy nhiên, tính đến nay, công ty vẫn chưa được bàn
giao và triển khai vườn cây giống sâm tại huyện Tu
Mơ Rông - tỉnh Kon Tum. Tiếp theo, công ty TNHH
một thành viên lâm nghiệp Đăk Tô, do nhà nước
là chủ sở hữu năm 2010, được thành lập với chức
năng nghiên cứu trồng, chăm sóc và sản xuất cây
giống sâm Ngọc Linh (Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tỉnh Kon Tum, 2017). Sau 6 năm hoạt
động, công ty đã bảo tồn và thực hiện thành công
một số đề tài dự án cấp tỉnh và cấp nhà nước, bảo
tồn và phát triển được 20 ha vườn giống gốc sâm
Ngọc Linh. Lô sâm khoảng 10 tuổi được trồng trên
diện tích gần 2 ha, còn lại chủ yếu với độ tuổi 3 - 5
tuổi (Ủy ban nhân dân huyện Tu Mơ Rông, 2016).
Toàn bộ diện tích thuộc quản lý của doanh nghiệp
này nằm trên địa bàn xã Măng Ri, huyện Tu Mơ
Rông (Ủy ban nhân dân huyện Tu Mơ Rông, 2016).
3.3. Thảo luận về các yếu tố hạn chế và tiềm năng
phát triển cây giống sâm Ngọc Linh tại tỉnh Kon
Tum và Quảng Nam
Để tìm hiểu thêm về các chiến lược phát triển
cây giống sâm Ngọc Linh tại hai tỉnh Kon Tum và
Quảng Nam, chúng tôi đã trao đổi, lấy ý kiến chuyên
gia nhằm thu thập một số thông tin về hạn chế, giải
pháp và chiến lược cho loài dược liệu quý này. Tổng
hợp các ý kiến sơ bộ đã đưa ra được 3 điểm hạn chế
lớn cho phát triển sâm Ngọc Linh tại Việt Nam hiện
nay. Thứ nhất, đầu tư chưa đúng mức cho nghiên
cứu về thổ nhưỡng, chọn lọc giống (hạt, nuôi cấy
mô). Tiêu chuẩn chất lượng; hoàn thiện quy trình
kỹ thuật trồng và chăm sóc cũng như khả năng cung
ứng cây giống sâm phục vụ cho nhu cầu trồng sâm
chưa tập trung tại những vùng quy hoạch. Tiếp theo,
công tác bảo tồn và phát triển cây sâm trong thời
gian qua còn nhiều hạn chế do quy mô đầu tư nhỏ,
chi phí đầu tư sản xuất lớn. Trong lúc đó, nguồn lực
đầu tư cũng như nguồn vốn của các hộ dân không
đáp ứng đủ để phát triển diện tích trồng sâm tập
trung, cho nên hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao
(Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kon
Tum, 2017). Do địa hình bị chia cắt mạnh, độ dốc
lớn, diện tích bằng phẳng không nhiều, khó áp dụng
cơ giới hóa; đường giao thông chủ yếu là đường đất
đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa, gây trở ngại
việc thu hút đầu tư trồng sâm của doanh nghiệp và
nhân dân trong vùng (Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tỉnh Quảng Nam, 2015).
Trao đổi và lấy ý kiến với các cơ quan hành chính
cấp tỉnh, cây sâm Ngọc Linh có tiềm năng mở rộng
và phát triển tại hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam.
Cụ thể, Quảng Nam và Kon Tum có điều kiện tự
nhiên phù hợp về độ cao, khí hậu, thổ nhưỡng, thảm
thực vật che phủ. Các khảo sát trước đây cho thấy,
vùng quy hoạch Sâm Ngọc Linh có diện tích chủ yếu
là đất lâm nghiệp, tài nguyên rừng còn phong phú ít
bị tác động, độ tàn che cao, thích hợp cho việc phát
triển cây sâm Ngọc Linh. Huyện Nam Trà My, tỉnh
Quảng Nam có diện tích rừng bảo tồn đạt khoảng
15567,68 ha được khoán quản lý bảo vệ rừng theo
từng nhóm hộ (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tỉnh Quảng Nam, 2015). Huyện Tu Mơ Rông,
tỉnh Kon Tum có diện tích đất lâm nghiệp lớn, đạt
khoảng 56051,29 ha (Ủy ban nhân huyện Tu Mơ
Rông, 2016), đây là điều kiện thuận lợi trong việc
phát triển diện tích trồng sâm Ngọc Linh dưới tán
rừng. Tiếp theo, người dân bản địa có truyền thống
canh tác lâu đời, cơ bản đã nắm vững được kỹ thuật
trồng, chăm sóc, thu hoạch và sơ chế sâm Ngọc Linh.
Hơn nữa, người dân đã tiếp cận với hướng sản xuất
hàng hóa, cơ sở hạ tầng đã được cải thiên đáp ứng
nhu cầu đi lại và thông thương kinh tế. Công tác sản
xuất chế biến, tiêu thụ sản phẩm bước đầu được thực
hiện theo chuỗi, hình thành các doanh nghiệp, hợp
tác xã sản xuất kinh doanh.
Cuối cùng, chúng tôi đã thu thập một số ý kiến
về giải pháp nhằm phát triển cây sâm Ngọc Linh tại
Việt Nam. Cụ thể, quy hoạch phát triển vùng trồng
sâm Ngọc Linh bền vững cần được đưa ra một cách
cụ thể dựa trên hiện trạng, điều kiện tự nhiên, yêu
cầu sinh thái, giá trị kinh tế, chủ trương và đề án
định hướng sâm Ngọc Linh của vùng. Tiếp tục
nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học vào sản
xuất giống, tiến tới sản xuất giống bằng công nghệ
sinh học để áp dụng thực tế, rút ngắn chu kỳ sản
xuất kinh doanh. Nghiên cứu, hoàn thiện quy trình
trồng, chuyển giao kỹ thuật trồng sâm hữu tính cho
các nông hộ. Chú trọng kỹ thuật sơ chế, bảo quản và
đa dạng hóa các sản phẩm có giá trị cao, phát huy
vai trò trong mối liên kết giữa 4 nhà. Xây dựng sâm
Ngọc Linh thành thương hiệu sâm Việt Nam để tăng
cạnh tranh đối với các loại sâm khác trên thế giới.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Điều tra tại tỉnh Quảng Nam đã cho thấy không
ghi nhận cá thể sâm Ngọc Linh nào ngoài tự nhiên
(năm 1995). Với chủ trương của tỉnh là quy hoạch
bảo tồn và phát triển 7 xã với tổng số cây hỗ trợ
11.500 cây. Đồng thời cho các doanh nghiệp thuê
môi trường rừng (với tổng diện tích là 197,08 ha) với
khả năng cung ứng khoảng 381500 cây sâm Ngọc
Linh giống.
126
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Điều tra tại tỉnh Kon Tum đã cho thấy, các vườn
sâm Ngọc Linh được quản lý chủ yếu bởi các doanh
nghiệp, điển hình như công ty cổ phần sâm Ngọc
Linh Kon Tum (300 ha) và công ty TNHH một
thành viên lâm nghiệp Đăk Tô (20 ha). Các doanh
nghiệp đang từng bước phát triển nhằm cung cấp
lượng cây sâm giống cho các vườn ươm trong tỉnh.
4.2. Đề nghị
Trao đổi lấy ý kiến chuyên gia cho thấy 2 tỉnh
Quảng Nam và Kon Tum có tiềm năng để phát triển
bền vững sâm Ngọc Linh. Tuy nhiên, để phát triển
sâm bền vững cần có những nghiên cứu về giống,
quy hoạch vùng trồng, kỹ thuật canh tác phù hợp,
quy trình sơ chế, bảo quản và chế biến sản phẩm
hàng hóa; khuyến khích nông dân, doanh nghiệp
tham gia chuỗi giá trị cây sâm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Y tế, 2003. Bảo tồn và phát triển sâm Ngọc Linh.
Trong Hội thảo bảo tồn và phát triển sâm Ngọc Linh.
Chu Đức Hà, Lê Hùng Lĩnh, Nguyễn Văn Kết, Lê Tiến
Dũng, Đỗ Mạnh Cường, Hoàng Thanh Tùng,
Dương Tấn Nhựt, 2017. Sâm Ngọc Linh: Cây dược
liệu quý mang thương hiệu quốc gia. Tạp chí Khoa
học và Công nghệ Việt Nam, 706 (1A): 32-35.
Chu Đức Hà, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Khuất Thị
Mai Lương, Đinh Xuân Tú, Lê Hùng Lĩnh, 2018.
Phân biệt thật - giả dược liệu sâm Ngọc Linh: Kinh
nghiệm từ nghiên cứu giám định sâm trên thế giới.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 708 (3A):
30-33.
Chu Đức Hà, Lê Hùng Lĩnh, Đinh Văn Phê, Lê Thị
Ngọc Quỳnh, Hoàng Thanh Tùng, Dương Tấn Nhựt,
Đinh Xuân Tú, Phạm Xuân Hội, 2019. Bộ chỉ thị
hình thái đặc trưng cho nhận dạng sâm Hàn Quốc
(Panax ginseng C.A. Mey.) và đề xuất cho Việt Nam.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 729 (12A):
53-56.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng
Nam, 2015. Bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh
trên địa bàn huyện Nam Trà My tỉnh Quảng Nam
giai đoan 2014-2020.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kon
Tum, 2017. Đề án Đầu tư phát triển và chế biến dược
liệu trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2017-2020
định hướng đến 2030.
Ủy ban nhân dân huyện Nam Trà My, 2013. Kết quả
bảo tồn và phát triển sâm Ngọc Linh, giai đoạn
2013-2020.
Ủy ban nhân dân huyện Nam Trà My, 2018. Báo cáo
tình hình triển khai cơ chế phát triển sâm Ngọc Linh
trên địa bàn huyện năm 2018.
Ủy ban nhân dân huyện Nam Trà My, 2019. Báo cáo
tình hình bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh
đến năm 2030 tại huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng
Nam, năm 2018.
Ủy ban nhân dân huyện Tu Mơ Rông, 2016. Bảo tồn
và phát triển cây sâm Ngọc Linh và các cây dược
liệu trên địa bàn huyện giai đoạn 2016 - 2020, định
hướng đến năm 2025.
Ủy ban nhân dân huyện Tu Mơ Rông, 2018. Tình hình
thực hiện sản xuất nông nghiệp năm 2018 và kế
hoạch năm 2019.
Le T.H., Lee G.J., Vu H.K., Kwon S.W., Nguyen N.K.,
Park J.H., Nguyen M.D., 2015. Ginseng saponins in
different parts of Panax vietnamensis. Chem Pharm
Bull, 63 (11): 950-954.
Development situation of Ngoc Linh ginseng
in Quang Nam and Kon Tum provinces
Dinh Van Phe, Le Thi Cam Nhung,
Chu Duc Ha, Nguyen Van Nam, Le Hung Linh
Abstract
Ngoc Linh ginseng (Panax vietnamensis) is well-known as a rare medicinal plant, exclusively distributed in the
Quang Nam and Kon Tum provinces. Here, the understanding of the distribution of ‘Ngoc Linh’ ginseng germplasm
has been investigated, observed and evaluated. In Quang Nam province, the area of cultivation of Ngoc Linh ginseng
has been expanded into 7 communes, mostly in Tra Linh, Tra Nam and Tra Cang communes. The capacity of supply
was recorded as 381500 plants per year. In Kon Tum province, the area of cultivation of Ngoc Linh ginseng was
strictly secured by the private and state enterprises. Our report consulting with experts showed that both of Quang
Nam and Kon Tum provinces have greatly potential conditions to develop Ngoc Linh ginseng. Taken together, it
would be very significant to invest in the science, policy and budget for sustainable development of Ngoc Linh
ginseng as the national product of Viet Nam.
Keywords: ‘Ngoc Linh’ ginseng, investigation, distribution, Quang Nam, Kon Tum
Ngày nhận bài: 01/3/2020
Ngày phản biện: 16/3/2020
Người phản biện: TS. Phan Thúy Hiền
Ngày duyệt đăng: 23/3/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_hinh_phat_trien_cay_giong_sam_ngoc_linh_tai_tinh_quang.pdf