Tuy nhiên, điều này không phải là
hoàn toàn khó hiểu. Doanh nghiệp càng
lớn càng đòi hỏi nhiều kỹ năng đặc biệt
để phù hợp với yêu cầu công việc của
doanh nghiệp. Vậy điều gì là bất thường
ở đây? 85% doanh nghiệp với quy mô
hơn 259 lao động gặp khó khăn trong
tuyển dụng lao động. Như đã đề cập ở
những phần trước, đối với lao động yêu
cầu kỹ năng đơn giản, sự thiếu hụt này
không chỉ gây ra bởi lạm phát tiền lương
mà còn do người lao động bỏ việc và để
lại những khoảng trống về việc làm cho
doanh nghiệp.
Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhỏ
và doanh nghiệp lớn thường là tốc độ
phát triển. Tốc độ phát triển của doanh
nghiệp lớn thường có xu hướng như tốc
độ phát triển chung của cả nền kinh tế.
Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ thường
sử dụng lao động có kỹ năng đơn giản
và trả lương thấp. Điều đó một lần nữa
khẳng định sự cần thiết phải tạo ra một
liên kết mạnh giữa các chương trình
giáo dục đào tạo và thị trường lao động,
việc làm.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình thiếu hụt lao động kỹ năng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
75
TÌNH HÌNH THIẾU HỤT LAO ĐỘNG KỸ NĂNG Ở VIỆT NAM
TS. Goran O. Hultin - Th.s Nguyễn Huyền Lê
ể từ sau đổi mới năm 1986,
nền kinh tế Việt Nam đã phát
triển đầy ấn tượng, tốc độ
tăng trưởng bình quân là 7,2%/năm trong
thời kỳ 2001 tới năm 2010, GDP bình
quân đầu người tăng nhanh, năm 2008,
thu nhập bình quân đầu người đã vượt
ngưỡng của nước có thu nhập trung bình
là 1000 USD/người, gấp hơn 10 lần so
với thu nhập bình quân đầu người những
năm đầu thực hiện Đổi mới, Việt Nam đã
ra khỏi danh sách những nước nghèo
nhất và là một trong những nước thuộc
nhóm có thu nhập trung bình thấp.
1. Tình hình chung về phát triển kinh
tế và kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp Việt Nam
Cơ cấu kinh tế đang được chuyển đổi
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp,
xây dựng, giảm tỷ lệ đóng góp của nông,
lâm, ngư nghiệp trong GDP. Tỷ lệ đóng
góp trong GDP của ngành công nghiệp
và xây dựng đã phản ánh trực tiếp sự
tăng trưởng của hai ngành này, đây là hai
ngành đóng góp lớn nhất vào sự tăng
trưởng GDP của cả nước (chiếm 50%),
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc gia trong hơn 10 năm qua. Nông-
lâm-ngư nghiệp là ngành có đóng góp ít
nhất vào sự tăng trưởng GDP của quốc
gia (10%). Tuy nhiên, nông - lâm - ngư
nghiệp vẫn là ngành kinh tế đóng góp
một phần quan trọng vào việc giữ ổn
định tình hình kinh tế xã hội của đất
nước, đảm bảo an ninh lương thực, cung
cấp nguyên liệu chính cho ngành công
nghiệp và xuất khẩu, tạo việc làm ổn
định cho lao động. Một điểm đáng lưu ý
trong ngành dịch vụ là các dịch vụ sử
dụng lao động có tay nghề thấp và tạo ra
ít giá trị gia tăng vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Trong ngắn hạn, các nghề sử dụng lao
động tay nghề và chi phí dịch vụ thấp giữ
vị trí quan trọng, đáp ứng các nhu cầu cơ
bản, tạo cơ hội việc làm cho lao động
trình độ thấp. Tuy nhiên, trong dài hạn,
việc thiếu kỹ năng của lao động sẽ kìm
hãm sự phát triển kinh tế, giảm khả năng
cạnh tranh của quốc gia trong các ngành
dịch vụ hỗ trợ kinh doanh có giá trị cao
như công nghệ thông tin, truyền thông,
tài chính ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn,
nghiên cứu phát triển (R&D). Trên thực
tế, vào năm 2007, các ngành này mới
đóng góp tỷ lệ rất khiêm tốn trong GDP:
Nghiên cứu phát triển chiếm 0.6%, tài
chính ngân hàng chiếm 1.8%. Các hoạt
động trung gian như vận tải và kinh
doanh dịch vụ chiếm tỷ lệ lớn trong GDP
của ngành dịch vụ.
Luật Doanh nghiệp ban hành năm
1999, có hiệu lực từ 01/01/2000 đánh
dấu bước đột phá trong đổi mới về chủ
trương chính sách của Nhà nước, tạo sân
chơi bình đẳng, thực sự thổi một luồng
gió mới cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp thuộc tất cả các ngành kinh tế
phát triển nhanh chóng cả về số lượng,
quy mô và chất lượng.
Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà
nước phát triển nhanh nhất về số lượng
doanh nghiệp và tạo việc làm mới cho
người lao động. Tính đến thời điểm
01/01/2009, số doanh nghiệp ngoài nhà
nước thực tế đang hoạt động là 196.779
doanh nghiệp, chiếm 95,7% tổng số
doanh nghiệp, gấp 5,6 lần năm 2000, tốc
độ tăng số lượng doanh nghiệp bình quân
hàng năm là 24,1%. Khu vực này hiện
K
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
76
giải quyết cho 4,72 triệu lao động có việc
làm thường xuyên, chiếm 57,1% tổng số
việc làm của khu vực doanh nghiệp, bình
quân mỗi năm tăng thêm 8,7% lao động.
Khu vực này cũng đang thu hút vốn đầu
tư khá lớn với 42,3% tổng vốn của khu
vực doanh nghiệp, trong đó tài sản cố
định chiếm 36,4% và tạo ra tới 57,5%
tổng doanh thu năm 2008 của toàn bộ
doanh nghiệp. Xét về hiệu quả kinh
doanh, tuy khu vực này chiếm tỷ trọng
chi phối về số doanh nghiệp, lao động,
vốn kinh doanh và doanh thu nhưng các
chỉ tiêu về lợi nhuận trước thuế và đóng
góp cho ngân sách nhà nước năm 2008
lại có tỷ trọng thấp, chỉ với 16,6% và
30,8%. Giai đoạn 2000-2008, khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu
phát triển nhanh về chiều rộng, giải
quyết được nhiều việc làm, tuy nhiên, kết
quả sản xuất kinh doanh cũng cho thấy,
hầu hết các doanh nghiệp ngoài nhà nước
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh
doanh còn nhỏ lẻ, hiệu quả còn thấp.
Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (FDI) tuy số lượng
doanh nghiệp ít, nhưng phát triển
nhanh về quy mô đầu tư và đặc biệt đạt
hiệu quả kinh doanh cao nhất trong các
loại hình doanh nghiệp: Tính đến thời
điểm 01/01/2009, số doanh nghiệp FDI
thực tế đang hoạt động là 5.625 doanh
nghiệp, chỉ chiếm 2,7% tổng số doanh
nghiệp, gấp 5,3 lần số doanh nghiệp năm
2000, bình quân mỗi năm tăng 23,5% số
doanh nghiệp. Khu vực này tuy số lượng
doanh nghiệp ít nhưng cũng đã thu hút
tới 1,83 triệu lao động, chiếm 22,2%
tổng số lao động toàn doanh nghiệp, gấp
4,5 lần năm 2000, bình quân m i năm
thu hút thêm 20,7% lao động. Năm 2008,
mặc dù vốn đầu tư chỉ chiếm 16,9%,
doanh thu chỉ chiếm 19,5% so với toàn
bộ doanh nghiệp, nhưng khu vực FDI lại
thể hiện là khu vực đạt hiệu quả kinh
doanh cao với lợi nhuận trước thuế
chiếm tới 48,1% và đóng góp cho ngân
sách nhà nước chiếm tới 40,4% so với
toàn bộ doanh nghiệp. So với năm 2000,
lợi nhuận của khu vực này gấp 4,9 lần và
đóng góp cho ngân sách nhà nước gấp 5
lần. Giai đoạn 2000-2008, khu vực FDI
tuy quy mô về số doanh nghiệp và số lao
động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng
thấp nhưng hiệu quả kinh doanh ngày
càng cao.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước
ngày càng được thu hẹp về quy mô theo
chủ trương cổ phần hóa và sắp xếp lại
của nhà nước để đảm bảo kinh doanh
ngày càng hiệu quả hơn: Tại thời điểm
01/01/2009, số doanh nghiệp nhà nước
thực tế đang hoạt động chỉ còn 3.328
doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng thấp nhất
trong 3 khu vực doanh nghiệp với 1,6%,
bằng 45% số doanh nghiệp năm 2000.
Khu vực này hiện thu hút khoảng 1,71
triệu lao động, chiếm 20,7% toàn bộ khu
vực doanh nghiệp (trong khi tỷ lệ lao
động trong toàn bộ doanh nghiệp năm
2000 là xấp xỉ 60%). Năm 2008, xét về
mặt hiệu quả đóng góp cho ngân sách
nhà nước theo tỷ lệ vốn đầu tư thì khu
vực doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp ngoài nhà nước là tương đương.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm
40,8% vốn, đóng góp 28,8% cho ngân
sách nhà nước, trong khi khu vực doanh
nghiệp ngoài nhà nước chiếm 42,3% vốn
và đóng góp 30,8% cho ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên nếu xét về hiệu quả tạo
ra lợi nhuận so với vốn đầu tư thì khu
vực doanh nghiệp nhà nước vẫn hiệu quả
hơn. Qui mô vốn của hai khu vực chênh
lệch không đáng kể (40,8% và 42,3% so
với toàn bộ doanh nghiệp) nhưng khu
vực doanh nghiệp nhà nước tạo ra tới
35,3% tổng lợi nhuận của khu vực doanh
nghiệp, trong khi khu vực ngoài nhà
nước chỉ chiếm 16,6%. Giai đoạn 2000-
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
77
2008 tuy tiến độ cổ phần hóa, sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước còn chậm so với
kế hoạch, nhưng doanh nghiệp này đang
được nhà nước quản lý, sắp xếp lại theo
hướng hiệu quả hơn.
2. Tình hình thiếu hụt lao động kỹ
năng của Việt Nam và nghiên cứu so
sánh với Trung Quốc và Ấn độ
52
Thời kỳ 2000-2010 vừa qua, Việt
Nam mới bước vào giai đoạn đầu của
thời kỳ tiền công nghiệp hóa, nền kinh tế
có một số đặc trưng đó là doanh nghiệp
sử dụng nhiều lao động, lao động có tay
nghề thấp, tuy nhiên, với thành tựu phát
triển kinh tế thời kỳ qua, cùng với đó là
sự gia tăng nhanh chóng của các doanh
nghiệp và mục tiêu phấn đấu tới 2020,
Việt Nam cơ bản đạt là nước công
nghiệp hoá và hiện đại hoá, thì nhu cầu
về lao động, đặc biệt lao động kỹ năng
cũng sẽ gia tăng. Tuy nhiên, thị trường
lao động hiện nay vẫn bị phân mảng, vẫn
tồn tại khá lớn tình trạng bất cân đối giữa
cung và cầu lao động, người sử dụng lao
động vẫn không thể tuyển đủ lao động,
hệ thống đào tạo cũng không thể theo kịp
tốc độ thay đổi của cầu lao động.
So sánh với Trung Quốc, đặc điểm
nổi bật của kinh tế Trung Quốc là dựa
trên chi phí sản xuất thấp. Chiến lược
phát triển kinh tế của quốc gia này là sử
52
Phần đánh giá này dựa trên kết quả của Điều tra
về thực trạng thiếu hụt lao động kỹ năng được tiến
hành lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2010 do
Viện Khoa học Lao động và Xã hội thực hiện.
Cuộc điều tra này sẽ được thực hiện thường xuyên
và lặp lại, cung cấp các thông tin về xu hướng và
mức độ của thực trạng thiếu lao động kỹ năng và
trong từng loại hình doanh nghiệp. Với quy mô
mẫu điều tra trong đợt thử nghiệm năm 2010 là
1054 doanh nghiệp phân bố trên 9 tỉnh đại diện 3
miền Bắc – Trung – Nam và theo 7 nhóm ngành
gộp từ 20 ngành kinh tế quốc dân qua phương pháp
phỏng vấn qua điện thoại và các kết quả điều tra
tương tự về phương pháp luận được Manpower
thực hiện ở Trung Quốc và Ấn độ.
dụng nhiều lao động, tạo ra nhiều việc
làm đòi hỏi tay nghề thấp. Tuy nhiên, với
sự phát triển của công nghệ trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, giới chủ
Trung Quốc ngày càng quan ngại sự
thiếu hụt lao động có kỹ năng như thợ
máy, kỹ thuật viên và lao động quản lý...
Tại Ấn Độ, trong nhiều năm qua, tỷ
lệ tăng trưởng thấp, chủ yếu dựa trên lĩnh
vực công nghệ thông tin và các dịch vụ
kết nối công nghệ thông tin. Xây dựng và
cải thiện cơ sở hạ tầng từ lâu đã được Ấn
Độ xác định là một ưu tiên cho tăng
trưởng kinh tế. Chính phủ đã cam kết sử
dụng nguồn ngân sách lớn để giải quyết
các thách thức như yêu cầu phát triển các
kỹ năng hiện nay lao động còn đang
thiếu hụt, đặc biệt là đào tạo nghề cho
người lao động.
Trong những năm qua, cả Trung
Quốc và Ấn Độ đều đầu tư 1 khối lượng
vốn đáng kể cho đào tạo nghề kỹ thuật
cao. Trung Quốc bổ sung đào tạo tại
nước ngoài, Ấn Độ tập trung vào công
nghệ thông tin. Không có quốc gia nào
tuyên bố thiếu hụt lao động trình độ cao
(Hình 1). Điều này không có nghĩa là hai
quốc gia này đã đảm bảo đủ lao động có
kỹ năng mà là sự thiếu hụt xảy ra ở nhiều
cấp độ khác nhau như thiếu công nhân kỹ
thuật, lao động vận hành máy móc, lao
động quản lý ở Trung Quốc và thiếu thợ
thủ công ở Ấn Độ.
Mặc dù xuất phát muộn hơn so với
Trung Quốc và Ấn Độ, Việt Nam đã đạt
được tốc độ phát triển nhanh trong những
năm qua. Việt Nam còn thiếu hụt lao động
kỹ năng ở mọi cấp độ: lao động quản lý,
kỹ sư, công nhân kỹ thuật Kết quả cuộc
điều tra cho thấy sự thiếu hụt phổ biến
trung bình là thiếu công nhân kỹ thuật.
Tuy nhiên, nhu cầu này được đặt trong bối
cảnh đất nước đang phát triển công nghiệp
hoá. Khi nền kinh tế đã tăng trưởng và
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
78
phát triển, đòi hỏi ngày càng nhiều lao
động có kỹ năng, việc thiếu hụt công nhân
kỹ thuật là điều được dự báo trước. Cuộc
điều tra cũng chỉ ra rằng trong những năm
tới, để bắt kịp sự phát triển của kinh tế
quốc tế, Việt Nam sẽ phải đối mặt với áp
lực của lao động trình độ thấp và hoạt
động kinh tế kém hiệu quả.
Hình 1. Mức độ thiếu hụt lao động có kỹ năng
Trung Quốc Ấn Độ Việt Nam
Lao động quản lý Cao Trung bình Cao
Kỹ sư Thấp Thấp Cao
Công nhân kỹ thuật Cao Trung bình Trung bình
Thợ thủ công Thấp Cao Cao
Dịch vụ khách hàng Trung bình Trung bình Thấp
Lao động phổ thông Thấp Thấp Cao
Nguồn: ILSSA/Manpower điều tra thiếu hụt lao động có kỹ năng ở Việt Nam, 2010
Cuộc điều tra thiếu hụt lao động kỹ
năng đã chỉ ra rằng lạm phát tiền lương
bắt đầu xuất hiện ở mức 25 – 30%. Tại
Việt Nam, khi lạm phát tiền lương đạt
mức 40% hoặc hơn, người sử dụng lao
động sẽ gặp khó khăn không chỉ vì
những hệ luỵ của lạm phát tiền lương mà
còn vì không thể tuyển dụng được đủ lao
động theo nhu cầu.
Khi so sánh trường hợp của Trung
Quốc và Ấn Độ cho thấy các ngành thiếu
hụt lao động kỹ năng ngày càng xuất
hiện nhiều hơn ở Trung Quốc. Đây là
điều dễ hiểu khi các doanh nghiệp Trung
Quốc ngày càng tăng cường các hoạt
động kinh doanh quốc tế cũng như các
lĩnh vực đòi hỏi lao động có kỹ thuật cao
như tài chính, bảo hiểm, bất động sản. Sự
khó khăn trong tuyển dụng nhanh chóng
tăng lên, 52% chủ sử dụng lao động ghi
nhận gặp khó khăn trong tuyển dụng lao
động được đào tạo đúng ngành nghề.
Tương tự, rất khó khăn để tuyển dụng lao
động có trình độ cao sau khi nâng cao
công nghệ và đầu tư nhiều vốn sản xuất
kinh doanh. 42% người sử dụng lao động
tại các doanh nghiệp ở Trung quốc ghi
nhận gặp khó khăn trong tuyển dụng. Tại
Ấn Độ, các dự án cơ sở hạ tầng lớn đã
được thực hiện, không có gì ngạc nhiên
khi chủ sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp khai thác mỏ và xây dựng
gặp khó khăn trong tuyển dụng, 1/3 trong
số họ không thể tuyển dụng được lao
động có kỹ năng cần thiết.
Ở Việt Nam, ngoại trừ công nghiệp
khai khoáng và khu vực nhà nước, Việt
Nam phải đối mặt với tình hình thiếu lao
động có kỹ năng tương tự như Trung
Quốc (hình 2). Tuy nhiên, Việt Nam lựa
chọn con đường phát triển kinh tế như
Trung Quốc đã từng đi, do đó, mức độ
trầm trọng của vấn đề cũng không thay
đổi và vì xuất phát sau nên người sử
dụng lao động ở Việt Nam sẽ phải đối
mặt với khó khăn cao hơn trong việc
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
79
tuyển dụng lao động có kỹ năng so với
Trung Quốc và Ấn Độ (Hình 3).
Mức độ nghiêm trọng của vấn đề sẽ
không thay đổi chừng nào có sự thay đổi
một cách hợp lý chi phí dành cho lao
động. Việt Nam có thuận lợi là chi phí
lao động thấp, tuy nhiên, điều này sẽ
không tiếp tục được kéo dài. Với sự tác
động mạnh mẽ của yêu cầu phát triển
kinh tế và năng suất lao động, nhu cầu về
lao động có kỹ năng sẽ tăng lên. Trong
một tương lai gần, điều này sẽ trở thành
vấn đề nghiêm trọng khi người sử dụng
lao động không thể tuyển dụng được lao
động có kỹ năng cần thiết.
Hình 2. Khó khăn trong tuyển dụng lao động chia theo khu vực kinh tế so sánh
giữa Việt Nam và Trung Quốc
Nguồn: ILSSA/Manpower Điều tra tình hình thiếu lao động kỹ năng tại Việt Nam năm 2010
Manpower - Điều tra tình hình thiếu lao động kỹ năng năm 2010
Vấn đề cấp thiết được đưa ra để giải
quyết tình trạng thiếu lao động kỹ năng là
phải thiết lập một mối liên kết chặt chẽ,
phù hợp giữa các chương trình giáo
dục/đào tạo với các yêu cầu về kỹ năng mà
thị trường lao động đang cần. Cuộc điều
tra chỉ ra hai điểm thách thức: 23% người
sử dụng lao động ghi nhận rằng các kỹ
năng mà lao động đã được đào tạo bị lệch
so với các kỹ năng mà thị trường cần; 35%
ghi nhận các kỹ năng được đào tạo của lao
động mới chưa phù hợp với nhu cầu của
doanh nghiệp (hình 4). Điều này cho thấy
sự cấp thiết phải có liên kết mạnh mẽ hơn
giữa hệ thống giáo dục đào tạo và thị
trường lao động, tạo cho người lao động
sau khi được đào tạo trở thành những
người “sẵn sàng làm việc”, tức là sẵn sàng
đáp ứng với yêu cầu của các doanh nghiệp.
“Sẵn sàng làm việc” hay đơn giản hơn
là “kinh nghiệm làm việc” là một khó khăn
phổ biến hiện nay. Nhiều quốc gia đã giải
quyết vấn đề này bằng cách thực hiện liên
kết giữa các doanh nghiệp và các cơ sở đào
tạo trong đào tạo kỹ năng cho người lao
động (cho người lao động thực hành, thực
tập ngay tại các doanh nghiệp liên quan).
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
80
Hình 3. Khó khăn trong tuyển dụng lao động chia theo khu vực kinh tế
so sánh giữa Việt Nam và Ấn Độ
Nguồn: ILSSA/Manpower Điều tra tình hình thiếu lao động kỹ năng tại Việt Nam năm 2010
Manpower - Điều tra tình hình thiếu lao động kỹ năng năm 2010
Để các chính sách thực sự hiệu quả
và đảm bảo các chương trình giáo dục
đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu hiện tại và
tương lai của thị trường lao động, cần có
các nghiên cứu sâu và chi tiết hơn nữa.
Hiện nay, thực trạng thiếu lao động có kỹ
năng đang được khảo sát và dự báo theo
từng nhóm kỹ năng riêng biệt. Kết quả
của nghiên cứu này sẽ làm rõ những
khoảng trống về lao động kỹ năng theo
từng khu vực và loại hình doanh nghiệp,
đặc biệt là đối với khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài.
Hình 4. Nguyên nhân khó khăn trong tuyển dụng
Nguồn: ILSSA/Manpower - Điều tra tình hình thiếu lao động kỹ năng tại Việt Nam năm 2010
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
81
Tình hình thiếu lao động kỹ năng
theo quy mô doanh nghiệp:
Thông thường, các doanh nghiệp lớn
được cho rằng sẽ không gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động kỹ năng. Tuy
nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động có kỹ năng tỷ
lệ thuận với số lao động trong doanh
nghiệp, chỉ có 26% doanh nghiệp với
quy mô ít hơn 10 lao động gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động kỹ năng, trong
khi con số này ở các doanh nghiệp có
quy mô hơn 259 lao động là 85%. Kết
quả này phản ánh một sự khác thường:
Dường như doanh nghiệp càng lớn, khó
khăn trong tuyển dụng lao động có các
kỹ năng cần thiết càng cao (Hình 5).
Nguồn: ILSSA/Manpower - Điều tra tình hình thiếu lao động kỹ năng tại Việt Nam năm 2010
Tuy nhiên, điều này không phải là
hoàn toàn khó hiểu. Doanh nghiệp càng
lớn càng đòi hỏi nhiều kỹ năng đặc biệt
để phù hợp với yêu cầu công việc của
doanh nghiệp. Vậy điều gì là bất thường
ở đây? 85% doanh nghiệp với quy mô
hơn 259 lao động gặp khó khăn trong
tuyển dụng lao động. Như đã đề cập ở
những phần trước, đối với lao động yêu
cầu kỹ năng đơn giản, sự thiếu hụt này
không chỉ gây ra bởi lạm phát tiền lương
mà còn do người lao động bỏ việc và để
lại những khoảng trống về việc làm cho
doanh nghiệp.
Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhỏ
và doanh nghiệp lớn thường là tốc độ
phát triển. Tốc độ phát triển của doanh
nghiệp lớn thường có xu hướng như tốc
độ phát triển chung của cả nền kinh tế.
Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ thường
sử dụng lao động có kỹ năng đơn giản
và trả lương thấp. Điều đó một lần nữa
khẳng định sự cần thiết phải tạo ra một
liên kết mạnh giữa các chương trình
giáo dục đào tạo và thị trường lao động,
việc làm.
Cao
Thấp
Trung bình
Tuyến tính (trung bình)
Dưới 10
lao động
10 – 49
lao động
50 – 250
lao động
Trên 250
lao động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_hinh_thieu_hut_lao_dong_ky_nang_o_viet_nam.pdf