Chúng tôi chưa phát hiện trường hợp tắc
ruột tái phát cần nhập để điều trị hoặc tắc ruột
mạn tính gây đau dai dẳng kéo dài ở nhà. Chưa
phát hiện trường hợp nào tử vong sau mổ.
Nghiên cứu của Ayman (2004) báo cáo tắc
ruột tái phát sau mổ ở 2 bệnh nhân (12,5%)(1).
Francois và CS (1994) báo cáo 32 trong số 50
trường hợp được điều trị tắc ruột do dính qua
nội soi hoàn toàn không có triệu chứng trong
khoảng thời gian theo dõi 24 tháng(19). Strickland
và CS nghiên cứu 34 trường hợp điều trị tắc ruột
non bằng mổ nội soi và mổ hở phát hiên 1
trường hợp tắc ruột tái phát cần phải mổ lại
trong khoảng thời gian theo dõi trung bình dài
88 tuần(20).
Điều trị nội soi có tỷ lệ tái phát thấp hơn
nhiều so với phương pháp mổ hở. Điều này có
thể do trong mổ nội soi không dùng tới các dụng
cụ banh vết mổ và gạc chèn, ổ bụng được giữ
kín nên phúc mạc ít bị khô, ít tiếp xúc với dị vật.
Ngoài ra, trong mổ nội soi, phẫu thuật viên ít
thăm dò mù các tạng trong ổ phúc mạc hơn và
chiều dài của vết mổ trong mổ nội soi cũng nhỏ
hơn nhiều so với mổ hở(1).
Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn (2010)
cho tỷ lệ tái phát sau mổ là 1,8% đối với nhóm
mổ nội soi nhưng không có trường hợp tái phát
nào cần phải mổ lại. Kết quả của tác giả Nguyễn
Văn Hải (2008) cho kết quả tương tự.
Tác giả Wang (2009) theo dõi 43 bệnh nhân
trong khoảng thời gian trung bình 46,5 tháng (từ
24 đến 89 tháng). 43 bệnh nhân (93,5%) không có
triệu chứng trong khoảng thời gian theo dõi. Chỉ
có 1 bệnh nhân (2,2%) tắc ruột tái phát 2 lần nữa
trong vòng 38 tháng theo dõi
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính khả thi của phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột sau mổ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
55
TÍNH KHẢ THI CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI
ĐIỀU TRỊ TẮC RUỘT SAU MỔ
Đặng Ngọc Hùng*, Đặng Như Thành*, Lê Lộc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị tắc ruột sau mổ bằng phương pháp phẫu thuật nội soi.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ 11/2008 đến
9/2013 bao gồm 44 bệnh nhân tắc ruột non sau mổ được điều trị bằng phẫu thuật nội soi tại khoa Ngoại tiêu hóa,
Ngoại nhi cấp cứu bụng và Ngoại Tổng hợp bệnh viện Trung ương Huế.
Kết quả:.Thời gian mổ trung bình là 62,2 ± 27,6 phút, thời gian nằm viện trung bình là 11,1 ± 6 ngày, thời
gian từ lúc mổ đến lúc ra viện là 6,1 ± 3,7 ngày, thời gian giảm đau sau mổ là 17,8 ± 7,4, thời gian trung tiện sau
mổ là 37,8 ± 26,2. 11 (25%) trường hợp phải mở đường mổ nhỏ <5cm để cắt nối đoạn ruột và 3 trường hợp phải
chuyển sang mổ hở (6,8%). Chưa phát hiện trường hợp tắc ruột tái phát cần nhập viện để điều trị hoặc tắc ruột
mạn tính gây đau dai dẳng kéo dài ở nhà.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột non sau mổ là phương pháp an toàn và hiệu quả, mang lại
nhiều lợi ích cho bệnh nhân so với mổ hở.
Từ khóa: phẫu thuật nội soi, tắc ruột
ABSTRACT
FEASIBILITY OF LAPAROSCOPIC ADHESIOLYSIS FOR POST-OPERATIVE SMALL BOWEL
OBSTRUCTION
Dang Ngoc Hung, Dang Nhu Thanh, Le Loc Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 2 - 2014: 55 - 62
Aim: To evaluate the result of laparoscopic adhesiolysis for post-operative small bowel obstruction.
Subjects and method: A retrospective cross-sectional descriptive study conducted from 11/2008 to 9/2013
including 44 patients diagnosed with postoperative small bowel obstruction and treated at department of
abdominal surgery, department of pediatric and abdominal emergency surgery and department of general surgery
of Hue central hospital.
Results: The mean operative time was 62.2 ± 27.6 minutes, the mean length of hospital stay was 11.1 ± 6
days, the average length of hospital stay after surgery was 6.1 ± 3.7 days, return of intestinal motility occurred
after 37.8 ± 26.2 days. Conversion to laparoscopic assisted small bowel resection was required in 11 patients
(25%) with minor incision of less than 5cm. There were 3 patients who eventually required open surgery (6,8%).
There were no cases identified with recurrence of bowel obstruction which required readmission and no cases with
chronic pain at home after surgery.
Conclusion: Laparoscopic adhesiolysis is a safe, effective and more beneficial method of treatment for
patients with postoperative small bowel obstruction compared with open surgery.
Key words: laparoscopy, bowel obstruction
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tắc ruột do dính sau mổ là một vấn đề
thường gặp trong phẫu thuật vùng bụng và việc
điều trị hiện nay còn gặp nhiều khó khăn. Các số
liệu gần đây cho thấy 93 – 100% bệnh nhân sẽ
hình thành dính sau khi trải qua phẫu thuật
vùng bụng và một phần trong số các bệnh nhân
này sẽ bị tắc ruột non sau đó với nguy cơ của tắc
* Bệnh viện Trung ương Huế.
Tác giả liên lạc: ThS Đặng Ngọc Hùng ĐT: 0914006816 Email: dr.dangngochung@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
56
ruột non sau mổ từ 0,3 – 10,7% tùy theo tác giả(1).
Thái độ điều trị hiện nay trước hết là bảo tồn
không mổ với các phương thức phối hợp như
nhịn ăn, đặt sonde mũi - dạ dày hút dịch để
giảm áp đường tiêu hóa, chuyền dịch để bồi phụ
rối loạn nước- điện giải và kháng sinh. Tỷ lệ
thành công điều trị bảo tồn không mổ đạt được
khá cao từ 70-80% trường hợp. Với các trường
hợp không đáp ứng với điều trị bảo tồn cần phải
chỉ định phẫu thuật. Phẫu thuật hở vẫn được
xem là phương pháp điều trị chủ yếu của tắc
ruột sau mổ đối với những bệnh nhân có chỉ
định phẫu thuật. Tuy nhiên, phẫu thuật hở lại
gây tổn thương thêm cho phúc mạc, làm tăng
nguy cơ hình thành dính và tắc ruột trong tương
lai. Số liệu thống kê cho thấy 10 – 30% bệnh nhân
bị tắc ruột trở lại khi được điều trị bằng phương
pháp mổ hở và được chỉ định mổ lại lần hai(2).
Phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột sau mổ
được thực hiện lần đầu tiên bởi Bastug năm
1991. Sau đó, phẫu thuật này ngày càng được
các phẫu thuật viên chấp nhận và sử dụng vì tỷ
lệ dính trở lại sau mổ thấp, bệnh nhân nằm viện
ngắn ngày hơn, ít biến chứng và hồi phục nhanh
hơn. Ở Việt Nam, phương pháp này đã được
thực hiện bởi tác giả Nguyễn Hoàng Bắc từ năm
2001(3). Ở bệnh viện trung ương Huế, trường hợp
mổ tắc ruột sau mổ đầu tiên bằng phương pháp
nội soi được thực hiện từ năm 2008 và ngày càng
được áp dụng rộng rãi trong điều trị(4). Việc lựa
chọn phương pháp điều trị tắc ruột sau mổ
tương đối phức tạp vì phụ thuộc rất nhiều yếu tố
khác nhau.
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu dược
thực hiện để khảo sát tính khả thi, mức độ an
toàn cũng như đưa ra chỉ định cụ thể của
phương pháp điều trị tắc ruột sau mổ bằng phẫu
thuật nội soi. Do đó, nghiên cứu ngày được thực
hiện nhằm mục đích đánh giá kết quả điều trị
tắc ruột sau mổ bằng phương pháp phẫu thuật
nội soi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ 11/2008 đến 9/2013 có 44 bệnh nhân tắc
ruột non sau mổ được điều trị bằng phẫu thuật
nội soi tại khoa Ngoại tiêu hóa, Ngoại nhi cấp
cứu bụng và Ngoại Tổng hợp bệnh viện Trung
ương Huế. Trong đó có 28 bệnh nhân mổ cấp
cứu và 16 bệnh nhân được mổ phiên và cấp cứu
trì hoãn.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
+ Được chẩn đoán tắc ruột dựa vào lâm
sàng và cận lâm sàng.
+ Có chỉ định điều trị bằng phương pháp
phẫu thuật nội soi.
+ Bệnh nhân đồng ý phẫu thuật nội soi.
Tiêu chuẩn loại trừ
+ Huyết động không ổn định.
+ Viêm phúc mạc toàn thể.
+ Có bệnh lý nội khoa với nguy cơ phẫu
thuật ASA ≥ 3.
+ Có tiền sử phẫu thuật bụng lớn hơn 3 lần
trở lên.
+ Tắc ruột do thoát vị vết mổ hoặc thoát vị
bẹn nghẹt.
+ Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp, được thiết kế theo thể
loại thử nghiệm lâm sàng.
Phương tiện và kỹ thuật
Các thiết bị cho hình ảnh
Camera màu 3 chip. Ống kính soi đường
kính 10mm, góc 300, 450. Nguồn sáng và dây
nguồn sáng cung cấp ánh sáng. Máy bơm khí
CO2.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
57
Các dụng cụ mổ
Hai trô-ca 10mm, 2 trô- ca 5mm có van bảo
vệ tránh xì khí CO2. Các dụng cụ phẫu thuật
nội soi không gây thương tổn tổ chức.
Kỹ thuật
+ Chuẩn bị bệnh nhân: nhịn ăn uống, đặt dạ
dày, truyền dịch, thông tiểu, kháng sinh. Bệnh
nhân tư thế nằm ngửa. Vô cảm bằng gây mê nội
khí quản.
+ Các kỹ thuật giải quyết tắc ruột trong mổ
nội soi: gỡ dính, tháo xoắn ruột, cắt dây chằng,
khâu thanh mạc, cắt đoạn ruột non.
+ Phẫu thuật nội soi ổ bụng.
Đặt trocar 10mm đầu tiên bằng kỹ thuật
Hasson quanh rốn hoặc ở vị trí được chọn cách
xa vết mổ cũ. Các trocar tiếp theo được đặt dưới
hướng dẫn của camera.
Ổ bụng được quan sát, vị trí tắc được tiếp
cận và xác định. thao tác gỡ dính, cắt dây
chằng được thực qua nội soi, hoặc mở bụng tối
thiểu ≤ 5cm (cắt đoạn ruột, làm hậu môn nhân
tạo ...). Nếu vị trí tắc hoặc thương tổn không
tiếp cận và xử trí được qua nội soi thì sẽ
chuyển sang mổ hở.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của mẫu
Nam chiếm đa số (56,8%). Tỷ lệ nam/nữ là
1,3. Tuổi nhỏ nhất là 12 tuổi, lớn nhất là 85 tuổi,
tuổi trung bình là 44,2 ± 18,8 tuổi. Nhóm tuổi
chiếm tỉ lệ cao nhất là 51-60 tuổi (27,3%). Phần
lớn các bệnh nhân trong nghiên cứu này sống ở
vùng nông thôn (59%).
Về tiền sử phẫu thuật, phần lớn bệnh nhân
có tiền sử phẫu thuật vùng bụng 1 lần (88,6%) và
chưa được điều trị tắc ruột lần nào (47,7%). Đa
số bệnh nhân chưa điều trị tắc ruột sau mổ bằng
phẫu thuật trước đây (88,6%) trong đó có 5 bệnh
nhân (11,4%) đã được điều trị tắc ruột bằng phẫu
thuật trước đây đều là mổ hở. Phẫu thuật mở cắt
ruột thừa, đặc biệt là cắt ruột thừa hở và mổ
viêm phúc mạc khu trú do ruột thừa vỡ mủ
chiếm phần lớn trong các loại phẫu thuật trong
tiền sử bệnh nhân (54,5%). Các phẫu thuật trên
ruột non, sản phụ khoa cũng chiếm một tỉ lệ
đáng kể. Đường giữa (trên dưới rốn, trên rốn,
dưới rốn) là đường mổ thường gặp nhất (45,5%).
Đường mổ MacBurney cũng chiếm tỉ lệ cao
trong các loại đường mổ thực hiện trên bệnh
nhân (36,4%).
Tắc ruột sớm sau mổ gặp trong 2 trường hợp
(4,5%). Trong đó sớm nhất là 9 ngày sau mổ. Tắc
ruột muộn sau mổ xảy ra trong 42 trường hợp
còn lại (95,5%). Thời gian dài nhất từ lần mổ cuối
cùng là 33 năm, đó là trường hợp tắc ruột do dây
chằng 33 năm sau mổ do tắc ruột non. 29,5%
trường hợp tắc ruột xảy ra trong năm đầu tiên.
Kết quả điều trị
Vị trí đặt trocar đầu tiên thường được sử
dụng nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là hố
chậu trái (54,4%). Điều này là do phần lớn các
bệnh nhân trong nghiên cứu có đường mổ cũ ở
hố chậu phải (mổ ruột thừa hở qua đường mổ
MacBurney).
Phần lớn các trường hợp tắc ruột sau mổ là
do dây chằng (79,5%), sau đó là do dính (31,8%)
và xoắn (11,4%). Tất cả các trường hợp xoắn đều
gặp trong mổ cấp cứu (5 trường hợp, chiếm
17,9% các trường hợp mổ cấp cứu) trong khi
không có trường hợp nào xoắn được chỉ định
mổ phiên hoặc cấp cứu trì hoãn.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
58
Bảng 1. Diễn tiến của quá trình điều trị
Nhóm không có cắt-nối ruột Nhóm có cắt nối ruột
Chung p
Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất
Thời gian mổ (phút) 54,8±26,7 30 120 77,9±23,3 40 120 62,2±27,6 p<0,01
Thời gian trung tiện sau mổ (giờ) 21,3±16 8 30 51,7±21,8 12 100 37,8±26,2 p<0,01
Thời gian giảm đau sau mổ (giờ) 10,8±7,7 3 20 30,2±17,2 10 72 17,8±7,4 p<0,01
Thời gian ăn sau mổ (giờ) 42,7±27,8 12 48 100,6±27,6 73 120 54,7±32,7 p<0,01
Thời gian từ lúc mổ đến ra viện
(ngày)
4,3±2,5 2 5 9,4±2,1 6 12 6,1±3,7 p<0,01
Thời gian nằm viện (ngày) 10,3±6,2 4 19 12,9±5,3 7 28 11,1±6 p>0,05
Thời gian nằm viện, thời gian từ lúc mổ đến
lúc ra viện, thời gian giảm đau sau mổ, thời gian
ăn sau mổ, thời gian trung tiện sau mổ của nhóm
không cắt nối ruột ngắn hơn nhiều so với nhóm
có cắt nối ruột. Sự khác biệt giữa 2 nhóm đều có
ý nghĩa thống kê trừ sự khác biệt về thời gian
nằm viện.
Có 11 (25% tổng số trường hợp) trường hợp
phải mở đường mổ nhỏ <5cm để cắt nối đoạn
ruột. Phần lớn các trường hợp đó (45,5%) là do
đoạn ruột xơ hẹp phải cắt bỏ hoặc do thắt nghẹt,
nghi ngờ hoại tử ruột (36,4%).
Bảng 2. Các tai biến trong mổ và các nguyên nhân
chuyển mổ hở
Tai biến trong mổ N % Nguyên nhân
chuyển mổ hở
N %
Xây xát thanh mạc 2 4,6 Dính nhiều 1 2,3
Chảy máu thành
ruột
1 2,3
Xoắn ruột thiếu máu 1 2,3
Thủng ruột 1 2,3 Thủng ruột trong mổ 1 2,3
Chuyển từ nội soi sang mổ hở gặp trong 3
trường hợp. Trong đó có 1 trường hợp dính
nhiều, 1 trường hợp thủng ruột trên đoạn ruột
mất thanh mạc dài, chảy máu do dính chặt vào
vết mổ, 1 trường hợp xoắn hồi manh tràng thiếu
máu. Có 4 trường hợp có tai biến trong mổ
chiếm tỷ lệ 9,1% trong đó có 2 trường hợp rách
thanh mạc nông, 1 trường hợp thủng ruột và 1
trường hợp chảy máu thành ruột. Các tai biến
sau mổ chủ yếu gặp ở những trường hợp bệnh
nhân lớn tuổi, nằm nhiều và phải cắt nối ruột.
Bảng 3. Các biến chứng sau mổ
Biến chứng sau mổ N %
Nhiễm trùng vết mổ 2 5,5
Liệt ruột kéo dài 8 18,2
Biến chứng hô hấp 5 11,4
Ổ đọng dịch tồn lưu 1 2,3
Tỷ lệ thành công
Chúng tôi có 3 trường hợp phải chuyển
sang mổ hở (6,8%). Trong số 41 trường hợp
còn lại (93,2%), có 11 trường hợp phải mở
đường mổ nhỏ phối hợp < 5cm để cắt nối ruột.
Do đó, tỷ lệ thành công trong nghiên cứu của
chúng tôi là 93,2%.
Theo dõi sau mổ
Bệnh nhân tái khám định kỳ sau 1 tháng, 6
tháng, 1 năm đầu tiên và sau 2 năm. Chúng tôi
theo dõi dài hạn được 40 trường hợp (90,9%),
thời gian theo dõi trung bình là 27 tháng (thay
đổi từ 3 tháng đến 3 năm. Chúng tôi chưa phát
hiện trường hợp tắc ruột tái phát cần nhập viện
để điều trị hoặc tắc ruột mạn tính gây đau dai
dẳng kéo dài ở nhà.
BÀN LUẬN
Theo tác giả Nagle (2004) phẫu thuật gỡ
dính qua nội soi ổ bụng trong tắc ruột non có
nhiều ưu điểm như (1) giảm đau sau mổ, (2)
phục hồi chức năng của ruột nhanh hơn (3)
giảm thời gian nằm viện (4) hồi phục nhanh
hơn, trở lại hoạt động thường ngày nhanh
hơn, (5) giảm tỷ lệ các biến chứng của vết mổ
và (6) giảm tạo dính sau mổ(5).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
59
Thời gian mổ của nhóm không cắt nối ruột
ngắn hơn vì các tổn thương thường đơn giản
như dính gập góc, không có xơ hẹp ruột do thắt
hoặc dây chằng đơn thuần nên không đòi hỏi
phải cắt nối ruột. Thời gian mổ ngắn nhất của
nhóm này là 30 phút. Thời gian mổ trung bình
của chúng tôi thấp hơn thời gian mổ của tác giả
Nguyễn Hồng Sơn (89 phút)(6). Theo chúng tôi,
ngoài yếu tố khách quan là tình trạng tổn
thương của bệnh nhân, thời gian mổ còn phụ
thuộc rất nhiều vào kỹ năng và kinh nghiệm của
phẫu thuật viên, nhất là kỹ năng về phẫu thuật
nội soi vì trong tắc ruột, nếu quai ruột giãn lớn,
chướng hơi kèm dính nhiều thì phẫu trường rất
chật hẹp, khó thao tác và dễ gây tổn thương
thêm cho các cơ quan trong ổ bụng. Các tác giả
khác có thời gian mổ thay đổi từ 45 đến 112
phút(7). Nghiên cứu của tác giả Ayman (2004)
cho thấy sự khác biệt về thời gian phẫu thuật
giữa nhóm phẫu thuật nội soi hoàn toàn là 115 ±
9,1 phút (dao động từ 60 đến 150 phút) và nhóm
thất bại phải chuyển mổ hở với thời gian dài hơn
130 ± 6,7 phút (dao động 90 – 180 phút)(1).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tắc ruột chủ
yếu là do dây chằng đơn giản (79,5%) nên phẫu
thuật thường đơn giản và nhanh. Tỷ lệ này
tương đương với các tác giả Nguyễn Hồng Sơn
(2010) và Nguyễn Hoàng Bắc. Theo Levard
(2001), tỷ lệ thành công cao hơn rất nhiều đối với
những bệnh nhân tắc ruột do 1 – 2 dây dính đơn
thuần(8). Còn theo Nagle thì tỷ lệ thành công phụ
thuộc vào dạng tổn thương với tỷ lệ gỡ dính
thành công đạt đên 100% nếu tổn thương là dây
chằng đơn thuần, tỷ lệ này giảm xuống 10% cho
những trường hợp dính chặt(6).
Thời gian trung tiện sau mổ trung bình là
37,8±26,2 giờ, thời gian giảm đau sau mổ
17,8±7,4 giờ, thời gian ăn sau mổ là 54,7 ± 32,7
giờ. Sự khác biệt giữa nhóm có cắt nối ruột và
không cắt có cắt nối ruột cũng có ý nghĩa thống
kê với p<0,01. Thời gian này cũng tương tự thời
gian trong gặp trong các nghiên cứu của Nguyễn
Hoàng Bắc và nghiên cứu của Nguyễn An và
Ayman(1,3,9).
Theo Wullstein (2003) và Khaikin (2007) các
bệnh nhân sau phẫu thuật nội soi gỡ dính
thường trung tiện trở lại nhanh do khoảng thời
gian liệt ruột sau mổ ngắn hơn so với các phẫu
thuật hở. Cũng với lý do như trên, các trường
hợp phải mổ đường mổ nhỏ phối hợp và các
trường hợp thất bại phải chuyển mổ hở cũng có
thời gian trung tiện trở lại, giảm đau sau mổ và
ăn trở lại dài hơn(10,11,12).
Thời gian nằm viện sau mổ của chúng tôi là
6,1 ± 3,7 ngày (2 - 12 ngày), thời gian nằm viện
chung là 11,1 ± 6 (4 – 28 ngày). Sự khác biệt về
thời gian nằm viện sau mổ giữa nhóm có cắt nối
ruột và nhóm không có cắt nối ruột có ý nghĩa
thống kê với p < 0,01. Tuy nghiên, sự khác biệt
giữa 2 nhóm về tổng thời gian nằm viện là
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Theo
chúng tôi, mặc dù tổng thời gian nằm viện mặc
dù có xu hướng lớn hơn đối với nhóm có cắt nối
ruột, một số bệnh nhân thuộc nhóm không cắt
nối ruột do đau mạn tính, không rầm rộ nên thời
gian điều trị nội khoa theo dõi ở bệnh phòng dài
hơn những bệnh nhân có cắt nối ruột. Điều này
làm cho tổng thời gian nằm viện của hai nhóm
khác nhau chưa có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu
của Nguyễn Hồng Sơn (2010) có thời gian trung
tiện trở lại sau 1,25 ± 0,75 ngày, thời gian đặt
thông mũi dạ dày trung bình 0,92 ± 0,54 ngày,
thời gian cho ăn lại trung bình 1,16 ± 0,7 ngày và
thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 3,11 ±
1,44 ngày đối với nhóm mổ nội soi thành công.
Nghiên cứu của Wullstein (2003) có thời gian
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
60
nằm viện sau mổ là 11,3 ngày đối với nhóm mổ
nội soi và 18,1 ngày đối với nhóm mổ hở(10). Tác
giả Khaikin (2007) có thời gian nằm viện sau mổ
thấp hơn, trung bình 5 ngày đối với nhóm mổ
nội soi và 9 ngày đối với nhóm mổ hở(11).
Mặc dù phẫu thuật gỡ dính bằng nội soi là
một phẫu thuật xâm nhập tối thiểu, vẫn tồn tại
nhiều bất lợi và nguy cơ tiềm tàng trong quá
trình phẫu thuật. Nguy cơ này là do phẫu
trường bị hạn chế do ruột chướng hơi nhiều,
dính nhiều. Mặt khác, các quai ruột thường bị
phù nề, thành ruột giãn mỏng nên dễ bị tổn
thương trong các thao tác cầm nắm, gỡ dính.
Tai biến trong mổ trong nghiên cứu của
chúng tôi bao gồm 3 loại là rách thanh mạc nông
(2 trường hợp chiếm 4,6%), chảy máu thành ruột
(1 trường hợp chiếm 2,3%) và thủng ruột (1
trường hợp chiếm 2,3%) phát hiện trong mổ.
Tổng cộng là 4 trường hợp, chiếm tỷ lệ 91,% và
không có trường hợp nào phát hiện muộn phải
mổ lại.
Tác giả Nguyễn Hồng Sơn (2010) cũng có tổn
thương thường gặp nhất phát hiện được trong
mổ là thủng ruột (5,5%) và tổn thương thanh
mạc ruột khi mổ (27,7%). Đặc biệt, tác giả này
còn có 2 trường hợp (3,7%) có biến chứng thủng
ruột phát hiện muộn trong thời kỳ hậu phẫu
phải mổ lại.
Tỷ lệ tai biến thủng ruột thay đổi khác nhau
trong các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài.
Tác giả Grafen (2010) báo cáo có 1 trường hợp
trong số 90 tổn thương ruột phát hiện trong
mổ(4). Tỷ lệ này trong nghiên cứu của Wullstein
(2003) cao hơn, chiếm 15/52 trường hợp mổ nội
soi(10). Tỷ lệ này khá cao trong nghiên cứu của
Levard (2001) là 33,3%(8). Biến chứng trong mổ
của tác giả Dindo (2010) chiếm 21,3%, trong đó
có một nửa là thủng ruột non(13).
Biến chứng thủng ruột thường gặp nhất ở
những bệnh nhân có tiền sử mổ bụng nhiều lần
trước đó(10). Tai biến thủng ruột thường gặp
trong quá trình gỡ dính. Một nguyên nhân khác
của thủng ruột ít gặp hơn khi đặt trocar theo
phương pháp Veress(8). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, chúng tôi dặt trocar theo phương
pháp hở Hasson nên chưa gặp trường hợp nào
thủng ruột do đặt trocar đầu tiên. Theo Eriberto
(2009), khi phát hiện thủng ruột trong mổ, nên
chuyển sang mổ hở để khâu lỗ thủng hoặc cắt
đoạn ruột nếu đoạn ruột có xây xát thanh mạc
hoặc chảy máu thành ruột nhiều do khâu hở
thường an toàn và chắc chắn hơn vì ruột thường
bị giãn và dễ tổn thương(12). Chúng tôi cũng có
một trường hợp thủng ruột trên đoạn ruột bị xây
xát chảy máu nhiều, đã được đưa ra ngoài qua
đường mổ nhỏ để cắt và nối lại.
Nhiều tác giả đã đưa ra các khuyến cáo để
hạn chế tỷ lệ tai biến thủng ruột trong mổ nội
soi. Theo Eriberto (2009), phẫu thuật viên phải
lựa chọn bệnh nhân thật kỹ bằng cách loại đi
những bệnh nhân có tiền sử mổ bụng nhiều lần,
mổ sớm trước 24 giờ. Trong khi phẫu tích, phẫu
thuật viên nên đi sát với lớp phúc mạc thành,
kiểm soát hướng đi của dụng cụ khi thao tác(12).
Borzellino (2004) thực hiện siêu âm thường quy
trước mổ để xác đinh vị trí dính trước mổ(14). Kỹ
thuật dùng siêu âm để xác định vị trí dính trước
mổ cũng đã được nhắc tới bởi tác giả Phạm Như
Hiệp (1996)(15).
Các tai biến sau mổ trong nghiên cứu của
nước ngoài có thể gặp là nhiễm trùng vêt mổ,
bục vết mổ, liệt ruột kéo dài, biến chứng về hô
hấp, ổ đọng dịch sau mổ trong ổ phúc mạc và
nặng nhất là tử vong. Tỷ lệ nhiễm trùng vết
thương được báo cáo trong các nghiên cứu của
nước ngoài dao động từ 5,9% trong nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
61
của Chopra (2003), 5,8% trong báo cáo của
Wullstein (2003) và 6,5% trong nghiên cứu của
Khaikin (2007)(10,11,16). Biến chứng hô hấp được
báo cáo trong nghiên cứu của Wullstein (2003)
với tỷ lệ 1,9%(10). Tỷ lệ này ở nhóm mổ nội soi
thấp hơn hẳn so với nhóm mổ hở (3,8%). Nghiên
cứu của Chopra (2003) báo cáo về biến chứng liệt
ruột kéo dài cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ giữa 2
nhóm mổ nội soi và mổ hở với nhóm mổ nội soi
có 3/34 trường hợp (8,8%) và nhóm mổ hở có
17/41 trường hợp (41,46%). Trong nghiên cứu
của chúng tôi biến chứng nhiễm trùng vết mổ
gặp ở 5,5% trường hợp, liệt ruột kéo dài gặp ở
18,2% và biến chứng hô hấp ở 11,4%. Đây là các
trường hợp bệnh nhân lớn tuổi, sức đề kháng
kém, vận động hạn chế hoặc có thời gian mổ kéo
dài nên các biến chứng trên dễ xảy ra.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Sơn
(2010) có báo cáo 2 trường hợp thủng ruột phát
hiện sau mổ. Có một trường hợp phải mổ lại cắt
đoạn ruột, sau đó bị biến chứng viêm phổi do hít
và nằm viện sau môt 1 tháng. Chúng tôi không
có trường hợp nào thủng ruột phát hiện muộn.
Có lẽ điều này là do chúng tôi rút được kinh
nghiệm từ các đồng nghiệp đi trước trong và
ngoài nước. Hơn nữa, theo chúng tôi, việc tuân
thủ các chỉ định và cẩn thận trong thao tác, đặc
biệt là khi gỡ dính chúng tôi sử dụng các dụng
cụ không gây sang chấn thành ruột, hạn chế kẹp
và lôi kéo các thành ruột mỏng, phù nề một cách
thô bạo. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng kéo đầu tù
để phẫu tích gỡ dính và cắt dây chằng thay vì
các dụng cụ đốt điện như móc, kẹp phẫu tích vì
chúng dễ gây bỏng điện, thiếu máu thành ruột
muộn khó phát hiện được ngay trong mổ. Các
tài liệu nước ngoài cũng có đề cập đến biến
chứng thủng ruột phát hiện muộn sau mổ.
Suter (2000) có 4 trường hợp phát hiện thủng
ruột muộn trong tổng số 13 trường hợp thủng
ruột. Tác giả Swank báo cáo tỷ lệ tương tự với 4
trong số 11 trường hợp thủng ruột phát hiện sau
mổ gỡ dính ruột chương trình và có 2 trường
hợp tử vong do biến chứng này(17,18).
Trong nghiên cứu chúng tôi không có
trường hợp nào tử vong trong vòng 30 ngày.
Trong khi đó, nghiên cứu của Nguyễn Hồng
Sơn báo 1 trường hợp tử vong trong số 52
bệnh nhân (1,8%). Theo nghiên cứu của Grafen
(2010), tỉ lệ tử vong của phẫu thuật nội soi điều
trị tắc ruột là 5%. Theo nghiên cứu này, các
yếu tố liên quan đến tỷ lệ tử vong sau phẫu
thuật nội soi điều trị tắc ruột sau mổ là chỉ số
ASA cao trước mổ (III, IV) và thời gian bị tắc
ruột trước đó kéo dài > 48 giờ(4).
Chúng tôi chưa phát hiện trường hợp tắc
ruột tái phát cần nhập để điều trị hoặc tắc ruột
mạn tính gây đau dai dẳng kéo dài ở nhà. Chưa
phát hiện trường hợp nào tử vong sau mổ.
Nghiên cứu của Ayman (2004) báo cáo tắc
ruột tái phát sau mổ ở 2 bệnh nhân (12,5%)(1).
Francois và CS (1994) báo cáo 32 trong số 50
trường hợp được điều trị tắc ruột do dính qua
nội soi hoàn toàn không có triệu chứng trong
khoảng thời gian theo dõi 24 tháng(19). Strickland
và CS nghiên cứu 34 trường hợp điều trị tắc ruột
non bằng mổ nội soi và mổ hở phát hiên 1
trường hợp tắc ruột tái phát cần phải mổ lại
trong khoảng thời gian theo dõi trung bình dài
88 tuần(20).
Điều trị nội soi có tỷ lệ tái phát thấp hơn
nhiều so với phương pháp mổ hở. Điều này có
thể do trong mổ nội soi không dùng tới các dụng
cụ banh vết mổ và gạc chèn, ổ bụng được giữ
kín nên phúc mạc ít bị khô, ít tiếp xúc với dị vật.
Ngoài ra, trong mổ nội soi, phẫu thuật viên ít
thăm dò mù các tạng trong ổ phúc mạc hơn và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
62
chiều dài của vết mổ trong mổ nội soi cũng nhỏ
hơn nhiều so với mổ hở(1).
Nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn (2010)
cho tỷ lệ tái phát sau mổ là 1,8% đối với nhóm
mổ nội soi nhưng không có trường hợp tái phát
nào cần phải mổ lại. Kết quả của tác giả Nguyễn
Văn Hải (2008) cho kết quả tương tự.
Tác giả Wang (2009) theo dõi 43 bệnh nhân
trong khoảng thời gian trung bình 46,5 tháng (từ
24 đến 89 tháng). 43 bệnh nhân (93,5%) không có
triệu chứng trong khoảng thời gian theo dõi. Chỉ
có 1 bệnh nhân (2,2%) tắc ruột tái phát 2 lần nữa
trong vòng 38 tháng theo dõi(20).
KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột non sau
mổ là phương pháp an toàn và hiệu quả, đã
mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân so với mổ
hở, giúp người bệnh nhanh hồi phục sức khỏe,
tiết kiệm nhiều mặt, rút ngắn thời gian nằm viện,
nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng, tính thẩm
mỹ cao. Phẫu thuật viên càng có kinh nghiệm thì
việc triển khai áp dụng phẫu thuật nội soi để
điều trị tắc ruột sau mổ thu được kết quả càng
cao và góp phần làm giảm tỷ lệ tắc ruột tái phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ayman MH (2004). Laparoscopic adhesiolysis for
recurrent small bowel obstruction with the ultrasonically
activated shears. Egyptian Journal of Surgery, 23(1): p. 56-
60.
2. Borzellino G et al (2004). Laparoscopic approach to
postoperative adhesive obstruction. Surg Endosc, 18(4): p.
686-90.
3. Chopra R et al (2003). Laparoscopic lysis of adhesions. Am
Surg, 69(11): p. 966-8.
4. Dindo DMS, Muller M K, Clavien P., Hahnloser D (2010).
Laparoscopy for small bowel obstruction: the reason for
conversion matters. Surgical Endoscopy, 24(4): p. 792-797.
5. Eriberto FRC, Francesco LM et al (2009). Feasibility of
laparoscopy for small bowel obstruction. World Journal of
Emergency Surgery, 4(3): 83-88.
6. Fevang BT et al (2004). Long-term prognosis after
operation for adhesive small bowel obstruction. Ann Surg,
240(2): p. 193-201.
7. Francois Y, Tomaoglu K, Vignal J (1994). Postoperative
adhesive peritoneal disease. Surg Endosc, 8: p. 781-3.
8. Grafen FC et al (2010). Management of acute small bowel
obstruction from intestinal adhesions: indications for
laparoscopic surgery in a community teaching hospital.
Langenbecks Arch Surg, 395(1): p. 57-63.
9. Khaikin M et al (2007). Laparoscopic vs. open surgery for
acute adhesive small-bowel obstruction: patients' outcome
and cost-effectiveness. Surg Endosc, 21(5): p. 742-6.
10. Levard H et al (2001). Laparoscopic treatment of acute
small bowel obstruction: a multicentre retrospective study.
ANZ J Surg, 71(11): p. 641-6.
11. Nagle A et al (2004). Laparoscopic adhesiolysis for small
bowel obstruction. Am J Surg, 187(4): p. 464-70.
12. Nguyễn An, Lê Phong Huy (2007), Phẫu thuật nội soi tắc
ruột do dính sau mổ. Tạp chí Y Dược TP. Hồ Chí Minh,
11(3): tr. 15-19.
13. Nguyễn Hoàng Bắc, Đỗ Minh Đại, Nguyễn Đình Tường
Lân (2003). Phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột sau mổ. Y
Học TP. Hồ Chí Minh, 7(1): tr. 81-84.
14. Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Văn Hải, Lê Huy Lưu (2010).
Kết quả của phẫu thuật nội soi điều trị tắc ruột sau mổ. Y
Học TP. Hồ Chí Minh, 14(4): tr. 1-7.
15. Phạm như Hiệp (1996). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,
cận lâm sàng và chỉ định điều trị tắc ruột sau mổ. Luận án
Phó tiến sỹ chuyên ngành Ngoại khoa, Học viện Quân Y,
Bộ Quốc Phòng: Hà Nội: tr. 87-89.
16. Strickland P et al (1999). Is laparoscopy safe and effective
for treatment of acute small-bowel obstruction? Surg
Endosc, 13(7): p. 695-8.
17. Suter M et al (2000). Laparoscopic management of
mechanical small bowel obstruction: are there predictors
of success or failure? Surg Endosc, 14(5): p. 478-83.
18. Swank DJ et al (2003). Laparoscopic adhesiolysis in
patients with chronic abdominal pain: a blinded
randomised controlled multi-centre trial. Lancet,
361(9365): p. 1247-51.
19. Szomstein S et al (2006). Laparoscopic lysis of adhesions.
World J Surg, 30(4): p. 535-40.
20. Wang Q et al (2009). Laparoscopic management of
recurrent adhesive small-bowel obstruction: Long-term
follow-up. Surg Today, 39(6): p. 493-9.
21. Wullstein C, Gross E (2003). Laparoscopic compared with
conventional treatment of acute adhesive small bowel
obstruction. Br J Surg, 90(9): p. 1147-51.
Ngày nhận bài báo: 30/12/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/01/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_kha_thi_cua_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_tac_ruot_sau_mo.pdf