Tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định quản lý hành chính nhà nước

Trong quản lý kinh tế việc vận dụng các quy luật là rất khó khăn và phức tạp, vì thế mà những hành vi trái pháp lụât sẽ gây ra những hậu quả xấu. Việc phát hiện và nắm được các quy luật trong quản lý kinh tế và biến thành những nguyên tắc trong quản lý kinh tế là việc làm cần thiết, bởi nó tạo ra một khuôn khổ cho người quản lý. Hoạt động quản lý mang tính nghệ thuật nhưng nghệ thuật đó không phải là chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo các quy luật kinh tế, quy luật xã hội và cả quy luật tâm lý. Các tình huống nêu ra trong bài viết là rất thường gặp trong thực tiễn hoạt động quản lý ở nước ta, để giải quyết chúng cần có nhãn quan tổng quát, kết hợp nguyên tắc và nghệ thuật mới có được những lời giải đáp phù hợp, tránh những thiệt hại không đáng có và tạo niềm tin cho tổ chức.

doc18 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Phần mở bài…………………………………………………………………..3 Phần nội dung………………………………………………………………...4 Bài tập tình huống 1: Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi “ quyết định miệng ”?....………………………………………………………4 I. Lí luận:………………………………………………………………………5 1. Quyết định quản lý………………………………………………………….5 2. Các hình thức của quyết định quản lý………………………………………5 2. 1. Hình thức phi văn bản…………………………………………………....6 2. 2. Hình thức văn bản………………………………………………………..6 II. Các phương án trả lời……………………………………………………….7 1. Phương án 1: “ Ông A phải chịu trách nhiệm chính ”.....…………………...7 2. Phương án 2:” Anh B không nên nhận công việc này ”…………………...10 3. Phương án 3: “ Cả ông A và anh B đều phải có trách nhiệm bồi hoàn…”...11 4. Phương án 4: Ông A phải chịu hoàn trách nhiệm dân sự và hành chính…..12 Bài tập tình huống 2: tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định quản lý hành chính nhà nước…………………………………………………………14 I. Lý luận:…………………………………………………………………….14 1. Khái niệm về cán bộ quản lý kinh tế………………………………………14 2. Đánh giá cán bộ quản lý kinh tế…………………………………………..14 II. các phương án trả lời :……………………………………………………15 1. Phương án 1: Ông Nguyễn Văn T không nên có hành vi như vậy………...15 2. phương án 2: quyết định số 13/QĐ- UB của Chủ tịch UBND là một quyết định không hợp tình và hợp lý………………………………………………..16 Phần kết luận……………………………………………………………..…17 Danh mục các tài liệu tham khảo……………………………………...…......18 Phần mở bài Trên thực tiễn nước ta có rất nhiều bất cập, sai sót vẫn thường xảy ra trong hoạt động quản lý kinh tế mà chưa có một quy định nào về nhiệm vụ và nghĩa vụ để xử lý những hiện tượng “ vô tình” hiểu sai các qui định trong pháp luật, lợi dụng chức quyền để đưa ra những quyết định chưa hợp lý, chưa thoả đáng… gây nên thiệt hại hay tiếng xấu cho nhà nước. Việc tìm ra giải pháp để từ đó biến thành qui định chung, để giải quyết hợp lý những tình huống trên là vấn đề cần thiết. Có làm được như vậy thì mới hạn chế được tệ nạn tham nhũng, tệ nạn của quyền tránh những thiệt hại cho nhà nước. Đồng thời đưa ra những giải pháp như vậy là cơ sở để bảo vệ cho những quyết định đúng đắn, lựa chọn những cán bộ có tài, có đức cho đất nước. PHầN NộI DUNG Bài tập tình huống 1: Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi “ quyết định miệng ”? Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi quyết định miệng, Nguyễn Viết Sâm, tạp chí Quản lý Nhà nước, số 123, tháng 4 năm 2006. Tại cơ quan X, văn phòng là đơn vị trực tiếp phụ trách phòng tài vụ, nhà ăn và đội xe. Đội xe quản lí và sử dụng 6 chiếc xe các loại( 1 xe tải nặng, 2 chiếc xe khách 24 chỗ và 36 chỗ ngồi, 2 chiếc 4 chỗ và 1 xe U-oát ). Với 6 lái xe, được phân công lái những chiếc xe phù hợp với hạng bằng lái của từng người, đội xe luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao và chưa để xảy ra tai nạn hay bất cứ sai sót nào. Ngày 25- 8- 2004, có hai lái xe được cử đi học lớp “ lái xe công cụ”, 3 loại xe khác, 3 lái xe khác được điều đi công tác xa, chỉ còn anh Nguyễn Văn B được phân công lái chiếc xe 4 chỗ ngồi hiệu TOYOTA là phải trực ở cơ quan. Hôm đó, cơ quan phải chuyển một số bàn ghế mới mua nên cần sử dụng chiếc xe tải đi để chuyên chở, vì vậy ông Phạm Đình A là chánh văn phòng cơ quan đã điều động anh B đi làm nhiệm vụ( quyết định miệng). Khi được giao nhiệm vụ anh B đã xin phép ông A được từ chối không thực hiện nhiệm vụ trên vì anh B không có bằng lái xe tải, không lái xe quen nên không yên tâm. Tuy nhiên, ông A khăng khăng khẳng định rằng anh B có thể làm được, việc viện ra không có bằng lái xe chỉ là hình thức anh B trốn việc mà thôi. Ông A một mực yêu cầu anh B: “ chú phải đi nếu không lỡ hết công việc của tôi! Nếu có vấn đề gì xảy ra tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Mặc dù vậy, anh B vẫn từ chối thi hành nhiệm vụ và xin được báo cáo yêu cầu trên đến giám đốc cơ quan, nhưng ông A nói chắc chắn rằng sẽ báo cáo sự việc sau với giám đốc vì giám đốc đang bận chủ trì một cuộc họp quan trọng. Trước tình thế đó, anh B đành chấp nhận đưa xe đi làm nhiệm vụ nhưng vẫn yêu cầu với ông A rằng: “ Tôi sẽ không chịu trách nhiệm nếu có vấn đề gì xảy ra!”. Ông A nghe nhưng không nói gì thêm. Thật không may là chiếc xe vừa rời cổng cơ quan được khoảng 500 m, do lái xe không quen xe, không được kiểm tra tình trạng của xe trước( phanh không ăn và còi xe không có), do vậy anh B không làm chủ được và đã va quệt vào một chiếc xe khác chạy cùng chiều khi chiếc xe này chạy vượt lên làm chiếc xe do anh B điều khiển bị hư hỏng phần đuôi xe khá nặng. Chiếc xe kia cũng bị hư hỏng ở phần hông, chủ xe được yêu cầu được bồi thường 2 triệu đồng. Chi phí để sửa chữa chiếc xe tải do anh B lái mất 5 triệu đồng. Trước tình thế như vậy, phòng chi phí tài vụ cơ quan X phải tạm thanh toán toàn bộ chi phí nói trên. Đến ngày 6- 10 – 2004, tại cuộc họp giao ban của văn phòng cơ quan X, mọi người đã đưa ra ý kiến về vụ việc của anh B và đã quyết định anh B phải chịu một phần bồi thường thiệt hại về tài sản do không hoàn thành nhiệm vụ và để xảy ra về thiệt hại tài sản cho cơ quan( khoản tiền này phòng tài vụ sẽ trừ vào tiền lương hàng tháng). Anh B không đồng ý với quyết định đó, đã làm bản tường trình toàn bộ sự việc với đề nghị giám đốc cơ quan X giải quyết. Nhưng đến nay, đã hơn một năm trôi qua chưa có một quyết định nào của giám đốc cơ quan X về trách nhiệm hành chính và trách nhiệm dân sự của ông A và anh B. Ông A vẫn khẳng định rằng, ông chỉ phải chịu trách nhiệm trước giám đốc vì đã điều hành lái xe không đúng chuyên môn còn anh B phải chịu một phần bồi thường thiệt hại về tài sản( cơ quan hỗ trợ chi trả một phần). Ông A cũng cho rằng, anh B cố tình chống đối việc giao nhiệm vụ của ông đối anh ngày hôm đó nên mới xảy ra tai nạn như vậy. Sự việc đang gây ra dư luận không tốt trong nội bộ cơ quan X, có rằng cho rằng nhất thiết khi cấp nhận nhiệm vụ thì nhiệm vụ đó phải giao bằng văn bản trong đó phải ghi rõ quyền hạn và nghĩa vụ của người thực thi nhiệm vụ để tránh tình trạng cấp trên đùn đẩy trách nhiệm cho cấp dưới khi có vấn đề không hay xảy ra. Những mệnh lệnh bằng miệng không thể đáng tin được, cho dù đó là mệnh lệnh của cấp trên. Một số cán bộ trong cơ quan X đề nghị giám đốc cơ quan X chỉ họp rút kinh nghiệm trong nội bộ cơ quan, họ cho rằng tiền thiệt hại thì đã do cơ quan chi trả rồi nên không cần truy cứu nữa. Vụ việc vẫn chưa có cách giải quyết thoả đáng và mỗi người một ý kiến. A- Câu hỏi: Bạn hãy đưa ra cách giải quyết của bạn? Trả lời: I. Lí luận: Xem: Giáo trình Khoa học Quản lý I, NXB Khoa học kỹ thuật, trang 271 - 281 1. Quyết định quản lý. Quyết định quản lí là những hành vi sáng tạo của chủ thể quản lý nhằm định ra mục tiêu, chương trình và hoạt động của tổ chức để giải quyết một vấn đề đã chín muồi trên cơ sở giải quyết hiểu biết các qui luật vận động khách quan và phân tích thông tin về tổ chức và môi trường. Mục đích của một quyết định là giải quyết một vấn đề nhất định tồn tại trong tổ chức về các vấn đề như cơ cấu tổ chức, cán bộ, công chức,… 2. Các hình thức của quyết định quản lý. 2 .1. Hình thức phi văn bản. Hình thức này thường biểu hiện bằng các hình thức như : miệng, các cử chỉ riêng, các ký hiệu…. Đó là tập hợp tất cả các tín hiệu ngoài văn bản. Hình thức này thường áp dụng trong trường hợp quyết định có tính hạn hẹp, được sử dụng một lần, giải quyết một tình huống trước mắt, tức thời, tính trách nhiệm của người đưa ra quyết định không cao . 2. 2. Hình thức văn bản. Đây là hình thức chủ yếu trong quản lý. Lúc đó quyết định sẽ được trình bày dưới dạng một văn bản . Văn bản quyết định là cơ sở để vạch ra kế hoạch, tổ chức thực thi kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát việc thực thi kế hoạch.Văn bản vừa là sản phẩm quyết định quản lý vừa là phương tiện truyền tin, tổ chức và thực hiện, là căn cứ pháp lý để xử lý những vi phạm đối với những cá nhân có trách nhiệm . Trong một cơ quan, tổ chức ngoài hệ thống quản lý của nhà nước còn có hệ thống văn bản riêng tổ chức đó. Các văn bản của tổ chức ban hành trong tổ chức và không trái với các văn bản quản lý Nhà nước. Tóm lại hình thức văn bản của các quyết định có vai trò quan trọng trong quản lý: - Là phương tiện để truyền đạt chính xác, đầy đủ nội dung của các quyết định quản lý. - Là phương tiện để lưu trữ và sử dụng quyết định thuận lợi. - Là phương tiện để kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức. - Là phương tịên để xác định trách nhiệm của người đưa ra quyết định. II. Các phương án trả lời 1. Phương án 1: “ Ông A phải chịu trách nhiệm chính ” Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi quyết định miệng, Trần Diệu Oanh, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 124 tháng 5 năm 2006. Xe ô tô là một trong những phương tiện cơ giới có mối nguy hiểm cao độ, đòi hỏi việc quản lý, sử dụng, vận hành phải luôn tuân theo các quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường bộ. Anh B là người ý thức rất rõ điều đó và cũng đã xin từ chối thi hành nhiệm vụ vì xét thấy mình đủ tự tin cũng như trình độ chuyên môn( không có bằng xe tải). Tuy nhiên, ông A là chánh văn phòng cơ quan đã yêu cầu anh B phải chấp hành công việc được giao dưới hình thức bắt buộc cũng như thuyết phục để anh B phải chấp hành nhiệm vụ ngay lúc đó. Việc ý thức được hậu quả xấu có thể xảy ra, nhưng ông A vẫn quyết tâm thực hiện mục đích đến cùng là yêu cầu anh B phải chấp hành mệnh lệnh của mình. Do vậy, ông A phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc giao nhiệm vụ không đúng chuyên môn, không chấp hành quy tắc về an toàn giao thông theo quy định của pháp luật. Về phía anh B, mặc dù là người là người trực tiếp gây ra thiệt hại ở trong tình thế và vị trí khó xử nhưng theo chúng tôi, anh B vẫn có quyền từ chối đến cùng để bảo đảm an tuyệt đối cho tính mạng của chính mình vì anh B cũng đã tiên liệu được trước điều gì có thể xảy ra. Hơn nữa, anh B cũng là người cẩu thả vì đã không kiểm tra tình trạng của xe trước khi vận hành. Nếu trước khi thực hiện nhiệm vụ, anh B kiểm tra đầy đủ, cẩn thận và thông báo những trục trặc cho ông A thì đương nhiên khi có sự cố xẩy ra ông A là người hoàn toàn chịu trách nhiệm mà không cần xét đến lỗi của anh B. Anh B phải bị khiển trách vì không tuân thủ pháp luật về đảm bảo an toàn giao thông. Theo chúng tôi, ở tình huống này, do thiệt hại không lớn và đã được cơ quan khắc phục hậu quả nên trong nội bộ cơ quan chỉ nên đưa ra họp rút kinh nghiệm. Trách nhiệm dân sự không nhất thiết phải đặt ra đối với cả ông A và anh B. Tuy nhiên, sự việc này khiến chúng ta phải nghiêm túc bàn đến trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm của người quản lý( người có chức có quyền) thì không phải ai cũng phải chiụ trách nhiệm. Những công dân bình thường, không nắm giữ trách nhiệm gì thì không phải chịu trách nhiệm này. Về mặt pháp lý, trong hoạt động quản lý, mệnh lệnh miệng của thủ trưởng cơ quan là hoạt động quản lý có tính chất bắt buộc thi hành đối với cấp dưới. Đồng thời người ban hành mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của quyết định do mình đưa ra. Khi có mệnh lệnh của cấp trên( ông A) được truyền đạt cho cấp dưới( anh B) mà làm hỏng việc, gây ra hậu quả thì rõ ràng ông A phải chịu trách nhiệm, ít nhất là trách nhiệm của người quản lý. Trong thực tế, thường thì cán bộ cấp dưới vốn rất máy móc, nếu đã có ý kiến của cấp trên dù có phân vân thì họ vẫn làm. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần thiết phải hạn chế tối đa kiểu giao việc bằng miệng như hiện nay một số cán bộ làm công tác quản lý vẫn thường làm. Mọi chỉ thị phải có những hình thức, quy định rõ ràng để thể hiện mệnh lệnh, bên cạnh đó là quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. Do vậy, cơ quan X cũng cần phải có những nội quy, quy chế chặt chẽ hơn để có cơ sở giải quyết thoả đáng hơn khi xảy ra các tình huống tương tự. Việc rút kinh nghiệm đối với tình huống này là bài học cần thiết trong các cơ quan, đặc biệt là cán bộ làm công tác quản lý. Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, tình huống “ Nên giải quyết như thế nào khi có tranh chấp xảy ra bởi quyết định miệng? ”, có một số vấn đề trong quan hệ hành chính giữa cán bộ cấp trên đối với cán bộ cấp dưới cần phải xem xét như sau: - Trong trường hợp lãnh đạo phân công công việc khác ngoài chức năng, nhiệm vụ, người lãnh đạo đó phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc mà mình được giao, phải đảm bảo được tính an toàn và hiệu quả cho người thực hiện cũng như hiệu quả đối với công việc, phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan, cần phải tính đến đặc thù của từng công việc cụ thể, phải xét đến khả năng của người thực hiện như về trình độ, năng lực…. Nếu là công việc đột xuất, kiêm nhiệm, không thường xuyên thì có thể truyền đạt miệng, không nhất thiết bằng văn bản. - Trường hợp nếu công việc thường xuyên, trong một khoảng thời gian dài, nhất định thì phải có quyết định giao việc bằng văn bản vì có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của các bên. Khi giao việc, người lãnh đạo cần phải tiên lượng trước được khả năng hoàn thành nhiệm vụ để tính đến quyền người thực hiện, đồng thời cũng phải tiên lượng được cả những hậu quả có thể xảy ra để xét đến nghĩa vụ của người thực hịên. 2. Phương án 2:” Anh B không nên nhận công việc này ”. Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi quyết định miệng, Lê Hùng, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 124, tháng 5 năm 2006 Đối với tình huống “ Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi quyết định miệng? ”nếu việc điều động anh B đi làm nhiệm vụ tuân theo quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan thì anh B, do lỗi của mình gây ra có thiệt hại cho cá nhân khác, anh B sẽ phải bồi thường. Đối với trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại điều 618 Bộ luật Dân sự năm 2005 về việc bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân quy định: “ Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; Nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo pháp luật quy định”. Trong tình huống này, việc pháp nhân phải bồi thường trước để đảm bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời nhằm khắc phục ngay những thiệt hại do người của pháp nhân gây ra là đúng. Chính vì vậy, chi phí để sửa chiếc xe tải do anh B lái mất 5 triệu đồng và tiền bồi thường thiệt hại là 2 triệu đồng trước tiên do cơ quan X thanh toán. Xét đến trách nhiệm của các bên trong tình hống này, nếu đúng theo quy định của pháp luật, anh B sẽ phải hoàn trả lại khoản tiền này cho cơ quan vì anh B đã không hoàn thành nhiệm vụ, gây thiệt hại cho tài sản của cơ quan. Vấn đề cần bàn luận là quyết định giao nhiệm vụ cho anh B đã đúng hay chưa, cần phải yêu cầu anh B bồi thường thiệt hại hay khiển trách, kỷ luật ông A - chánh văn phòng cơ quan đã điều động công việc không đúng chuyên môn dẫn đến gây thiệt hại cho cơ quan( thực tế thiệt hại ở đây là không lớn, tổng thiệt hại 7 triệu đồng) cho nên vấn đề đáng bàn là quy trách nhiệm cho ai? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sự cố xảy ra khi quyết điịnh bằng miệng trên được thực hiện? Tại Điều 7, Điều 8 Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 đã được sửa đổi và bổ sung năm 2000 và năm 2003 quy định: “ Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình; cán bộ, công chức giữ chức cụ lãnh đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ công chức thuộc quyền theo quy định của pháp luật.”. “ Cán bộ, công chức phải chấp hành quyết định của cấp trên khi có căn cứ để cho là quyết định đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra quyết định, trong trường hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì phải báo cáo với cấp trên trực tiếp của người ra quyết định và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.” Khi ông A giao nhiệm vụ cho anh B( bằng miệng), anh B đã trình bày với ông A là anh không có bằng lái xe tải và cũng không quen lái xe tải nên sợ rằng không thực hiện được nhiệm vụ do cấp trên giao. Nhưng ông A vẫn yêu cầu anh B thực hiện công viêc và nói rằng nếu có vấn đề gì xảy ra thì ông A sẽ là người hoàn toàn chịu trách nhiệm. Mặc dù vậy, anh B vẫn yêu cầu báo cáo lên cấp trên trực tiếp là Giám đốc cơ quan nhưng do trở ngại khách quan là Giám đốc đang bận chủ trì cuộc họp quan trọng nên anh B không thể báo cáo được và vẫn thực hiện nhiệm vụ do ông A giao và dẫn đến sự cố đáng tiếc như trên. Như vậy, trong tình huống này ai là người chịu trách nhiệm: - Trong những trường hợp khác như không gây nguy hiểm đến tính mạng con người, thì tuân theo quy định pháp luật, cán bộ, công chức phải thực hiện công việc do cấp trên giao, nếu thấy công việc đó sai trái thì phải báo cáo với người ra quyết định và không phải chịu trách nhiệm với hậu quả xảy ra. Anh B đã từ chối không thực hiện nhiệm vụ và yêu cầu báo cáo lên giám đốc là đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Nhưng đối với lái xe, tính mạng con người và tài sản trên xe là rất quan trọng nên khi được giao nhiệm vụ mà mình không thể thực hiện được và biết trước nếu thực hiện thì sẽ gây ra những thiệt hại xấu thì theo chúng tôi anh B cũng không nên nhận công việc này, kể cả việc ông A ra quyết định bằng văn bản bắt buộc anh B phải lái xe tải để thực hiện công việc được giao. - Còn ông A – Chánh văn phòng của cơ quan phải chịu trách nhiệm vì đã điều động lái xe không đúng chuyên môn. Ông A buộc phải thấy trước những khả năng có thể xảy ra do việc điều hành công việc sai trái của mình vì lái xe không quen hoặc không có khả năng lái xe tải, nếu cố tình buộc anh B thực hiện nhiệm vụ thì có thể xảy ra tai nạn thiệt hại đến tính mạng con ngươì và tài sản lớn. Trong trường hợp này vì thiệt hại gây ra không lớn, nên có thể buộc ông A chịu trách nhiệm dân sự ( thanh toán thiệt hại cho cơ quan) và trách nhiệm hành chính( giao nhiệm vụ không đúng chuyên môn dẫn đến thiệt hại xảy ra) và anh B cũng phải chịu khiển trách trước cơ quan. Giả sử trong trường hợp thiệt hại gây ra có giá trị lớn và đến cả tính mạng con người thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm người ra quyết định miệng hay người thực hiện quyết định đó vì nếu là quyết định miệng sẽ không có bằng chứng và không thể quy trách nhiệm cho người ra quyết định được, còn người thực hiện sẽ phải thực hiện theo quyết định của cấp trên chỉ thị xuống và nếu không thực hiện thì vấn đề gì sẽ xảy ra…? 3. Phương án 3:” Cả ông A và anh B đều phải có trách nhiệm bồi hoàn…”. Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi quyết định miệng, Bùi Quỳnh, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 124 tháng 5 năm 2006. Tình huống đặt ra là ai phải có trách nhiệm và trách nhiệm đó đến đâu? Vậy, khi xem xét cần phải xác định được lỗi của các bên và đây là yếu tố quan trọng để xem xét mức độ của từng người phải bồi hoàn bao nhiêu, có trách nhiệm như thế nào cho hợp tình, hợp lý. ở đây, quan hệ giữa ông A và anh B được hiểu là mối quan hệ giữa người quản lý lao động và người lao động hay giữa cấp trên đối với cấp dưới. Do vậy, khi ông A giao nhiệm vụ và nếu nhiệm vụ nay ở trong tình thế cấp thiết thì buộc anh B phải thực hiện và thực hiện ngay. Chúng tôi cho rằng, trong mối quan hệ giữa lãnh đạo cấp trên đối với cán bộ cấp dưới, không phải trong trường hợp nào khi cấp trên giao nhiệm vụ cũng cần phải có văn bản giao việc. ông A có thể thường xuyên giao việc( bằng mệnh lệnh miệng) cho anh B vẫn được và trong tình huống này được coi là sự phân công công việc đơn thuần. Anh B thực hiện công việc được giao xem như là thực hiện công việc công việc theo yêu cầu của người quản lý lao động. Tuy nhiên, vấn đề chúng tôi muốn trao đổi ở đây, đó là anh B phải thực hiện nhiệm vụ không cấp thiết trong tình thế bắt buộc thì với vị trí, vai trò của mình, ông A khi điều nhân viên đi làm nhiệm vụ không đúng chuyên môn( không có bằng lái xe tải) đã không lường trước được hậu quả nguy hiểm nên xảy ra tai nạn không đáng có. Lỗi này trước hết thuộc về ông A. Đối với anh B không có bằng lái xe tải nhưng vẫn thi hành nhiệm vụ được giao chính là hành vi vi phạm pháp luật về Luật giao thông đường bộ. Vụ việc này đã được giải quyết, khắc phục hậu quả theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự. Theo đó, cơ quan của ông A và anh B đang công tác đã phải chịu trách nhiệm bồi hoàn về vật chất để đảm bảo nguyên tắc kip thời khắc phục ngay những thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo quy định tại Điều 618 Bộ luật Dân sự năm 2005. vấn đề còn lại là ai sẽ phải có trách nhiệm hoàn trả cho cơ quan số tiền đã gây thiệt hại( 7 triệu đồng) mà cơ quan đã phả tạm thời chi trả? Theo chúng tôi, cả ông A và anh B đều phải có trách nhiệm hoàn trả đối với khoản tiền này. tuy nhiên cũng cần căn cứ vào quy chế, Điều lệ hoạt động của cơ quan mà ông A và anh B công tác để biết quyền và nghĩa vụ của các bên đến đâu. đây cũng chính là cơ sở để xác định trách nhiệm của ông A và anh B đối với cơ quan về cả trách nhiệm hành chínhcũng như trách nhiệm dân sự trong vụ việc trên. để giải quyết đối với tình huống này, cần căn cứ trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại; quy định của Bộ luật Lao động nếu là quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động; Pháp lệnh cán bộ, công chức nếu ông A và anh B là cán bộ, công chức và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. 4. Phương án 4: Ông A phải chịu hoàn trách nhiệm dân sự và hành chính việc ông A đơn phương ra quyết định và buộc cấp dưới phải chấp hành là một đặc trưng của quyết định hành chính, việc giao nhiệm vụ như vậy có thể nhằm đảm bảo tính thống nhất, tập trung và hiệu quả của công việc. Quyết định hành chính có thể bằng văn bản và cũng có thể bằng miệng nhưng đều có hiệu lực bắt buộc chấp hành nếu quyết định đo phù hợp, không trái với pháp luật và các nguyên tắc quản lý hành chính. Tuy nhiên, phải hạn chế tối đa kiểu giao việc bằng miệng, mọi yêu cầu, chỉ thị nên có sự thể hiện bằng hình thức văn bản nhưng cũng không nên quá máy móc nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan cũng như tính hiệu quả, kịp thời theo đặc trưng của từng công việc cụ thể. chính vì vậy, việc ông A ra quyết định điều động anh B lái xe đi làm nhiệm vụ là đúng theo thẩm quyền, tuy nhiên, mệnh lệnh đó không đúng chuyên môn. do vậy, trước tiên lỗi thuộc về ông A và ông A không thể biện minh rằng mình không biết đó là quyết định trái luật vì anh B đã báo cáo là bằng lái xe của mình không phù hợp với việc điều động và từ chối được thi hành nhiệm vụ. Theo tôi, ông A là người có lỗi hoàn toàn bởi vì rõ ràng đây không phải là tình thế cấp thiết để buộc anh B phải thực hiện ngay nhiệm vụ. ông A có thể chờ để báo cáo sự việc với giám đốc cơ quan về hoàn cảnh của sự việc hoặc có cách giải quyết khác như thuê người lái hoặc thuê vận chuyển để đảm bảo an toàn tính mạng cho người và tài sản của cơ quan. Tuy nhiên, ông A đã không làm như vậy và cuối cùng hậu quả xấu đã xảy ra. Hành vi điều hành của ông A không chỉ thể hiện sự cẩu thả, thiếu trách nhiệm với nhân viên của mình mà còn bộc lộ tính độc đoán với cấp dưới tuỳ tiện trong công việc. đó là những thói quen xấu của các cán bộ làm quản lý điiêù hành ở một vài cơ quan. Là nhân viên anh B buộc phải có nghĩa vụ chấp hành mệnh lệnh của cấp trên. Tuy nhiên, nếu phát hiện ra mệnh lệnh của ông A không hợp pháp, anh B phải có trách nhiệm báo cáo lại với cán bộ cấp trên của người ra quyết định đó và kiên quyết từ chối thực hiện nhiệm vụ để tránh xảy ra hậu quả xấu. Nhưng trong hoàn cảnh này thì việc anh B thi hành nhịêm vụ là không thể tránh được và không có cách nào khác là tuân thủ pháp luật. Vịêc anh B chưa báo cáo với giám đốc cơ quan X thì vẫn có thể thông cảm cho anh vì ông A hứa là sẽ báo cáo lại với giám đốc giúp anh. Hơn nữa, trên thực tế không phải lúc nào công chức cấp dưới cũng có thể dễ dàng thực đúng quy định, phải báo cáo ngay lên cấp trên trực tiếp của người ra quyết định, vì nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn do cấp trên trực tiếp của người ra quyết định vắng mặt tại thời điểm quyết định được ban hành. Với lý do đó anh B không phải chịu trách nhiệm dân sự cũng như trách nhiệm hành chính của vụ việc này. Bài tập tình huống 2: tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định quản lý hành chính nhà nước Tính hợp lý và hợp pháp của một quyết định Quản lý Hành chính Nhà nước, Chu Xuân Khánh, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 128 tháng 9 năm 2006. Ông Nguyễn văn T được nhân dân và Hội đồng nhân dân( HĐND ) xã B tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân( UBND ) xã. Trong thời gian đảm trách công tác, với cương vị là người đứng đầu UBND xã, ông đã cùng với tập thể, cán bộ uỷ ban, lãnh đạo nhân dân thực hịên tốt chủ trương,chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. Bản thân Chủ tịch Nguyễn Văn T được nhân dân tín nhiệm và gia đình ông cũng được bình bầu là gia đình văn hoá tiêu biểu của xã. Vào tháng 9-2003, trong xã có dư luận quần chúng nhân dân xôn xao về việc UBND xã B có hiện tượng tham ô tiền đóng góp của dân. Nguyên nhân của dư luận không hay này là do Chủ tịch Nguyễn Văn T đã quyết định trích 20 triệu đồng mua xe máy làm xe công của xã trong tổng số 102 triệu đóng góp đợt đầu của nhân dân để bêtông hoá một số tuyến đường liên thôn. Trên tinh thần đấu tranh chống tiêu cực, UBND huyện H đã cử đoàn cán bộ xuống kiểm tra vụ việc kèm theo công văn yêu cầu UBND xã B làm rõ vụ việc trên. Ngày 23-9-2003, Chủ tịch UBND huyện đã triệu tập phiên họp toàn thể để xem xét vụ việc. Qua báo cáo của đoàn cán bộ huyện H xuống kiểm tra và báo cáo của UBND xã B cho biết tình hình cụ thể như sau: - Số tiền 20 triệu đồng mà Chủ tịch UBND xã Nguyễn Văn T dùng vào việc mua xe máy là tiền của nhân dân xã B đóng góp đợt đầu để bêtông hoá một số tuyến đường liên thôn trên cơ sở nhà nước và nhân dân cùng làm. - ngày 15-7-2003, Chủ tịch Nguyễn Văn T đã triệu tập cuộc họp UBND xã và đề nghị rút 20 triệu đồng từ nguồn đóng góp của nhân dân để mua xe máy với lí do: xã xa huyện, những lần đi họp trên huyện rất khó khăn, những kì họp giao ban của huyện gần đây nếu Chủ tịch bận là không ai chịu đi họp thay, các ban, nghành của xã cũng thường vắng trong những kì họp của ngành, do đó không nắm được tình hình, nhiều chủ trương, chính sách của huyện triển khai không kịp thời. Xe mua về để làm xe công, xã đã cử một người quản lý và có trách nhiệm đưa cán bộ đi họp. - quyết định của Chủ tịch UBND xã về việc mua xe máy đã được 5/7 người dự họp đồng ý. Qua phân tích nội dung vụ việc tại hội nghị, ngày 11- 10- 2003, UBND huyện H đã đi đến thống nhất và kết luận: Đình chỉ chức danh Chủ tịch UBND xã đối với ông Nguyễn Văn T để làm kiểm điểm. Ngày 14-10-2003, Chủ tịch UBND huyện ra quyết định số 13/QĐ- UB với nội dung như trên. ngày 20-10-2003, sau khi nhận quyết định, UBND xã B đã có cuộc họp bàn về vấn đề trên và mời Chủ tịch HĐND xã B tham dự. Sau cuộc họp, Chủ tịch HĐND xã B đã có công văn gửi các cơ quan của huyện với nội dung như sau: - Việc chi tiền mua xe công như vậy là trái với nguyên tắc quản lý tài chính, Chủ tịch Nguyễn Văn T đã nghiêm khắc tự kiểm điểm và hứa sẽ hoàn trả lại số tiền trên. - Ông T là cán bộ nhiệt tình, không tư lợi. Việc trích tiền mua xe máy cũng vì công việc chung. Trong thời gian vừa qua, ông T có nhiều thành tích trong công tác, vậy đề nghị Thường trực Huyện uỷ, Thường trực HĐND huyện, Thường trực UBND huyện xem xét lại Quyết định số 13. Ngày 25-10-2003, sau khi nhận được công văn đề nghị của Chủ tịch HĐND xã B, Chủ tịch UBND huyện đã triệu tập phiên họp toàn thể UBND, có đại diện củauThường trực HĐND và các ngành có liên quan. Tại phiên họp Thường trực HĐND và UBND huyện nhất trí để Thường trực HĐND huyện ra thông báo yêu cầu UBND xã và Chủ tịch HĐND xã B chấp hành Quyết định số 13/QĐ - UB của Chủ tịch UBND huyện. Ngày 02-11-2003, sau khi nhận được thông báo của Thường trực HĐND huyện, Chủ tịch HĐND xã B tiếp tục làm công văn lần thứ 2 gửi Thường trực Huyện uỷ, Thường trực HĐND và UBND huyện với nội dung : - Chủ tịch Nguyễn Văn T đã hoàn trả đủ số tiền 20 triệu cho xã. - Ông Nguyễn văn T vẫn được đông đảo nhân dân trong xã tín nhiệm và đủ năng lực để làm việc. Đề nghị Thường trực Huyện uỷ,thường trực HĐND và UBND huyện xem xét lại một lần nữa. Ngày 05-11-2003, Thường trực HĐND đã họp, xem xét lại tình hình sau khi nhận được báo cáo của HĐND xã và có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND huyện thu hồi Quyết định số 13 nhưng không được sự đồng thuận của UBND huyện. Cũng thời điểm này, văn phòng huyện uỷ nhận được công văn lần thứ hai của Chủ tịch HĐND xã B đề nghị xem xét lại Quyết định số 13/QĐ-UB và văn bản của Thường trực HĐND huyện đề nghị thu hồi Quyết định số 13. Trước tình hình diễn ra phức tạp và Ban lãnh đạo Huyện uỷ cũng chưa nắm được đầy đủ thông tin, ngày 12- 11- 2003, Thường trực Huyện uỷ cử Tổ công tác về cơ sở Đảng, chi bộ nơi ông Nguyễn Văn T sinh hoạt để nắm tình hình. Sau khi nghe báo cáo của tổ công tác, ngày 20-11-20003, Ban thường vụ Huyện uỷ họp phân tích toàn bộ diễn biến của vụ việc. Ban Thường vụ thống nhất kết luận: - Chủ tịch Nguyễn Văn T đã sử dụng tiền của dân đóng góp để mua xe máy( dù mua để phục vụ việc công) gây dư luận xấu trong nhân dân, vi phạm quy định tài chính của Nhà nước. Vì vậy, cần được xử lý nghiêm minh. - Giao cho UBND huyện triệu tập hội nghị toàn thể UBND huyện mở rộng, có mời thêm các thành viên liên quan để xem xét Quyết định số 13, Nghị quyết của Thường trực HĐND . - Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Đảng xem xét tư cách đảng viên của Chủ tịch Nguyễn Văn T. Căn cứ vào kết luận của Ban Thường vụ Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện triệu tập phiên họp toàn thể, cuộc họp đã đi đến thống nhất: UBND, HĐND xã B và ông Nguyễn Văn T cần thực hiện Quyết định số 13/QĐ- UB của Chủ tịch UBND huyện và cử ông Phạm Anh D - Phó Chủ tịch xã B giữ chức vụ quyền Chủ tịch UBND xã. A- Câu hỏi: bạn hãy phân tích, đánh giá và đưa ra những giải pháp thích hợp vừa có tình vừa có lý. B- Trả lời: I. Lý luận: 1. Khái niệm về cán bộ quản lý kinh tế Xem Giáo trình Quản lý học Kinh tế Quốc dân, NXB Khoa học kỹ thuật, trang 126 - 128 Theo nghĩa rộng, cán bộ, công chức quản lý kinh tế là tất cả những cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực quản lý kinh tế ở hệ thống các cơ quan khác nhau của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.(7) Theo nghĩa hẹp, cán bộ công chức quản lý kinh tế là bộ phận cán bộ làm công tác quản lý kinh tế trong các cơ quan quản lý kinh tế của trung ương và địa phương. 2. Đánh giá cán bộ quản lý kinh tế. Xem: Giáo trình quản lý học Kinh tế Quốc dân, NXB Khoa học kỹ thuật, trang 139 - 141 Việc đánh giá cán bộ quản lý kinh tế là cần thiết giúp để có được các thông tin như : thông tin phản hồi nhằm cán bộ biết rằng năng lực và việc thực hiện công việc của họ đang ở mức nào để từ đó họ phấn đấu hoàn thiện ;thông tin cho công tác quản lý cán bộ, từ quy hoạch đào tạo, bố trí sử dụng, tuyển chọn cán bộ cho đến quản lý hệ thống lương, thưởng, cán bộ, công chức. Việc đánh giá một cán bộ có ích hay không được dựa trên một số nội dung cơ bản sau: - Năng lực chuyên môn: Như trình độ văn hoá, kinh nghiệm công tác, kĩ năng - Năng lực tổ chức quản lý: Đó là khả năng tổ chức phân công các phân hệ, bộ phận, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và hoạt động cho mọi người. Là khả năng điều hành, liên kết con người với nhau. Tiêu chuẩn nhận biết như sau: * Biết mình nhất là biết nhìn mình qua nhận xét của người khác. * Biết người nghĩa là biết nhìn nhận con người theo đúng thực chất của họ và biết sử dụng họ. * Có sáng tạo. - Kết quả công việc đã thực hiện cả về số lượng, chất lượng, thời gian Đánh giá kết quả trên các vấn đề: hiệu quả công việc, so sánh kết quả với những điều kiện của tổ chức( như nguồn lực, tiềm năng), đặt kết quả trong mối quan hệ thời gian, đặt kết quả công việc của cá nhân cán bộ trong mối quan hệ với năng suất, kết quả của tập thể … - Phẩm chất, uy tín của người cán bộ: Thể hiện ở phẩm chất chính trị, phẩm chât đạo đức và mức độ tín nhiệm của tập thể đối với cán bộ đó . II. các phương án trả lời : 1. Phương án 1: Ông Nguyễn Văn T không nên có hành vi như vậy. Trong những năm gần đây với chủ trương của Đảng và Nhà nước là Nhà nước và nhân dân cùng làm đã có tác dụng lớn trong đời sống của nhân dân. Nhiều công trình điện - đường - trường trạm đã được xây dựng nhờ vào vốn góp của nhân dân và của nhà nước.Với phương châm đó, nguồn vốn do dân góp là chỉ để sử dụng đúng mục đích, mọi hành vi xâm phạm cố ý sử dụng vì mục đích khác đều coi là vi phạm quy định của nhà nước và hơn nữa là không hợp lòng dân. Như vậy, với cương vị là chủ tịch UBND xã, ông T rõ ràng là nắm rõ quy định của nhà nước nhưng vẫn cố tình sử dụng nguồn vốn do dân góp làm đường để làm việc khác là một hành vi trái quy định. Xét thực tiễn công tác của ông T ta thấy ông T là người có nhiều thành tích, năng lực và được dân ủng hộ. Trong công việc thì một người mắc sai lầm là có thể xảy ra. Phải chăng ông T luôn nghĩ mình làm gì cũng được dân ủng hộ nên ông mới có hành vi trên? Vậy thì, nếu vì việc này mà ông T bị cách chức thì sẽ mất đi bao nhiêu lợi ích mà ông T sẽ tạo ra cho xã B nếu ông vẫn hoạt động? Theo tôi, lợi ích đó có thể lớn hơn nhiều 20 triệu đồng vì ông T luôn là người làm tốt mọi việc. Hơn nữa quyết định của Chủ tịch UBND xã về việc mua xe máy đã được 5/7 người dự họp đồng ý. Nếu kỉ luật chắc cả tập thể cũng phải chịu chứ không riêng mỗi ông T. Theo tôi, ông T sẽ bị cảnh cáo từ cấp huyện và sau đó đệ trình lên huyện việc cấp ngân sách cho xã để mua xe máy. Số tiền này sẽ trả lại cho dân. Với một việc làm đúng đắn và có ý nghĩa như vậy thì cấp huyện không có lý do gì mà không phê duyệt. Và làm việc như vậy mới đúng nguyên tắc. vụ việc này nên xử lý ông T theo hình thức cảnh cáo và chấm dứt đến đây. 2. phương án 2: quyết định số 13/QĐ- UB của Chủ tịch UBND là một quyết định không hợp tình và hợp lý. Trên nguyên tắc, ông T là có vi phạm nhưng vi phạm đó không đến mức phải đình chỉ chức danh của ông T. về mặt tình, qua thực tiễn hoạt động của ông T ở thời gian qua, ngay cả lúc vụ việc xảy ra nhân dân xã B vẫn đông đảo tín nhiệm và có đủ năng lực làm việc nên đình chỉ công việc ông là một sai lầm. Chủ tịch HĐND xã đã 2 lần gửi công văn cho thường trực huyện uỷ, thường trực HĐND và UBND huyện chứng tỏ rằng về mặt tình thì ông T hoàn toàn không đáng bị đình chỉ chức danh. Theo tôi ngay cả chi tiết ông T trả lại 20 triệu là cũng không nên có. Vì ông T không phải sử dụng tiền vào mục đích riêng mà vì của công. Thay vào trả lại 20 triệu đồng ông T nên thay bằng hành động khác như: Tổ chức cuộc họp và trích ngân sách xã để bù vào. Hoặc đệ trình lên Huyện xin được cấp ngân sách từ huyện( dĩ nhiên khi đó ông T đã bị cảnh cáo rồi). Quyết định số 13/QĐ– UB của chủ tịch UBND huyện là quyết định không phù hợp, nó chỉ làm phức tạp thêm tính chất của sự việc mà không đáng như vậy. Chúng ta đã phân tích lý do mà ông chủ tịch xã có quyết định mua xe công: xã xa huyện, những lần đi họp trên huyện thường rất khó khăn, những kì họp giao ban của huyện gần đây nếu chủ tịch bận là không ai chịu đi họp thay, các ban ngành của xã thường vắng trong những kì họp của ngành; Do đó không nắm được tình hình, nhiều chủ trương, chính sách của huyện triển khai không kịp thời…. Đây là lý do chính đáng và xác thực để xã cần có phương tiện đi lại. Chỉ đáng trách cho ông T là giải quyết khó khăn không đúng quy định. Vụ việc này nên chấm dứt ở hình thức cảnh cáo ông T mà không nên giải quyết theo quyết định số 13. Phần kết luận Trong quản lý kinh tế việc vận dụng các quy luật là rất khó khăn và phức tạp, vì thế mà những hành vi trái pháp lụât sẽ gây ra những hậu quả xấu. Việc phát hiện và nắm được các quy luật trong quản lý kinh tế và biến thành những nguyên tắc trong quản lý kinh tế là việc làm cần thiết, bởi nó tạo ra một khuôn khổ cho người quản lý. Hoạt động quản lý mang tính nghệ thuật nhưng nghệ thuật đó không phải là chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo các quy luật kinh tế, quy luật xã hội và cả quy luật tâm lý. Các tình huống nêu ra trong bài viết là rất thường gặp trong thực tiễn hoạt động quản lý ở nước ta, để giải quyết chúng cần có nhãn quan tổng quát, kết hợp nguyên tắc và nghệ thuật mới có được những lời giải đáp phù hợp, tránh những thiệt hại không đáng có và tạo niềm tin cho tổ chức. TàI liệu tham khảo 1. Giáo trình khoa học quản lý I, PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, NXB Khoa học kĩ thuật, Hà Nội - 2004. 2. Giáo trình Quản lý kinh tế quốc dân I, GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và TS Mai Văn Bưu, NXB Khoa học kĩ thuật, Hà Nội - 2001 3. Giáo trình Quản lý học kinh tế quốc dân II, GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và TS Mai Văn Bưu, NXB Khoa học kĩ thuật, Hà Nội - 2002. 4. “ Nên giải quyết như thế nào khi xảy ra tranh chấp bởi quyết định miệng”, Nguyễn Viết Sâm, Tạp chí quản lý Nhà nước số 123 - Tháng 4 năm 2006. 5. “ Tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định quản lý Nhà nước”, Chu Xuân Khánh, tạp chí quản lý Nhà nước số 128 - Tháng 9 - 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0803.doc
Tài liệu liên quan