Tình hình và nhiệm vụ mới của Đảng

Tình hình và nhiệm vụ mới của ĐảngI- Phát triển và củng cố đảng A- Tình hình phát triển và củng cố Đảng Từ ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến nay, Đảng đã phát triển vượt bực so với thời kỳ sau khởi nghĩa. Nhiều địa phương, nhất là ở Bắc Bộ và Trung Bộ, đã nỗ lực thi đua xây dựng Đảng, đẩy mạnh đà phát triển của Đảng, làm cho Đảng dần dần bắt rễ sâu vào quảng đại quần chúng nhân dân. Đảng đã tiếp đón vào hàng ngũ những phần tử ưu tú nhất của quốc gia, từ những công nhân trong vùng tự do và bị chiếm đóng, những trung, bần nông ở các miền thôn quê, cho đến những thanh niên anh dũng trong bộ đội, những nhà trí thức tài giỏi trong nước và cả những bậc tu hành, ngày nay, toàn thể Đảng bộ đã có tới 11 vạn đảng viên. Tính trung bình trong toàn cõi Đông Dương cứ 240 dân thì có 1 đảng viên, và một đảng viên phải lãnh đạo 40 quần chúng cứu quốc nếu ta so với hơn triệu rưởi hội viên Việt minh toàn quốc và 25 triệu dân Đông Dương. Điểm qua tình hình hiện tại, chúng ta thấy Đảng ta đang trưởng thành và xứng đáng là một đảng tiền phong trong cuộc giải phóng dân tộc. Nhưng trước đà phát triển này, Đảng không tránh được những khuyết điểm do hoàn cảnh đặc biệt về địa dư, giao thông liên lạc khó khǎn, trình độ chênh lệch giữa các dân tộc và các địa phương trong nước. 1. Sự phát triển không đều của Đảng

doc18 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2166 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình và nhiệm vụ mới của Đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ và đề phòng bọn phản động chui vào hàng ngũ Đảng. Kết nạp đảng viên theo điều kiện ở miền Bắc: tán thành chủ nghĩa; hǎng hái làm việc và có tư cách đúng đắn. Các Ban cán sự Lào, Miên phải mạnh dạn nhằm những phần tử hǎng hái chiến đấu trong hàng ngũ Việt kiều cứu quốc, tổ chức họ vào Đảng, phải tìm tòi thu hút những phần tử hǎng hái trong hai dân tộc Miên, Lào (điều kiện vào Đảng của họ có thể dễ dàng hơn), và đào tạo họ thành những cán bộ cốt cán cho công tác vận động Lào, Miên. Gây cho được cơ sở đảng trong dân chúng Miên, Lào. Phải chú trọng nhất các đoàn thể cấp tiến, các phần tử thanh niên trí thức và bộ đội Lào độc lập. Hướng phát triển Đảng. Việc phát triển Đảng ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ thực hiện cho được Nghị quyết Hội nghị cán bộ lần thứ IV tháng 5-1948. ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ hướng phát triển phải nhằm mấy đích sau đây: 1- Phát triển Đảng tới các liên xã và các đại đội Vệ quốc đoàn. 2- Các thành phố lớn 3- Các xí nghiệp, các đồn điền cao su 4- Các đường giao thông quan trọng. 2. Gây cho được cơ sở sâu rộng trong khắp các vùng địch kiểm soát và chiếm đóng để thực hiện khẩu hiệu biến hậu phương địch thành hậu phương ta. Miền Bắc: Phải phát triển và tǎng cường tổ chức đảng ở những nơi có cơ sở rồi và phải gây cho được cơ sở đảng ở những tỉnh biên giới địch chiếm đóng, để phát động mạnh phong trào du kích và phá hoại kinh tế địch mạnh mẽ hơn nữa. Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ:theo báo cáo đầu nǎm 1948 thì số lớn các đô thị địch chiếm đóng ở Nam Trung Bộ (trừ Quảng Nam, Đà Nẵng) và các tỉnh thành Nam Bộ, nhất là Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Cần Thơ, v.v. cơ sở đảng còn non kém, hẹp hòi. ở những nơi này phải tích cực ném cán bộ có nǎng lực vào gây dựng cho được cơ sở mạnh mẽ hơn để tiến tới, kịp với miền Bắc. Việc phát triển Đảng trong vùng địch kiểm soát phải thận trọng đề phòng gian tế chui vào phá tổ chức. Tổ chức phải bí mật đơn giản. 3. Củng cố phải đi đôi với phát triển nhất là ở miền Bắc Nói chung việc củng cố Đảng, nhất là ở miền Bắc chưa theo kịp sự phát triển, số đồng chí dự bị còn nhiều hơn số đồng chí chính thức hàng bảy, tám ngàn. Đảng viên càng ngày càng đông mà đa số trình độ chính trị, vǎn hoá rất kém. Vì vậy, nhiều chi bộ không đủ sức lãnh đạo công tác trong các xã, trong các xí nghiệp và trong các đơn vị bộ đội. Mấy nhiệm vụ cần thiết hiện thời của các cấp bộ là: 1- Giáo dục đảng viên: a) Về chính trị: ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ tiếp tục công tác huấn luyện chính trị theo kế hoạch chương trình đã vạch ra trong nghị quyết Hội nghị tuyên huấn toàn quốc 2-1948. Để theo kịp với mức phát triển, chú trọng thực hiện cho được "kết nạp đồng chí nào trong ba tháng phải huấn luyện ngay đồng chí ấy theo chương trình sơ cấp". ở Nam Bộ phải thực hành đúng theo nghị quyết Hội nghị tuyên huấn toàn quốc. Chú trọng đặc biệt mở nhiều lớp huấn luyện chính trị hơn nữa cho các cấp, mở những lớp ngắn hạn cho các đồng chí mới và chi uỷ. Ban tuyên huấn Trung ương chú trọng gửi tài liệu cho các nơi kể trên. b) Về vǎn hoá: Trung ương và các liên khu uỷ xúc tiến mở những trường dạy vǎn hoá dài hạn cho các đồng chí và cán bộ theo kinh nghiệm của trường trung học bình dân, các lớp tỉnh, phủ, huyện, xã đã có ở miền Nam Trung Bộ. Chú ý: Việc giáo dục chính trị và vǎn hoá cho các đồng chí phải đi đôi với việc tích cực bài trừ những tư tưởng hành động sai lầm của các đảng viên để nâng cao đảng tính của các đồng chí. 2- Thanh trừ những đảng viên không xứng đáng Đặt kế hoạch thanh trừ ở những nơi phát triển bừa bãi quá để loại ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội vào Đảng vì a dua, vì cảm tình gia đình, v.v.. Đối với những đồng chí kém cỏi quá sau một thời gian rèn luyện mà không tiến bộ được cũng loại ra khỏi Đảng. Phải đề cao kỷ luật, cương quyết đuổi ra khỏi Đảng những phần tử mất tinh thần, vô kỷ luật, hủ hoá. Nhưng không coi việc thanh trừ là một phương pháp chính để củng cố Đảng. Đi đôi với việc đề cao kỷ luật, phải tǎng gia công tác kiểm tra hàng ngũ để phòng gian, nhất là trong các bàn giấy kháng chiến hành chính và quân đội. Trong việc kết nạp những trí thức tư sản, nhất là những người thuộc đảng phái khác, phải hết sức thận trọng đề phòng những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những phần tử đầu óc còn nhiễm đầy tư tưởng quốc gia chui vào hàng ngũ Đảng. 4. Tất cả mọi công tác củng cố Đảng đều phải nhằm mục đích xây dựng chi bộ Việc đào tạo chi bộ tự động ở Bắc Bộ, và Bắc Trung Bộ tiếp tục thực hiện kế hoạch đã vạch tại Hội nghị cán bộ lần thứ IV. ở Nam Trung Bộ và nhất là ở Nam Bộ, phải đổi lối làm việc, phải chuyển hướng công tác củng cố vào việc xây dựng chi bộ, đào tạo chi bộ tự động công tác theo nền nếp đang thực hành ở miền Bắc. II- vấn đề tổ chức trong đảng A- Tình hình tổ chức trong Đảng hiện nay Việc thống nhất tổ chức trong phạm vi toàn Đảng từ trước đến giờ vẫn chưa lúc nào thực hiện được hoàn toàn, vì giao thông liên lạc khó khǎn, cán bộ thiếu, tình hình chính trị quân sự mỗi nơi một khác, mỗi lúc một khác. Sau khi khởi nghĩa và nhất là từ toàn quốc kháng chiến đến giờ, tuy hệ thống tổ chức đã châm chước điều lệ, quy định ra những hình thức tổ chức mới cho thích hợp, nhưng giữa Bắc, Nam, Trung sự tổ chức cũng vẫn còn khác nhau. 1. Về hệ thống tổ chức, trước đây toàn quốc chia ra làm nǎm xứ đảng bộ, từ ngày toàn quốc kháng chiến có chỉ thị lập ra các khu đảng bộ, rồi gần đây, tháng 1-1948 lại lập ra các liên khu đảng bộ. Nhưng từ Thừa Thiên, Quảng Bình trở ra Bắc thì thực hiện được việc tổ chức khu và liên khu. Từ Quảng Nam, Quảng Ngãi trở vào Nam vẫn chưa dứt khoát, ba khu thuộc Nam Trung Bộ: 5, 6, 15 chưa gọi là liên khu đảng bộ mà để các khu nhỏ về quân sự và lập ra một ban chỉ đạo chung là uỷ ban chỉ đạo miền Nam Trung Bộ. ở Nam Bộ vẫn giữ hình thức Xứ đảng bộ, ở Lào, Miên vì cơ sở đảng còn kém và từ trước đến giờ mới chỉ có một ban Cán sự phụ trách chứ chưa có điều kiện là một xứ đảng bộ. Việc đặt ra các phân cục Trung ương chỉ có hình thức hơn là thực tế, gọi là Trung ương phân cục, nhưng chỉ có một đồng chí đại diện Trung ương chịu trách nhiệm. 2. Tổ chức đảng trong quân đội, Trung ương chủ trương lập ra các ban chấp uỷ trong bộ đội, có một hệ thống từ trên xuống dưới. Sau một thời gian làm việc, mặc dầu có một hệ thống chấp uỷ dọc, Trung ương Quân uỷ vẫn chỉ huy không thấu suốt được, trong khi đó, các cấp uỷ đảng ít chú ý đến bộ phận đảng trong bộ đội, các đồng chí trong quân đội, đôi nơi có tư tưởng biệt phái, không mật thiết liên lạc và chịu sự chỉ đạo của cấp uỷ đảng tương đương, làm cho công việc cả về chính quyền lẫn đoàn thể bị chậm trễ. Về nguyên tắc, Đảng là một tổ chức chỉ có một hệ thống duy nhất không thể có một hệ thống thứ hai. 3. Trong điều lệ Đảng có quy định việc tổ chức ra các khu đặc biệt và các chi bộ đặc biệt, nhưng từ ngày khởi nghĩa đến giờ, Trung ương chưa quy định việc tổ chức các khu và các chi bộ đặc biệt (có một dạo nhận nhầm những chi bộ cơ quan là đặc biệt) và lại bỏ khu đặc biệt Hòn Gai. Từ ngày toàn quốc kháng chiến đến giờ, địa vị quan trọng đặc biệt của Hòn Gai, Hà Nội, Sài Gòn, Chợ Lớn, càng thấy rõ ràng về kinh tế, chính trị và quân sự, việc lập ra các khu vực đặc biệt để Trung ương trực tiếp phụ trách là rất cần thiết. 4. Trước đây, khi chưa giành được chính quyền, các cấp uỷ đảng lập ra các Ban Công vận, Nông vận, Phụ vận để giúp việc. Sau khởi nghĩa, lại chủ trương lập ra Ban Dân vận các cấp. Tuy nhiệm vụ, quyền hạn đã quy định dứt khoát, nhưng các ban này chưa biết phân biệt nhiệm vụ mình với các đảng đoàn trong các tổ chức quần chúng. Cũng vì thiếu cán bộ mà phải lập ra Ban dân vận và các ban khác cùng một lúc, các cấp uỷ thi hành chiếu lệ nên kết quả thực tế về công tác của Ban dân vận các cấp chưa đạt được mấy, nhất là các Ban dân vận tỉnh chưa biết làm gì. 5. Tổ chức bên trong của Đảng, từ trước tới nay cứ phải chạy theo tình thế, mà tình thế biến chuyển rất nhanh. Để phụ trách các công việc tổ chức về mọi mặt, Trung ương và các cấp lập ra Ban tổ chức, nhưng từ trên xuống dưới, phần nhiều chỉ làm được ít nhiều công việc thuộc về nội bộ của Đảng. Các Ban tổ chức và các cấp uỷ cũng ít biết đến công việc nội bộ của đảng. Các Ban tổ chức và các cấp uỷ cũng ít biết đến công việc chung của mọi mặt, phần nhiều làm đâu biết đấy. Trên đây là mấy vấn đề thuộc tổ chức bên trong của Đảng, ta thấy rõ ràng còn có nhiều điểm cần phải chấn chỉnh để cho công việc chỉ đạo được nhanh chóng. B- Chấn chỉnh tổ chức của Đảng Việc thống nhất hệ thống và hình thức tổ chức làm cho Đảng được thống nhất về hành động, tư tưởng. Tình trạng tổ chức của Đảng ta hiện giờ cần có sự chấn chỉnh như sau: 1. Lập các Khu đảng bộ, Xứ đảng bộ Từ Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị trở ra Bắc, thì giữ hình thức liên khu, ba khu Nam Trung Bộ 5, 6, 15 thống nhất thành một liên khu cũng như một liên khu Bắc Bộ (Ban Chấp uỷ miền Nam của ba khu này đổi thành liên khu uỷ) còn Nam Bộ vì hoàn cảnh đặc biệt, sự liên lạc giữa các tỉnh với toàn xứ có thể thực hiện được, vì thế cứ dùng hình thức xứ đảng bộ như cũ. Xứ Đảng bộ Nam Bộ to hơn một Khu đảng bộ Bắc bộ, ở Nam Bộ có thể lập ra các liên tỉnh, tuỳ theo tình thế. ở Lào và Miên phải đi đến lập ra các ban Xứ uỷ, nhưng trong khi cơ sở còn kém, cán bộ thiếu thì lập ra một ban Cán sự cho mỗi xứ. Đứng về nguyên tắc, các khu đảng bộ, xứ đảng bộ và các ban cán sự Lào, Miên, Xiêm đều trực tiếp do Ban Thường vụ Trung ương phụ trách, nhưng vì giao thông, liên lạc khó khǎn, Trung ương uỷ nhiệm một đồng chí Trung ương phụ trách Nam Bộ và Ban Cán sự Trung ương ở ngoài cũng do một đồng chí Trung ương nữa phụ trách chỉ huy ba ban: Đặc uỷ Xiêm, hai Ban Cán sự Lào, Miên và công việc bên ngoài. Phân cục Trung ương sẽ bỏ đi. Để cho giữa các khu có sự giúp đỡ lẫn nhau và trao đổi kinh nghiệm, các khu tiếp giáp với nhau cần có sự liên lạc để giúp đỡ hoặc hợp tác trong khi cần thiết. 2. Lập chế độ uỷ viên chính trị Muốn cho tổ chức đảng trong quân đội được mật thiết với các cấp bộ đảng, bỏ hệ thống tổ chức chấp uỷ thứ hai bên cạnh hệ thống đảng, tổ chức đảng trong quân đội sẽ quy định như sau: (cǎn cứ vào đề nghị của hội nghị cán bộ Đảng trong quân đội). Bỏ hệ thống chấp uỷ hiện giờ, từ Trung ương quân uỷ cho đến Trung đoàn uỷ, thay bằng chế độ uỷ viên. Đại diện Trung ương phụ trách việc Đảng và quân sự trong quân đội toàn quốc là một uỷ viên Trung ương, gọi là uỷ viên chính trị Trung ương. Trong một Liên quân khu có một uỷ viên gọi là uỷ viên chính trị liên khu, do Trung ương chỉ định... ở mỗi trung đoàn có một uỷ viên chính trị trung đoàn, cũng do Trung ương chỉ định. Uỷ viên chính trị liên khu và uỷ viên chính trị trung đoàn được tham gia liên khu uỷ và Tỉnh uỷ. ở tiểu đoàn không có uỷ viên chính trị, mà do bí thư liên chi chịu trách nhiệm (từng tiểu đoàn lập ra một liên chi bộ, gồm có các chi bộ trong một tiểu đoàn). Những đơn vị lưu động, khi đến nơi nào phải liên lạc với nơi đó để thảo luận thi hành kế hoạch quân sự. Những đơn vị này chịu sự chỉ đạo của cấp trên trực tiếp, không chịu trách nhiệm với địa phương chỉ đóng tạm thời. Các uỷ viên chính trị chịu trách nhiệm với uỷ viên cấp trên và cấp mình. Từ uỷ viên trung ương đến uỷ viên trung đoàn có sự liên lạc chỉ đạo về những vấn đề chuyên môn, không trái với chủ trương, chính sách của Trung ương. Từ khu trở xuống, chỉ có quyền thảo luận, tìm phương pháp thi hành chủ trương kế hoạch cấp trên. Trong trường hợp đứt liên lạc hoặc do công việc địa phương xảy ra, các khu có thể định đoạt mọi việc thuộc cấp mình, nhưng không đi quá vào phạm vi chuyên môn. Uỷ viên chính trị cấp trên có thể ra chỉ thị cho cấp dưới, và không trái với đường lối, chính sách của cấp trên và cấp uỷ địa phương. Báo cáo của các cấp phải gửi cho cấp mình và uỷ viên cấp trên, để giúp việc các uỷ viên chính trị, có ba tiểu ban: tuyên huấn, kiểm tra và tổ chức. ở mỗi cấp lại đặt ra một uỷ ban kỷ luật gồm uỷ viên chính trị và những đồng chí có thành tích hoặc lâu nǎm trong Đảng ở cấp ấy có nhiệm vụ xem xét cán bộ, cân nhắc, khen thưởng và trừng phạt. Trung ương đặt ra một uỷ ban quân sự để đặt kế hoạch quân sự và tổ chức bộ đội, thành phần gồm các cán bộ quân sự của Đảng như các đồng chí phụ trách chỉ huy bộ đội, tham mưu chính trị, v.v. và những tướng tá có nǎng lực của Đảng. Để thực hiện nghị quyết này, sẽ có một cuộc xếp đặt lại cán bộ các cấp trong bộ đội. 3. Lập các Đặc biệt khu Những khu vực đặc biệt quan trọng như Hà Nội, Sài Gòn, Chợ Lớn, Hòn Gai,... đặt là các biệt khu. Mỗi nơi này được coi như một khu, và có quyền lợi như một khu thường. Sở dĩ phải đặt ra như thế là cốt để Trung ương đặc biệt giúp đỡ và phụ trách, nhưng có thể tạm thời giao cho liên khu uỷ lân cận phụ trách, báo cáo và chỉ thị, nghị quyết của Trung ương sẽ gửi thẳng đến các đặc khu, nhưng đồng thời có một bản thứ hai gửi cho một Khu uỷ được uỷ nhiệm phụ trách. Đặc biệt khu gửi báo cáo lên Trung ương, đồng thời cũng phải gửi cho Khu uỷ được uỷ nhiệm phụ trách mình. Các khu được uỷ nhiệm phụ trách phải hết sức chú ý đến công việc của đặc biệt khu, chứ không phải để mặc Trung ương làm cho kết quả có thể trái ngược lại (đặc biệt chú ý thành ra lại không chú ý). 4. Bỏ Ban dân vận Các Ban dân vận từ nay sẽ bỏ đi, để các ban vận động các giới trực tiếp với cấp uỷ và không phải ở đâu cũng nhất thiết lập ra tất cả các ban như hiện giờ. Các ban này phải tuỳ theo thời gian và hoàn cảnh mà đặc biệt chú ý hay không. Trong trường hợp một ban vận động một giới không cần thiết nữa sẽ bỏ đi. Các tổ chức quần chúng đã có đảng đoàn đảm nhận. Ban vận động các giới chỉ nên tổ chức đến khu và khi nào thật cần thiết thì mới đến tỉnh. ở các cấp dưới đã có đảng đoàn thi hành kế hoạch vận động các giới của cấp trên. (Điều này sửa lại nghị quyết Hội nghị cán bộ lần thứ IV, tháng 5-1948). 5. Lập tiểu ban nghiên cứu của Đảng trong các tổ chức chính quyền ở các cơ quan chính quyền toàn quốc như hành chính kháng chiến nên lập ra các tiểu ban nghiên cứu về tổ chức, thành phần là các đồng chí hiện phụ trách ở trong các cơ quan đó. Tiểu ban này sẽ mật thiết liên lạc với Bộ tổ chức trung ương có trách nhiệm nghiên cứu về các hình thức tổ chức chính quyền và việc điều chỉnh cán bộ để giúp cho Bộ tổ chức trung ương hiểu biết về vấn đề tổ chức mọi mặt. Vì ngày nay Bộ tổ chức của Đảng mới chỉ biết những công việc tổ chức nội bộ của Đảng mà thôi, điều thiếu sót này làm cho quan niệm lãnh đạo của một số đồng chí đôi khi không được đầy đủ, sinh ra làm đâu biết đấy, không có sự nhìn nhận bao quát. 6. Các chi bộ và các đồng chí ngoại quốc hoạt động ở Đông Dương Tất cả các đồng chí ngoại quốc hiện hoạt động ở Đông Dương đều sáp nhập vào các chi bộ địa phương, trừ những chi bộ quan trọng thì do Trung ương hoặc khu uỷ phụ trách. Đồng chí nào có nǎng lực, đủ điều kiện, được tham gia các cấp uỷ. 7. Củng cố đường giao thông liên lạc Củng cố đường giao thông suốt Trung, Nam, Bắc (đặt các trạm điện đài), Liên khu IV và Nam Trung Bộ phải đảm nhiệm. Nói thêm. Sửa lại tổ chức quân đội ở nam Trung Bộ và Nam Bộ. Vì tổ chức đảng và hành chính kháng chiến ở Nam Trung Bộ, Nam Bộ là liên khu và xứ. Nếu tổ chức quân đội cứ để các khu như hiện nay, làm cho việc thống nhất chỉ huy không thể thực hiện được. Muốn cho các bộ máy chỉ huy kháng chiến, Đảng và quân sự ǎn khớp với nhau, cần sửa lại tổ chức quân đội như sau: a) Ba khu Nam Bộ lập một Bộ chỉ huy chung phụ trách quân sự toàn ba khu Nam Bộ. b) Ba khu Nam Trung Bộ cũng thống nhất làm một liên khu, có một bộ chỉ huy. Làm như trên thống nhất được sự chỉ đạo cả mọi mặt, bỏ bớt được các bộ máy của nhiều khu nhỏ (các khu bộ ở hai nơi này hiện rất nặng nề, số người không chiến đấu nhiều bằng số người chiến đấu ở Nam Bộ), tách được nhiều cán bộ khá về phụ trách và củng cố các trung đoàn thống nhất chỉ huy, tránh được địa phương chủ nghĩa (khu nọ tước súng của khu kia như ở Nam Bộ). * * * Những vấn đề trên cần được giải quyết dứt khoát để cho bộ máy toàn Đảng chạy đều và theo kịp với sự tiến triển càng ngày càng mạnh mẽ của Đảng ta. Xứ uỷ Nam Bộ, liên khu uỷ miền Nam Trung Bộ, các ban cán sự Lào, Miên, Xiêm phải lấy những chỉ thị nghị quyết thuộc về tổ chức của Trung ương từ trước đến giờ để thi hành cho thống nhất trong toàn Đảng. Hiện có nhiều chi bộ tổ chức chưa sát với những nghị quyết hiện hành, nên xem xét lại cho được thống nhất. III- Mở rộng và thực hiện dân chủ trong đảng Từ ngày thành lập đến bây giờ, Đảng ta phải trải qua bao nhiêu giai đoạn hoạt động rất khó khǎn. Vì cơ sở đảng còn hẹp, cán bộ rất thiếu phải đề phòng mật thám và sự phản phúc nên toàn Đảng phải áp dụng nguyên tắc bí mật hoàn toàn trong công tác hàng ngày, không những đối với tai mắt đế quốc, mà cả với các đảng viên nữa. Các việc phần nhiều do cấp trên quyết định, các cấp dưới ít khi được biết công việc của cấp trên, các cơ quan phụ trách của Đảng đều do cấp trên chỉ định. Trong hoàn cảnh bí mật, quyền dân chủ trong Đảng bị hạn chế rất nhiều. Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng chiếm địa vị ưu thắng về sự hoạt động của mình nhưng quyền dân chủ trong Đảng cũng chưa được mở rộng bao nhiêu. Các cơ quan chỉ đạo từ trên xuống dưới không những do cấp trên chỉ định, mà mỗi cấp lại còn do một uỷ viên cấp trên trực tiếp điều khiển, có khi một uỷ viên cấp trên lại phụ trách quá nhiều công việc thành ra bao biện. Công việc của chi bộ thường do cán bộ chuyên nghiệp xếp đặt cả. Hiện nay nhiều khu, tỉnh Bắc Bộ đã đi dần dần đến chỗ bỏ chế độ phụ trách, thay thế bằng việc kiểm tra. Từ Nam Trung Bộ trở vào Nam thì chưa có sự thay đổi, các cấp đều có uỷ viên cấp trên trực tiếp điều khiển. Cách làm việc như thế làm cho cấp dưới và chi bộ ỷ lại vào người phụ trách, không có hay không chịu có sáng kiến về những công việc của mình, chỉ trông mong cấp trên. Trong mỗi cấp, phần nhiều công việc do bí thư hoặc uỷ viên phụ trách quyết định. Các uỷ viên khác chỉ biết công việc nào mà mình chịu trách nhiệm. Trong các ban và các đảng đoàn cách thức làm việc cũng thiếu tập thể lãnh đạo. Cá nhân bao biện, có khi ra chỉ thị nghị quyết cũng tự cá nhân làm, không thảo luận. Cách làm việc này không những công tác không chạy, thiếu sót, mà còn sinh ra bản vị chủ nghĩa. Việc kiểm soát giữa trên và dưới không được thấu suốt, công việc cấp nào chỉ biết ở cấp ấy, ở nơi còn chế độ phụ trách thì hoàn toàn phó mặc uỷ viên phụ trách, nơi đã bỏ rồi thì thiếu kiểm soát, làm cho giữa trên và dưới trở nên lỏng lẻo. Cách thức làm việc như trên không còn thích hợp với sự phát triển của Đảng về mọi mặt như hiện giờ. Đảng đã đến lúc trưởng thành, cán bộ đã tạm đủ cung cấp cho mọi công việc. Hoàn cảnh ngày nay cho phép Đảng mở rộng và thực hiện nền dân chủ trong toàn Đảng, tình thế kháng chiến bắt buộc các cơ quan chỉ đạo các cấp của Đảng phải tự động lãnh đạo mọi mặt công tác của mình, không thể trông chờ vào cấp trên như trước. Vì vậy phải: 1. Bầu ban chỉ đạo các cấp, bỏ lệ chỉ định Cơ quan chỉ đạo các cấp từ chi bộ cho đến Trung ương phải khai đại biểu hội nghị, quyết định chương trình hành động của cấp mình, bầu ra ban Chấp uỷ cấp ấy. Ban chấp hành trung ương cũng triệu tập Đại hội toàn quốc để báo cáo công việc quyết định đường lối, chính sách của Đảng, bầu Ban chấp hành trung ương. Cấp trên chỉ chỉ định Ban Chấp uỷ nơi nào trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi. Tuy không chỉ định toàn ban Chấp uỷ cấp dưới nữa, nhưng theo đúng điều lệ hiện hành, bí thư và phó bí thư cấp dưới sau khi được bầu phải được cấp trên chuẩn y, hoặc nếu các uỷ viên hoặc toàn cấp uỷ dưới do đại biểu hội nghị bầu, nhưng xét ra không đủ điều kiện, cấp trên có thể thay đổi từng phần, hoặc bầu lại, hay tạm thời chỉ định người thay thế (chỉ ở trường hợp bất đắc dĩ). Gặp trường hợp thiếu một vài cấp uỷ viên thì sẽ do cấp trên chỉ định theo đề nghị của cấp uỷ dưới hoặc nếu có thể thì do Hội nghị cán bộ bầu thêm. Nam Bộ, Nam Trung Bộ phải khai đại biểu hội nghị bầu ra Ban Chấp hành các cấp. Bầu người vào các cấp bộ không những chỉ chú trọng về nǎng lực mà còn chú ý về thành phần xã hội. Phải phối hợp cán bộ mới với cán bộ cũ, người kém, người khá và phải đặc biệt chú ý thành phần công nhân trong các cấp chỉ đạo. Khi để cho các đảng bộ tự bầu lấy người chấp hành công việc cấp mình phải đề phòng bọn gian tế có thể lợi dụng cơ hội Đảng mở rộng và thực hiện quyền dân chủ mà chen vào các cấp bộ đảng hoặc những người chỉ nói giỏi còn công tác thực hành thì không có gì, hoặc làm hỏng việc của Đoàn thể. 2. Sửa soạn cho các cấp tự động lãnh đạo, bỏ uỷ viên phụ trách Khi đã để cho địa phương tự động, phải kịch liệt công kích những bệnh địa phương, quân phiệt, bè phái, hiện đương thịnh hành ở một vài cơ thể của Đảng, phải thực hành việc kiểm soát cho chặt chẽ. Nam Trung Bộ, Nam Bộ và một vài nơi thuộc Bắc Bộ vẫn còn áp dụng chế độ uỷ viên phụ trách. Nếu trong hoàn cảnh cấp ủy nào còn non nớt thì việc đặt uỷ viên cấp trên bên cạnh để kèm là rất cần, uỷ viên này có quyền quyết định sau cùng, nhưng trong khi làm việc uỷ viên phụ trách phải sửa soạn để cho cấp uỷ này đi đến tự đảm nhiệm lấy công việc của mình, không nên vì một vài điều kiện thiếu sót cứ duy trì mãi chế độ chỉ định hoặc phụ trách không chịu cất nhắc người mới lên các cấp chỉ đạo. Nên dìu dắt bằng những cách: a) Chỉ theo dõi công việc, giúp đỡ ý kiến khêu gợi sáng kiến để cho tự giải quyết mọi công việc và chịu lấy trách nhiệm. b) Sau một việc, hoặc sau một thời gian nhất định, họp các cấp lại kiểm thảo công việc (để cho cấp uỷ tự kiểm thảo trước, người phụ trách chỉ kết luận khi mọi người đã phát biểu đầy đủ ý kiến). 3. Mở hội nghị thường lệ và hội nghị bất thường Các cấp uỷ phải theo đúng điều lệ hội nghị thường lệ triệu tập đại biểu hội nghị. Ngoài ra các cấp uỷ nǎng mở những cuộc hội nghị cán bộ để cho cán bộ cấp dưới và các cán bộ chuyên môn được tham gia thảo luận công việc chỉ đạo chung. Những cuộc hội nghị này, cấp uỷ triệu tập nên để cho mọi người kiểm thảo công việc của mình trong phạm vi rộng, hẹp tuỳ theo trình độ người đến dự. Khi có việc quan trọng xảy ra ở địa phương hay có một biến chuyển lớn trong nước hoặc có một chuyển hướng chính sách và công tác của đoàn thể, các cấp ủy cũng triệu tập cán bộ hội nghị rộng rãi để nhận định công việc mới và đặt kế hoạch công tác nếu cần. 4. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách Nguyên tắc làm việc này, chúng ta đã nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần, nhưng thực tế chưa cấp chỉ đạo nào đã thực hiện được. Trong hoàn cảnh kháng chiến, việc đi lại khó khǎn nhưng không phải vì đó mà mọi việc đều do cá nhân quyết định, hoặc ai làm việc gì, chỉ biết việc ấy. Muốn thực hiện tập thể chỉ đạo, những vấn đề quan trọng phải đem bàn trong toàn thể cấp uỷ hay ít nhất cũng ở Ban Thường vụ, thực hành tập thể chỉ đạo chú trọng những điểm lớn về chủ trương, chính sách mọi mặt không phải cứ luôn luôn khai hội bàn công việc vặt. Như thế cấp uỷ giẫm chân lên công việc hàng ngày của Ban Thường vụ hay vǎn phòng. Tập thể lãnh đạo không phải bất cứ lúc nào cũng triệu tập hội họp, mà phải ấn định kỳ hạn rõ ràng trừ tình thế và công việc đặc biệt. Trong hoàn cảnh kháng chiến, tuy tập thể lãnh đạo, nhưng khi cần thiết cấp bách và chỉ trong trường hợp này, người bí thư cấp uỷ có quyền một mình quyết định công việc rồi báo cáo sau. 5. Mở rộng phê bình và thực hiện tự phê bình trong Đảng. Muốn cho sự chỉ trích trong Đảng thực hiện được đều đặn, cấp trên theo thường lệ phải báo cáo công việc mình làm với cấp dưới và ngược lại. Việc báo cáo và kiểm tra không làm được điều hoà, tự chỉ trích không có điều kiện thực hiện. Cấp nào cũng phải thực hiện tự chỉ trích không những dành trong các cuộc họp riêng để kiểm thảo mọi việc mà trong các nội san cũng cần phải đả phá những tư tưởng và hành động sai lầm. Tự chỉ trích nhằm vào những vấn đề chung như sự thi hành đường lối, chính sách, những công tác lớn, không phải chỉ chú ý về tư cách cá nhân và những điều vụn vặt. Thực hiện phê bình và tự phê bình, các cấp uỷ phải biết đề phòng ngay từ lúc đầu bệnh dân chủ cực đoan, phê bình, chỉ trích bừa bãi các cấp chỉ đạo, làm cho mất cả uy tín làm việc. Trái lại các cấp dưới và các đồng chí phải tranh đấu để thực hiện phê bình và tự phê bình trên nguyên tắc xây dựng và tiến bộ. Phải kịch liệt đả phá những thói bới móc vụn vặt, hoặc bị phê bình đâm ra thù ghét. Phê bình và tự phê bình phải thẳng thắn, cương quyết, không điều hoà nhượng bộ những điều sai lầm của các cấp bộ và các cá nhân, nhưng phải đứng trên lập trường phê bình để sửa chữa và đoàn kết. Rất có thể do bọn gian tế chui vào hàng ngũ ta lợi dụng phê bình và tự phê bình để phá vỡ đoàn kết nội bộ của Đảng. Các cấp chỉ đạo phải tinh tường trong khi làm việc. IV- Thống nhất tư tưởng và hành động Trong Đảng hiện nay đã thống nhất tư tưởng hành động chưa? Nếu nhìn chung thì toàn Đảng vẫn chấp hành những đường lối, chính sách đúng đắn của Trung ương, vẫn hành động nhất trí, nhưng đi sâu vào nội bộ chúng ta thấy những tư tưởng rất là nguy hại, những hành động đi ngược với quyền lợi cách mạng đã và đang bắt đầu nẩy nở ở một vài bộ phận. Trước đây, trong bức thư Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ thân mến viết cho các đồng chí, Người cũng đã nói nhiều về những tư tưởng và hành động sai lầm của chúng ta. Sau một thời gian kiểm thảo và tự chỉ trích, chúng ta cũng sửa chữa được ít nhiều, nhưng vẫn chưa được hết và còn trầm trọng hơn nữa vì có những biến chứng mới phát sinh. Chúng ta không ngần ngại đem phô bày ra đây một vài tư tưởng và hành động nguy hiểm để cùng nhau tìm phương pháp sửa chữa. a) Chia rẽ nội bộ: Ngoài Khu 10 và Khu 5, 6, nội bộ mỗi ngày càng đoàn kết thống nhất, thì nhiều khu hiện nay có xích mích giữa các đồng chí trong Khu uỷ, Quân khu uỷ, giữa các đồng chí ở cấp bộ quân sự, đảng đoàn chính quyền với cấp đảng bộ bên ngoài, làm cho bộ máy của Đảng chạy không đều, công cuộc lãnh đạo kháng chiến gặp rất nhiều trở ngại, các đồng chí thật đã có tội với Đảng và dân tộc. Là những người lãnh đạo đáng lẽ các đồng chí phải tượng trưng tinh thần đoàn kết trong Đảng và quần chúng, thì lại thực hành sự chia rẽ hơn ai hết. Đã bao lần ở các cuộc hội nghị và nhiều bức thư Hồ Chủ tịch và Trung ương kêu gọi các đồng chí "đoàn kết", "thống nhất" và các đồng chí cũng hứa hẹn đã nhiều, nhưng đâu lại hoàn đấy, lời nói của các đồng chí không bao giờ đi đôi với việc làm. Nguyên nhân sự chia rẽ phần lớn là do cá nhân chủ nghĩa mà ra. Các đồng chí không nghĩ đến quyền lợi của Đảng là tối cao, chưa hy sinh được cái "thằng tôi" cho Đảng. Ai cũng nghĩ đến cá nhân của mình to quá. Hơi một chút thì ganh tỵ tranh giành ảnh hưởng của nhau, nói xấu người khác để đề cao mình lên, thấy ai hơn thì ghét, nâng người nọ dìm người kia, người này không phục người khác, tự cao tự đại cậy mình có tài, có nǎng lực một chút thì coi đồng chí khác không bằng nửa con mắt. Lúc nào cũng nghĩ đến quyền hành địa vị cá nhân, khi nào không có quyền hành địa vị thì đâm ra bất mãn, chán nản. Tất cả những cá tính trên không những nó làm cho nội bộ lục đục dần dần có thể đi đến bè phái nguy hiểm. Cũng có khi vì những chính kiến bất đồng hay sự chung sống hàng ngày có nhiều điểm nhỏ nhặt, phức tạp, mà sinh ra xích mích. Nhưng đấy cũng chỉ là những điểm phụ nếu chúng ta biết gạt cá nhân ra ngoài thì chúng ta vẫn đoàn kết chặt chẽ vì Đảng vẫn là nơi để chúng ta gặp nhau thân mến mà quên hết tất cả những cái gì riêng mình. Quân thù hiện nay chỉ đương chờ dịp nội bộ của ta chia rẽ là tìm cách phá hoại và chỉ có thừa những dịp đó quân thù mới mong thắng nổi ta. Nguy cơ ấy đã rõ, chúng ta phải tìm mọi phương pháp chấm dứt tình trạng chia rẽ nội bộ hiện nay, là phải thực tâm đoàn kết nhất trí. Các cấp đảng bộ hãy nỗ lực thi đua đoàn kết làm cho đại gia đình cộng sản chúng ta không còn phải nhắc đến hai chữ chia rẽ. Những phần tử nào cố tình chia rẽ nội bộ thì chẳng trước thì sau sẽ bị đào thải, và kỷ luật của Đảng nhất định không dung thứ. b) Vô kỷ luật Đảng ta có một kỷ luật sắt rất chặt chẽ , nó buộc người đảng viên không được có một hành động, một ý chí gì riêng biệt trái với quyền lợi của Đảng. Nhờ có kỷ luật đó nó tôi luyện, cho nên Đảng ta mỗi ngày một cứng rắn trưởng thành. Nhưng trong quá trình lớn mạnh của Đảng những đảng viên phần nhiều mới là non kém nên thường phạm kỷ luật và đã bị khai trừ ra khỏi Đảng khá đông (gần 1000 đảng viên trong nǎm 1947), phần nhiều những lỗi phạm phải là tiền tài, hủ hoá, bê trễ công việc, ít có những lỗi chống lại kỷ luật của Đảng. Hơn nữa là những đảng viên mới chưa qua những thời gian rèn luyện, thử thách nhiều nên những đồng chí đó càng không đáng trách lắm. ở đây chúng ta muốn nói đến những đồng chí phụ trách đã có một trình độ giác ngộ khá cao mà lại có những hành động như một người không đảng, coi thường chỉ thị, nghị quyết của Đảng, trước mặt thì phục tùng, sau lưng thì tự do hành động coi thường cấp bộ phụ trách, vô tình chống lại đường lối chính sách của Đảng. Lại có những đồng chí có trình độ vǎn hoá và có nǎng lực ít nhiều thường tự cao tự đại khinh miệt những đồng chí thợ thuyền, nông dân ở cấp bộ lãnh đạo mình, nên tỏ ra những hành động không chịu phục tùng và rồi có thể đi đến chỗ chống lại cấp bộ của Đảng. Kỷ luật bắt ta phải phục tùng cấp bộ của Đảng, các đồng chí đó là tiêu biểu cho cấp bộ Đảng, chúng ta khinh miệt tức là chúng ta khinh miệt Đảng. Nếu chúng ta có nǎng lực thì phải hết lòng giúp đỡ các đồng chí đó mau tiến bộ để làm tròn nhiệm vụ chung. Tuy chúng ta có vǎn hoá và nǎng lực nhưng đứng về phương diện khác, chúng ta nhất định còn non kém hơn. Những hành động vô kỷ luật kể trên đều do đầu óc tự cao, tự đại cá nhân anh hùng của giai cấp tiểu tư sản sinh ra. Nếu không kịp thời sửa chữa nó sẽ làm hại cho Đảng không ít và một ngày kia nó có thể phản lại quyền lợi của giai cấp và dân tộc. Gương Nam Tư đã cho Đảng ta một bài học rất quý báu. c) Dân chủ cực đoan Trong khi mở rộng dân chủ trong Đảng, những tư tưởng dân chủ cực đoan đã bắt đầu chớm nở. Một số đồng chí ở cấp bộ chỉ đạo có quan niệm cho quyền hạn của Ban Thường vụ ở một cấp bộ là nhỏ hơn Ban Chấp uỷ, nên muốn Ban Thường vụ muốn giải quyết việc gì (dù là việc thường) cũng phải hỏi ý kiến của các đồng chí trong Ban Chấp hành. Do đó đã coi thường Thường vụ. Sự thực Ban Thường vụ đứng về nguyên tắc, quyền hạn nhỏ hơn Ban Chấp hành, nhưng nó được uỷ nhiệm có quyền giải quyết những công việc hàng ngày, trừ những việc quan trọng phải hỏi ý kiến toàn Ban. Nhất là trong lúc kháng chiến đôi khi nó có quyền quyết định những việc quan trọng rồi báo cáo toàn Ban Chấp uỷ sau. Có thế công việc mới nhanh chóng, không bỏ lỡ thời cơ. Như vậy đứng về công việc thực tế hiện tại và tinh thần, nó có quyền hơn. Nếu cứ có quan niệm như trên là theo nguyên tắc máy móc và dân chủ cực đoan. Có những đồng chí lại cho một cấp uỷ của Đảng không có quyền thi hành kỷ luật dù là phê bình đối với uỷ viên cùng cấp, vì cho cùng cấp ai cũng như ai nên không có quyền thi hành kỷ luật và e sau khó làm việc với nhau. Tư tưởng này lại còn sặc mùi tiểu tư sản, nó biểu lộ thái độ nể nang không dám tranh đấu nội bộ, lúc nào cũng chỉ muốn giữ "êm thấm" cho xong việc. Trong các cuộc bầu cử các cấp mới rồi có một số đồng chí đã không hiểu rõ ý nghĩa dân chủ trong Đảng cho nên việc bầu các ban Chấp hành cứ để mặc, muốn bầu ai thì bầu, không cần có sự lãnh đạo, như vậy mới thật dân chủ. Các đồng chí đã lầm, từ khi còn bí mật các cấp uỷ đều do sự chỉ định của cấp trên, đến nay có hoàn cảnh Đảng mở rộng dân chủ để bầu lại các cấp uỷ, nhưng do Đảng chưa ra công khai các đồng chí đi dự hội nghị chưa biết rõ được hết thành tích, nǎng lực từng người, hơn nữa trình độ nhận thức của một số đồng chí còn non kém thì làm sao biết để lựa chọn hết những người xứng đáng. Nên việc bầu cử các cấp uỷ cần có sự lãnh đạo công bằng, sáng suốt là lẽ dĩ nhiên. Nhưng đứng về nguyên tắc dân chủ các đồng chí vẫn có quyền bầu ai thì bầu. Nếu cứ để buông trôi tự do bầu thì rất nguy hại, không những sự lựa chọn cấp uỷ không được xứng đáng mà có khi những phần tử phản động chui vào lợi dụng cơ hội để quấy rối hàng ngũ ta. Chỉ có khi nào Đảng đã công khai hoạt động mạnh mẽ, trình độ đảng viên đã cao đủ sức nhận định, lựa chọn được người xứng đáng, thì lúc đó mới không cần có sự lãnh đạo. Ngoài những tư tưởng hành động sai lầm kể trên, còn những bệnh chủ quan, quân phiệt, quan liêu, địa phương chủ nghĩa, nó vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, cần phải có sự tích cực sửa chữa. Muốn tẩy trừ những tư tưởng, hành động sai lầm, thì chúng ta phải: 1. Mở rộng phê bình và thực hiện tự phê bình (đã nói ở mục mở rộng dân chủ trong Đảng). 2. Phải có sự kiểm tra từ trên xuống dưới, để kịp thời sửa chữa những khuyết điểm. Các cấp uỷ phải gần gũi các đồng chí để hiểu rõ tình hình, không chỉ ngồi một nơi nghe báo cáo. Hàng ngày giữa các đồng chí phải kiểm tra công việc của nhau luôn (Hội nghị cán bộ lần thứ IV đã nói rõ vấn đề kiểm tra). 3. Phải giáo dục đảng viên để nâng cao trình độ lý luận và tinh thần. ấn định những tài liệu cho các đồng chí nghiên cứu học tập để mỗi ngày các đồng chí thấm nhuần tư tưởng Mác - Lênin. Thống nhất tư tưởng hành động quyết định sự sống còn của Đảng và sự thắng bại trong cuộc kháng chiến do Đảng ta lãnh đạo hiện nay, nên chúng ta phải luôn luôn mạnh dạn dám nhìn thẳng vào óc mình, vào lòng bạn bằng cặp kính hiển vi để moi ra những cǎn bệnh tiểu tư sản mà tìm phương pháp sửa chữa, dù có phải dùng đến con dao của nhà giải phẫu cắt cái ung nhọt ấy đi, chúng ta cũng không từ. Đứng trên lập trường đoàn kết thân mến, chúng ta cương quyết đấu tranh nội bộ không chút nể nang để đem lại sự thống nhất, tư tưởng hành động cho Đảng. V- Nâng cao trình độ lý luận của đảng Đảng ta trưởng thành trong một xứ thuộc địa lạc hậu nên trình độ lý luận cán bộ, đảng viên phần đông non nớt. Đến nay Đảng giữ chính quyền và mỗi ngày một lớn mạnh, trình độ nhiều cán bộ không đi kịp với sự đòi hỏi của hoàn cảnh, nên việc nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ và đảng viên là một việc rất cấp bách. Nhưng muốn nâng cao trình độ lý luận thì phải có tài liệu, nhìn đến tài liệu thì thật chúng ta quá nghèo nàn. Tuy có ít cuốn có giá trị nhưng in ít quá, không phổ cập được đến các chi bộ. Vì vậy khẩu hiệu học tập nhiều nơi đặt ra thành khẩu hiệu suông; nhiều kinh nghiệm quý báu, nhất là từ khi giành chính quyền đến nay, chúng ta không biết tổng kết để viết ra lịch sử Đảng, trong 18 nǎm biết bao nhiêu chủ trương chính sách qua những giai đoạn cách mạng chúng ta không chú ý sưu tầm xuất bản để làm giàu cho lý luận cách mạng của Đảng. Bây giờ đến lúc chúng ta phải bắt tay ngay vào việc: 1. Trung ương phải cử ngay một ban viết lịch sử Đảng, chịu trách nhiệm sưu tầm và viết làm sao cho trong một thời gian ngắn phải xong. Nguyên tắc viết sử phải chú trọng vào phần chủ trương chính sách hơn là phần lịch sử. Trong sinh hoạt nội bộ, thêm một mục chuyên về lý luận. 2. Mỗi cấp đảng bộ từ tỉnh trở lên phải tổ chức một tiểu ban sưu tầm tổng kết và phổ biến kinh nghiệm, đặt dưới quyền của Ban tuyên huấn và phải có kế hoạch làm việc. Các đồng chí và các Đảng đoàn các ngành hoạt động của đảng phải giữ những tài liệu cần thiết cho ban này, nhất là ngành hành chính, quân sự và đảng vụ. 3. Những đồng chí có nǎng lực viết ở mọi ngành hoạt động của Đảng như quân sự, đảng vụ hay các ngành chuyên môn chính quyền phải để thì giờ viết những tập sách nhỏ phổ thông về những vấn đề mà mình phụ trách. 4. Các khu, các tỉnh phải tiếp tục in lại những sách báo cần thiết để cho các chi bộ đủ sách học tập nghiên cứu (những sách in lại do Ban tuyên huấn ấn định). 5. Những chỉ thị, nghị quyết quan trọng của Trung ương và các khu trước đây và từ nay trở đi phải in làm tài liệu nghiên cứu. VI- sửa đổi lối làm việc Đảng ta mỗi ngày một lớn mạnh, cách làm việc đã dần dần đi vào lề lối khoa học. So sánh lối làm việc có nền nếp quy củ thì Liên khu 3 hơn cả, còn Khu 4, Khu 5 và Nam Bộ thì còn kém, tuy nhiên trong lúc giao thời, chúng ta không thể nào tránh được những khuyết điểm. Có nơi vì khoa học quá mà đã đi đến chỗ nguyên tắc máy móc, nhưng rất nhiều nơi lại quá thủ công nghiệp và nhất là theo chủ nghĩa đại khái, làm một việc gì không bao giờ có điều tra, nghiên cứu cho tường tận; không có làm những bản thống kê, nên kế hoạch đặt ra thường không sát. Một thí dụ như việc tǎng gia sản xuất, nhiều địa phương không điều tra nghiên cứu nền kinh tế ở nơi mình ra sao, không có thống kê xem xét qua sản xuất đã thu lượm được thế nào, nên không có một kế hoạch tǎng gia sản xuất, ai làm được đến đâu hay đến đấy nên mới có hiện tượng nơi thừa nơi thiếu. Kế hoạch thi đua hiện nay cũng đương ở trong tình trạng ấy, nếu không sửa chữa thì kết quả không được bao nhiêu. Kế hoạch đặt ra lại không có kiểm tra thúc giục. Bao nhiêu chỉ thị, nghị quyết từ Trung ương cho đến các cấp, không mấy khi kiểm điểm lại xem đã thi hành được những gì để rút kinh nghiệm. Cứ buông trôi làm được đến đâu hay đến đó, nên không sao biết được chủ trương đúng hay sai để sửa chữa kịp thời. Các cấp lại thường không báo cáo rõ những công việc làm cho cấp trên nhất là Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ, tuy đường giao thông vẫn được và điện đài vẫn liên lạc hàng ngày, mãi đến chuẩn bị Đại hội, thúc giục nǎm lần bảy lượt mới được một bản báo cáo sơ lược. Như vậy làm sao cho Trung ương hiểu được tình hình và chủ trương cho đúng và kịp thời. Do đó Trung ương chỉ nhìn được đến miền Bắc mà gần như sao lãng miền Nam nên đã để xảy ra những việc đáng tiếc. Nói ngay đến các khu miền Bắc như Khu 4, Khu 1 báo cáo tam cá nguyệt đầu nǎm 1948 đến nay vẫn chưa có, Trung ương đành chịu không thể nào làm tổng kết rõ ràng, đầy đủ được tình hình chung. Ngoài ra cách làm báo cáo thường không khách quan, chỉ nói những điều hay, giấu những điều dở mà chúng ta thấy ở một vài báo cáo hay ở trong một vài cuộc hội nghị, làm cho sự nhận định của cấp trên thường sai lệch, nguy hiểm. Các báo cáo ở cuộc hội nghị cũng phải quy định lại sao cho hợp lý, nhiều báo cáo rườm rà, chiếu lệ, không có tổng quát đề ra được những điểm chính, hay nhiều khi lại nhắc lại điều trong báo cáo ở hội nghị lần trước. Có khi báo cáo lại không có gì đề nghị hay đề nghị lại không ǎn nhịp với báo cáo. Cuộc hội nghị muốn có kết quả không những phải báo cáo đầy đủ mà mỗi cuộc hội nghị chúng ta phải định cho nó có một mục đích, một tính chất rõ ràng từ đầu nǎm đến giờ, nhiều cuộc hội nghị chồng chất lên nhau cứ nhắc đi nhắc lại những vấn đề đã bàn ở hội nghị trước, làm cho hội nghị buồn tẻ, ít kết quả và mất nhiều thì giờ. ấy là chưa kể những cuộc hội nghị luộm thuộm nhưng khi đi vào hình thức lại quá trớn. Khuyết điểm này các cấp cần phải dần dần sửa chữa. Nói về cách lãnh đạo thì các cấp uỷ vẫn chưa thực hiện được sự lãnh đạo mọi mặt, phần nhiều chỉ chú ý đến công tác nội bộ, còn công tác chính quyền thì hầu như khoán trắng cho đảng đoàn. Nhưng cũng có nơi cấp uỷ lại choán hết công việc của đảng đoàn. Để sửa chữa những khuyết điểm trên, chúng ta phải sửa đổi lối làm việc như sau: 1. Làm một việc gì từ to đến nhỏ đều phải có điều tra nghiên cứu, hết sức tránh bệnh đại khái chủ nghĩa. 2. Phải thực hiện khoa thống kê trong mọi ngành hoạt động. 3. Chủ trương công tác phải có kế hoạch rõ ràng và từng thời gian một. 4. Trong quá trình công tác phải có kiểm tra, thúc giục và rút kinh nghiệm. 5. Thực hành một nhiệm vụ công tác gì đều phải có báo cáo rõ ràng, khách quan và đúng thời hạn, coi việc báo cáo là quan trọng. Ngoài các báo cáo đặc biệt, các báo cáo thường lệ phải theo đúng kỳ hạn sau đây: Chi bộ lên huyện, tuỳ địa phương quyết định. Huyện lên tỉnh một tháng một lần. Tỉnh lên khu ba tháng một lần. Khu, tỉnh lên Trung ương ba tháng một lần. 6. Sửa đổi lại lối làm việc ở trong các cuộc hội nghị (cách tổ chức, báo cáo, tính chất và mục đích hội nghị). 7. Triệt để thực hiện sự lãnh đạo mọi mặt công tác của Đảng. 8. Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ phải tiến kịp lề lối làm việc ở miền Bắc. Tất cả các cấp bộ phải nghiên cứu cuốn Sửa đổi lối làm việc. VII - Chính sách cán bộ Trong các cuộc hội nghị trước chúng ta đã nói nhiều về chính sách cán bộ nhưng đến nay vẫn còn nhiều khuyết điểm. Cǎn cứ theo báo cáo thì Khu 3 hiện nay tổng số cán bộ có 7.937 (kể cả Chấp uỷ và chuyên môn). Số cán bộ có triển vọng đề bạt lên Tỉnh uỷ cũng có nhiều. Khu 4 tuy không báo cáo rõ số cán bộ, nhưng với mức phát triển Đảng khá mạnh thì số cán bộ cũng không thiếu. Khu 1, Khu 10 thì còn thiếu nhiều cán bộ. Riêng Khu 10, tổng số cán bộ chỉ có 991 (kể cả Chấp uỷ) nhất là ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ lại càng thiếu hơn nữa. Đến nỗi một đội viên đi áp tải ở Khu 5 vào Nam Bộ lên làm đại đội phó, một chính trị viên trung đội vào làm chính trị viên trung đoàn. Số cán bộ các khu trong toàn quốc quá ư chênh lệch. Cán bộ chuyên môn trong các ngành cũng còn thiếu nhiều. Nhưng nhiều đồng chí lại không thích chuyên môn, có xu hướng sai lầm cho công tác chuyên môn không thể tiến được, cứ muốn ra hoạt động công tác đảng và quần chúng. Các đồng chí ấy đã không nhận rõ sự cần thiết của Đảng mà chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, nếu có sang làm công tác chuyên môn vẫn không chủ tâm học tập. Hiện nay tình hình cán bộ trừ Khu 3 là báo cáo được rõ ràng hơn, còn các khu chưa đâu báo cáo được rành mạch. Nhất là những cán bộ trong bộ đội thì báo cáo lại càng thiếu sót. Trung ương Quân uỷ chưa biết rõ được số cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên. Về lý lịch cán bộ các Khu 5 và Khu 6 và Nam Bộ không chú ý đến. Còn các khu miền Bắc thì chưa khai đầy đủ vì vậy làm cho Trung ương cũng như các khu chưa hiểu rõ được cán bộ để điều động cho hợp lý. Việc cất nhắc cán bộ, chúng ta còn cẩu thả, không thận trọng, không cân nhắc cho chín chắn, có khi cất nhắc phải cán bộ hỏng sau này cứ phải đối phó mãi, hay cất nhắc những cán bộ còn non sinh ra tự kiêu, tự mãn. Nhưng cũng có khi hẹp hòi không chú ý đến cán bộ có triển vọng. Việc điều động, lựa chọn cán bộ đưa đi nơi khác thường lựa chọn không được cẩn thận và còn đầy rẫy đầu óc địa phương, như việc điều động cán bộ cho Trung ương và việc lựa chọn đưa thanh niên ra ngoài. Những thanh niên tốt làm việc được thì để ở địa phương còn những thanh niên kém thì đưa ra ngoài cho rảnh. Nhưng các đồng chí đã quên những thanh niên đó là cốt cán sau này. Đối với cán bộ kém hay có lỗi, chúng ta thường quen lối đối phó rồi bỏ lửng, cũng không nói rõ cho người ta biết để sửa chữa, có khi lại điều động đi một nơi khác cho xong chuyện để mặc cái vạ cho nơi khác, thành ra cán bộ đã hỏng lại hỏng thêm. Chúng ta không bao giờ cố gắng và theo dõi cán bộ. Về trình độ cán bộ nói chung tiến bộ khá mau. Phần nhiều cán bộ cấp tỉnh và ở cấp đại đội tiến mau hơn. Một số cán bộ tiểu tư sản trí thức tiến mau thường tự cao, tự mãn. Một số cán bộ cũ ở khắp nơi dần dần bị đào thải vì kém, có cán bộ đã khóc lên vì không theo kịp phong trào, thế mà chúng ta chưa thực chú ý đến sự giáo dục cho cán bộ cũ. Xem báo cáo của các khu đều thấy sức khoẻ của cán bộ phần đông bị sút kém; nhiều người đau tim và lao. Sự chǎm nom cán bộ nhiều nơi chưa được thực chú ý. Cǎn cứ vào tình hình cán bộ ở trên, chúng ta phải: 1. Khu 3 phải điều động một số cán bộ huyện uỷ viên cho Khu 1, Khu 10, Khu 4 phải điều động một số cán bộ cho miền Nam Trung Bộ và Lào. Trung ương Quân uỷ lấy một số cán bộ quân sự cấp đại đội, trung đội cho Nam Bộ và Lào, Miên. 2. Các khu phải thống kê rõ số cán bộ trong khu (các cấp đảng bộ các ngành chuyên môn, quân sự, chính quyền, các ban chuyên môn của các cấp uỷ, các cán bộ chuyên nghiệp, ban chuyên nghiệp). Nơi nào thừa nơi nào thiếu phải nói rõ. 3. Việc làm lý lịch phải tiến tới thực hiện khắp các khu. Bộ tổ chức sẽ làm lại mẫu lý lịch cho chi tiết và thích hợp hơn. 4. Phải thực hiện khẩu hiện chuyên môn hoá cán bộ và bắt cán bộ phải học tập chuyên môn. 5. Việc cất nhắc cán bộ cần phải thận trọng; không hiểu rõ cán bộ thì không cất nhắc và đồng thời tránh bệnh hẹp hòi. Trong bộ đội phải chú ý đến cấp đại đội vì sự trưởng thành khá mau. 6. Không được dùng cán bộ theo lối đối phó mà phải sửa chữa cho mọi người. 7. Tiếp tục đưa cán bộ ra ngoài học và phải lựa chọn rất cẩn thận. Đả phá địa phương chủ nghĩa trong việc điều động cán bộ. 8. Điều động cán bộ chính quyền, quân đội phải theo đúng thủ tục của chính quyền (không được điều động trước khi có nghị định của chính quyền). 9. Muốn cho cơ sở đảng vững mạnh phải đào tạo cán bộ địa phương và quần chúng (Khu 3 có đến 500 cán bộ quần chúng). 10. Những cán bộ cũ chúng ta phải mở trường huấn luyện cả chính trị lẫn vǎn hoá, đặc biệt giúp đỡ và bắt anh em đó học tập. Cán bộ cũ vẫn là giường cột của phong trào vì đã lǎn lộn thử thách nhiều. 11. Cán bộ làm việc phải có giờ giấc, điều độ để giữ gìn sức khoẻ và phải tổ chức ra một Ban cứu tế như ở Liên khu 3, phụ thuộc vào Ban tổ chức để sǎn sóc cho cán bộ. VIII - Tại sao Đảng chưa ra công khai Từ khi Đảng vào bí mật, nhiều đồng chí vẫn bǎn khoǎn và đề nghị đưa Đảng ra công khai, hơn nữa sự tuyên truyền trong Đảng nhiều khi lung tung, giấu đầu hở đuôi, những bài báo, những chỉ thị, nghị quyết nội dung ai xem cũng biết là của Đảng, nhưng lại đeo tên Cứu quốc hội. Nhiều nơi trong lúc tuyên truyền chủ nghĩa lại không dám nói đến Đảng, đưa cuốn điều lệ cho người ta xem lại nói là nhặt được. Việc giữ gìn quá bí mật như vậy làm cho ảnh hưởng Đảng không được lan rộng. Nhưng tại sao Đảng vẫn chưa ra công khai hoạt động: 1. Vì tình thế bên ngoài, bọn phản động quốc tế hiện đang tập trung mũi nhọn chống cộng sản, nếu mình tuyên bố công khai thành lập Đảng chỉ thêm sự chú ý của chúng và chúng sẽ có cớ tìm cách chia rẽ nội tình của ta. 2. Bên trong các tầng lớp nhân dân đang đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, nếu Đảng ra công khai hoạt động, làm cho một phần tầng lớp tư sản, địa chủ, công giáo hiện nay đã sẵn có hoài nghi đến bây giờ sẽ hoang mang và bọn phản động cũng thừa cơ thọc gậy bánh xe, phá sự đoàn kết. Chỉ đến khi nào hoàn cảnh trong ngoài xét ra có lợi, lúc đó Đảng sẽ ra công khai cũng không muộn. Nhưng Đảng chưa ra công khai thì sự tuyên truyền Đảng lúc này phải như thế nào? 1. Hằng ngày phải tuyên truyền trong quảng đại quần chúng bằng miệng hay trong các cuộc mít tinh của Đảng có quần chúng cảm tình tham dự, phải nói rõ đảng cộng sản vẫn còn tồn tại, hoạt động. 2. Sách báo, chỉ thị, nghị quyết lưu hành trong nội bộ không lấy tên là Cứu quốc hội nữa mà đề là sách báo, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. 3. Nhân dịp các cuộc hội họp quần chúng công khai, những đồng chí đã lộ mặt là cộng sản hay lấy danh nghĩa là hội viên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác, đứng ra tuyên truyền gây ảnh hưởng cho Đảng. 4. Phải chấn chỉnh lại các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác ở khắp nơi để gây ảnh hưởng rộng rãi cho Đảng. Chú ý: Trong các vùng công giáo và những vùng có những địa chủ, tư sản lừng chừng không nên tuyên truyền một cách quá trớn. Trong khi tuyên truyền vẫn phải đứng trên lập trường Mặt trận thống nhất dân tộc. IX - Tiến tới thành lập một Uỷ ban liên lạc của các đảng Đông á Từ ngày Đệ tam Quốc tế giải tán, nhiệm vụ lãnh đạo công cuộc cách mạng ở Đông Nam á châu hoàn toàn do các đảng tự đảm nhiệm lấy cũng như ở các nước trên thế giới. Sau khi phát xít Nhật bị tiêu diệt, phong trào cách mạng đã thắng lợi ở nhiều nơi như Trung Hoa, Việt Nam, một phần lớn nước Triều Tiên và đang tiến triển ở nhiều nước khác. Vị trí đế quốc chủ nghĩa cũng có sự thay đổi lớn. Đế quốc chủ nghĩa Anh, Pháp, đã sút kém nhiều ở Đông Nam á châu, tất cả các đặc quyền, đặc lợi hầu hết đã thu vào tay đế quốc Mỹ. Trước phong trào cách mạng càng ngày càng rộng lớn, Mỹ và các đế quốc phụ thuộc cùng bọn phản động các nước tuy có mâu thuẫn bên trong nhưng vì quyền lợi chung chúng đã cố kết với nhau để đàn áp cách mạng, nhất là cộng sản. Cách mạng các nước Đông á tuy kẻ thù trực tiếp có khác nhau, nhưng kẻ thù gián tiếp và nguy hiểm nhất vẫn cũng giống nhau. Trung Quốc: kẻ thù trực tiếp là Tưởng, kẻ thù gián tiếp là Mỹ. Nam Dương: kẻ thù trực tiếp là Hà Lan, kẻ thù gián tiếp là Mỹ. Đông Dương: kẻ thù trực tiếp là Pháp, kẻ thù gián tiếp là Mỹ. Quan hệ quân sự, địa dư, kinh tế hay nói chung là quan hệ cách mạng giữa các nước Đông á cũng rất là mật thiết Cách mạng Trung Quốc và Đông Dương thành công có tác dụng đẩy mạnh phong trào Diến Điện, Mã Lai, Nam Dương, Triều Tiên, ấn Độ, Nhật Bản tiến tới. Công cuộc cách mạng á châu hiện giờ phần lớn do các đảng cộng sản lãnh đạo hoặc chiếm vai trò trọng yếu. Thế mà giữa các đảng anh em đó thiếu một sự liên lạc, cộng tác mật thiết. Các đảng cộng sản Âu châu đã trưởng thành hơn, ở gần Nga, thế mà trước đây vì thiếu liên lạc giúp đỡ lẫn nhau nên đã xảy ra việc Đảng Nam Tư đi đến chỗ sai lầm khó chữa. Các đảng Đông á phần nhiều còn non nớt, thiếu sự cộng tác giúp đỡ lẫn nhau làm sao tránh khỏi những sai lầm được. Đảng Diến Điện chia rẽ nhiều phe chống lại nhau và bị đế quốc đương âm mưu phá hoại, Đảng Mã Lai vì sự phản bội của một lãnh tụ đã kìm hãm phong trào không tiến. Đảng Xiêm lại càng ở tình trạng ấu trĩ , v.v.. Những lý do trên đây đặt chúng ta trước một nhiệm vụ khẩn cấp là phải thành lập một uỷ ban liên lạc giữa các đảng Đông á để: 1. Thống nhất chủ trương, kế hoạch đối với kẻ thù trực tiếp của nước mình và phản động quốc tế. 2. Cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, thống nhất tư tưởng, hành động trong cuộc chiến đấu giải phóng chống kẻ thù chung. Hiện nay Trung ương đã phái ra ngoài một ban Cán sự để liên lạc và cùng các đảng bạn đi tới tổ chức trên. Các công việc đương tiến hành và có nhiều triển vọng khả quan. Thưa các đồng chí, Trên đây là những nhiệm vụ cần kíp, các đồng chí hãy thảo luận và bổ khuyết cho đầy đủ. Nhìn chung tình hình toàn Đảng, tuy còn nhiều khuyết điểm, nhưng thật ra Đảng ta đã được rèn luyện lớn mạnh trong máu lửa chiến tranh. Bao nhiêu đồng chí đã chết đi để làm tươi ngọn cờ của Đảng. Bao nhiêu lớp đồng chí khác xông tới quyết lấy máu diệt thù. Hàng ngũ của Đảng ngày càng đông đảo siết chặt, Đảng ta đã xứng đáng là một trong những đảng mạnh nhất trên thế giới và Đảng đóng một vai trò quyết định trong cuộc kháng chiến hiện nay. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch vị lãnh tụ tối cao và đồng chí Trường Chinh, các đồng chí hãy đoàn kết nhất trí, vượt mọi khó khǎn trong giai đoạn sắp tới, không tiếc một giọt mồ hôi, một giọt máu, nguyện sống chết với quân thù để hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Vǎn kiện Đảng 1946-1948, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1979, t. II, q. I, tr. 398-441. * Báo cáo tại Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ V từ ngày 8 đến ngày 16 tháng 8 nǎm 1948 do đồng chí Lê Đức Thọ đọc (B.T).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTamp236nh hamp236nh vamp224 nhi7879m v7909 m7899i c7911a 2727843ng.doc
Tài liệu liên quan