Một là, tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính. Việc tuyên truyền phải
làm cho đối tượng cảm nhận được “cảm giác
sai trái” và sự e ngại các thiệt hại về kinh
tế nếu thực hiện hành vi vi phạm; ưu tiên
tuyên truyền pháp luật về XPVPHC theo
từng nhóm ngành, lĩnh vực có số lượng vụ
việc vi phạm hành chính cao, phổ biến. Hình
thức tuyên truyền cần đảm bảo tính hiệu
quả, thiết thực, có trọng tâm. Cùng với đó,
chúng ta cần nâng cao tính minh bạch, tăng
cường trách nhiệm, đạo đức thực thi công
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trong quá
trình XPVPHC. Bởi khi cán bộ, công chức
thực thi pháp luật nghiêm minh thì tính chất
răn đe của hình thức phạt tiền sẽ ngày càng
được đảm bảo tốt hơn.
Hai là, nghiên cứu, rà soát, cân nhắc lại
mức phạt tiền với mức độ nặng/nhẹ tùy vào
từng hành vi vi phạm cụ thể. Thiết nghĩ, cần
đánh giá một cách tổng thể sự phù hợp của
mức tiền phạt tối đa và tối thiểu trong các lĩnh
vực với tình hình thực tiễn của đời sống kinh
tế - xã hội. Qua đó, xem xét mức tiền phạt
trong lĩnh vực nào cần tăng lên, lĩnh vực nào
cần giảm xuống. Đặc biệt, như đã đề cập,
đối với trường hợp “nhờn luật” thì mức phạt
tối đa vẫn khó có thể đảm bảo tính răn đe đối
với người vi phạm. Trong những trường hợp
này, cần có cách thức giải quyết phù hợp và
thích đáng hơn. Chẳng hạn, người thi hành
công vụ, cơ quan công quyền cần phải có
đầy đủ thông tin của người vi phạm; từ đó,
có thể tính toán lại mức tiền phạt theo cách
“tích lũy điểm phạt”; hoặc nhân theo “hệ số
vi phạm” (tính theo số lần vi phạm) hay căn
cứ vào “lịch sử vi phạm hành chính” để đưa
ra mức tiền phạt nặng hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính răn đe của hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÍNH RĂN ĐE CỦA HÌNH THỨC PHẠT TIỀN TRONG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Tóm tắt:
Phạt tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ biến nhất trong
việc xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết này phân tích một số
khía cạnh lý luận cũng như thực tiễn về tính răn đe của hình thức
phạt tiền ở nước ta hiện nay; qua đó, đề xuất một số kiến nghị.
Trương Thế Nguyễn*
Trần Thanh Tú**
* Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng.
** Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng.
Abstract
In-cash fine is the most commonly applied form of sanctioning
of the administrative violations. This article provides analysis of
some theoretical as well as practical aspects of deterrence of the
current form of fines in-cash in our country; thereby also proposed
recommendations.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Phạt tiền, tính răn đe, xử phạt
vi phạm hành chính.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/10/2019
Biên tập : 02/11/2019
Duyệt bài : 04/11/2019
Article Infomation:
Keywords: fine in-cash; deterrence;
sanctioning of administrative violations.
Article History:
Received : 15 Oct. 2019
Edited : 02 Nov. 2019
Approved : 04 Nov. 2019
1. Khái quát về tính răn đe của hình
thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm
hành chính
Vi phạm hành chính1 là “hành vi có lỗi do
cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định
1 Ở Việt Nam trước đây, “phạm pháp vi cảnh” là thuật ngữ được sử dụng khi đề cập đến vi phạm hành chính. Cụ thể tại
Điều 2 Nghị định số 143/CP, ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ quy định: “Những hành vi xâm phạm đến trật tự
an toàn xã hội mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự hoặc chưa đến mức xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh và có thể bị xử lý bằng
các hình thức sau đây: Cảnh cáo; Phạt tiền từ 1 đồng đến 10 đồng; Phạt lao động công ích từ 1 ngày đến 3 ngày; Phạt
giam từ 1 ngày đến 3 ngày”.
2 Xem thêm khoản 2 Điều 2 Luật XLVPHC 2012.
của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”2.
Xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) là
“việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 22(398) T11/2019
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành
vi vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”3.
Trong số các hình thức XPVPHC, phạt
tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ
biến. Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chính (XLVPHC) hiện hành, mức tiền
phạt cụ thể đối với một vi phạm hành chính
là mức trung bình của khung tiền phạt được
quy định đối với vi phạm hành chính đó
(nếu có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng thì
mức tiền phạt có thể giảm xuống hoặc tăng
lên tương ứng nhưng không được giảm thấp
hơn mức tiền phạt tối thiểu hoặc tăng vượt
hơn so với mức tiền phạt tối đa của khung
tiền phạt được quy định).
Mức tiền phạt trong XPVPHC phải đảm
bảo nhiều yêu cầu khác nhau như: tính thích
đáng với hậu quả của vi phạm hành chính
gây ra; phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội nói chung cũng như điều kiện về
mặt tài chính của từng đối tượng vi phạm cụ
thể nói riêng và một yêu cầu khác cũng
quan trọng không kém là phải bảo đảm được
tính “răn đe” của chế tài xử phạt; từ đó,
nhằm giúp giảm thiểu vi phạm hành chính
có thể xảy ra.
Theo nghĩa tiếng Việt, “răn đe” có nghĩa
là: “nói cho biết rõ điều tai hại với mục đích
ngăn cấm, kèm theo ý đe dọa”4. Như vậy, sự
răn đe có nhiều thuộc tính khác nhau, nhưng
thuộc tính cơ bản nhất là tính đe dọa.
Thông thường, “lý thuyết răn đe” hay
được nhắc đến nhiều trong lĩnh vực ngoại
giao, quân sự và phổ biến hơn cả là ở lĩnh
3 Xem thêm khoản 3 Điều 2 Luật XLVPHC 2012.
4 Xem:
5 Ở nhiều nước trên thế giới, vi phạm hành chính được xem là những tội phạm nhỏ, ít nghiêm trọng.
6 John C. Ball, Deterrence Concept in Criminology and Law, Journal of Criminal Law and Criminology, Illinois,
Vol. 46, p. 347.
7 Roger C. Cramton (1969), Driver Behavior and Legal Sanctions: A Study of Deterrence, Cornell Law Faculty
Publications, New York, Vol. 67, p. 424.
8 Roger C. Cramton, tlđd, p. 424.
vực tội phạm5. Có ý kiến cho rằng, “răn đe
được định nghĩa là hiệu quả phòng ngừa mà
hình phạt thực tế (hoặc bị đe dọa) của những
người phạm tội đối với những người phạm
tội tiềm năng”6. Theo hướng lập luận trên,
tính chất răn đe của chế tài chủ yếu hướng
vào những người vi phạm tiềm năng với cơ
chế phòng ngừa là chủ yếu.
Ý kiến khác cho rằng, trong việc xem xét
tính răn đe, điều quan trọng là phải phân biệt
giữa răn đe chung và răn đe cụ thể7. Trên
thực tế, “răn đe chung đề cập đến ảnh hưởng
của hậu quả bị đe dọa đối với dân chúng.
Răn đe cụ thể đề cập đến ảnh hưởng của hình
phạt đối với một người cụ thể gặp phải nó”8.
Răn đe cụ thể là những tác động mang tính
thực tế đối với người có hành vi vi phạm,
còn răn đe chung chỉ mang tính phòng ngừa,
chế ngự khả năng xuất hiện hành vi vi phạm.
Hai dạng răn đe này có mối quan hệ đan xen
lẫn nhau và hầu như không thể tách rời. Răn
đe chung chỉ có thể được củng cố chắc chắn
hơn khi răn đe cụ thể được bảo đảm thực thi
tốt và ngược lại, khi mà răn đe cụ thể được
đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh thì mức độ
răn đe chung lại càng được mở rộng, củng
cố thêm. “Những ảnh hưởng của tính răn đe
chung rất khác nhau tùy thuộc vào các yếu
tố như: động lực tham gia vào hành vi bị
cấm hay tính cáchv.v. Ngoài các biến số
chung này, hiệu quả của một hình phạt pháp
lý phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: (1) rủi
ro nhận thấy của việc phát hiện, sự e ngại và
vấn đề bị kết án; và (2) mức độ nghiêm trọng
của hình phạt. Cùng với đó, còn có sự nhất
trí giữa các học giả pháp lý khi cho rằng: yếu
tố thứ nhất có ý nghĩa hơn trong việc kiểm
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 22(398) T11/2019
soát hành vi vi phạm so với yếu tố thứ hai”9.
Ở một góc độ khác, có ý kiến cho rằng, răn
đe không chỉ được thúc đẩy bằng sự sợ hãi
của hình phạt mà còn có sự lên án của xã hội
đối với hành vi bị cấm. Do đó, “răn đe có
cả thành phần sợ hãi và thành phần đạo đức
(giáo dục)”10. Nói khác đi và suy cho cùng,
nếu một cá nhân được sống trong môi trường
giáo dục tốt, các giá trị đạo đức được đề cao
thì thông thường cá nhân đó sẽ có xu hướng
muốn (và quen) làm việc tốt hơn là việc xấu;
đồng thời, do ý thức được hậu quả phải gánh
chịu nếu thực hiện hành vi vi phạm mà từ
đó cá nhân sẽ e sợ và không (hoặc hạn chế)
thực hiện hành vi phạm pháp.
Những lập luận này hoàn toàn có giá trị
tham chiếu khi nghiên cứu về tính chất răn
đe của việc XPVPHC nói chung và hình thức
phạt tiền nói riêng. Ở Việt Nam hiện nay,
việc nghiên cứu đầy đủ và cơ bản về tính răn
đe của hình thức phạt tiền trong XPVPHC ít
được nhắc đến, trên diễn đàn khoa học pháp
lý cũng ít đề cập đến vấn đề này. Tính chất
răn đe của hình thức phạt tiền chỉ được trao
đổi và bàn luận nhiều khi có một sự việc nào
đó phát sinh mang tính nổi cộm, thì vấn đề
này mới được chú ý đến nhiều hơn
Cũng giống như các hình thức xử phạt
khác, phạt tiền nhằm góp phần vào việc
duy trì trật tự, kỷ cương, nâng cao tinh thần
thượng tôn pháp luật trong xã hội, thông
qua cơ chế gây ảnh hưởng đến lợi ích của cá
nhân, tổ chức vi phạm; vì thực chất, “phạt
tiền là sự tác động vào lợi ích của người vi
phạm”11.
Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó, phạt
tiền không chỉ tác động đến lợi ích (kinh tế)
của người vi phạm mà còn có tác động đến
yếu tố tinh thần, nhận thức của người vi
phạm; khi mà hành vi không tốt, sai trái bị
xã hội, cộng đồng phê phán.
9 Roger C. Cramton, tlđd, p. 427.
10 Barry Elliott (1979), Deterrence Theory Revisited, World Politics, Cambridge University Press, Vol. 32, p. 4.
11 Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Hành chính, Nxb. Hồng Đức, HN, 2015, tr.532.
Mặc dù phạt tiền chủ yếu nhằm tác động
đến cá nhân, tổ chức để các chủ thể này
không thực hiện hành vi vi phạm; với mức
độ nghiêm khắc của chế tài thấp hơn các
chế tài hình sự. Tuy nhiên, không vì thế mà
tính chất răn đe của hình thức phạt tiền bị
xem nhẹ. Bởi lẽ, nếu thiếu đi tiêu chí này
thì việc phạt tiền trong rất nhiều trường hợp
sẽ không còn nhiều ý nghĩa. Nói chính xác
hơn, mục đích chính của việc phạt tiền là
tạo lập khả năng tránh tái diễn hành vi vi
phạm của cá nhân, tổ chức và hàm ý không
khuyến khích cá nhân, tổ chức khác thực
hiện hành vi tương tự, với cơ chế thúc đẩy
tâm lý “sợ bị phạt”; tâm lý đó sẽ làm cho các
cá nhân kiểm soát tốt hành vi của mình cũng
như đưa ra những lựa chọn thực hiện hành
vi hợp pháp hoặc thậm chí là cá nhân có thể
vẫn cố tình thực hiện hành vi nhưng sẽ có sự
cân nhắc, tiết chế nhằm giảm thiểu mức độ
sai phạm; nhờ đó mà nâng cao tính tuân thủ
pháp luật tốt hơn.
Về cơ bản, có hai yếu tố ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất đến tính răn đe của hình thức phạt
tiền, và cả hai yếu tố này đều ảnh hưởng trực
tiếp đến việc lựa chọn thực hiện hành vi của
cá nhân, đó là sự chắc chắn của việc xử phạt
và mức tiền phạt. Nhưng vấn đề đặt ra là sự
chắc chắn của việc xử phạt và mức tiền phạt,
yếu tố nào sẽ mang tính chất quyết định đến
việc lựa chọn thực hiện hành vi của cá nhân?
Yếu tố nào sẽ đảm bảo tính răn đe của hình
thức phạt tiền có tính trội hơn. Đây là vấn đề
còn rất nhiều tranh cãi, phần lớn các ý kiến
cho rằng mức tiền phạt có phần trội hơn so
với yếu tố chắc chắn của việc xử phạt. Trong
khi đó, cũng có một số ý kiến đánh giá có sự
ngang bằng nhau giữa hai yếu tố này. Tuy
nhiên, theo chúng tôi, mức tiền phạt nghiêm
khắc sẽ có tính răn đe cao đối với đa phần
các trường hợp hơn. Bởi lẽ, sự chắc chắn
của việc xử phạt chỉ bị cản trở, bị “méo mó”
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 22(398) T11/2019
đi trong một số những trường hợp nhất định
mà thôi (chiếm tỷ lệ nhỏ, thứ yếu).
Việc đánh giá tính chất và mức độ của
sự răn đe theo mức tiền phạt là một vấn đề
không hề đơn giản; việc đánh giá này chủ
yếu chỉ mang tính định tính, ước đoán. Vì
tác động từ sự răn đe của hình thức phạt tiền
còn tùy thuộc vào mỗi cá nhân, tổ chức khác
nhau ở từng thời điểm, vụ việc khác nhau.
Dẫu vậy, xét trong nhiều trường hợp cụ thể,
sẽ thấy rằng mức tiền phạt có thể thiếu hụt
hoặc cũng có thể vượt quá “mức răn đe cần
thiết”. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này,
chủ yếu là do các quan hệ xã hội, điều kiện
kinh tế, mức sống, thu nhập của người dân
không ngừng thay đổi, cho nên, mức tiền
phạt đối với nhiều hành vi vi phạm đôi khi
không còn phù hợp trên thực tế.
Đồng thời, một điểm quan trọng khác
cũng cần được quan tâm, đó là tính chất răn
đe của hình thức phạt tiền còn phụ thuộc
vào “năng lực phản chiếu” của từng cá nhân
trước hành vi vi phạm (trừ trường hợp cá
nhân vô ý hoặc không ý thức được hành vi
mà mình thực hiện là hành vi vi phạm). Mức
độ phản chiếu này của từng cá nhân sẽ quyết
định phần lớn đến việc tự ngăn chặn khả
năng bị kích thích, thu hút thực hiện hành
vi vi phạm. Nếu cá nhân có năng lực phản
chiếu càng tốt thì khả năng xảy ra hành vi vi
phạm càng thấp và ngược lại. Năng lực phản
chiếu này lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
thành phần cụ thể hơn như kiến thức pháp
luật của cá nhân.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra
nhận định về mức độ tương quan giữa mức
tiền phạt và tính răn đe của hình thức phạt
tiền như sau: nếu mức tiền phạt quá thấp
thì khả năng xảy ra vi phạm càng nhiều; chỉ
khi mức tiền phạt tương xứng với mức độ vi
phạm thì tính răn đe càng cao; điều đó càng
giúp làm giảm khả năng tái diễn và xảy ra
hành vi vi phạm mới; giúp cho Nhà nước
giảm thiểu chi phí, thời gian xử lý các vụ
việc; nhưng ngược lại, mức tiền phạt quá
cao thì nó sẽ khó có tính khả thi trên thực tế.
Điều đó đòi hỏi mức tiền phạt phải được cân
nhắc, điều chỉnh cho phù hợp với từng thời
điểm, giai đoạn và tương ứng với từng nhóm
đối tượng khác nhau.
Theo chúng tôi, tính răn đe của hình thức
phạt tiền chỉ được đảm bảo khi:
Thứ nhất, mức tiền phạt đối với những
vi phạm hành chính, nhất là vi phạm hành
chính phổ biến cần phải được truyền tải đến
đông đảo cá nhân, tổ chức trong xã hội; phải
gây ảnh hưởng và tạo được suy nghĩ cho
người dân rằng: nếu thực hiện vi phạm hành
chính đó thì sẽ bị thiệt nhiều hơn là được lợi;
Thứ hai, mức tiền phạt phải đủ “mạnh”
với đa số các cá nhân, tổ chức vi phạm; tạo
được sự đồng thuận cao trong xã hội tại một
thời điểm nhất định;
Thứ ba, tính răn đe của hình thức phạt
tiền chỉ được củng cố tốt hơn khi vi phạm
hành chính được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và xử lý nghiêm minh, công bằng.
2. Một số nhận định về tính răn đe của
hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm
hành chính
Hiện nay, theo quy định của Luật
XLVPHC năm 2012, khung tiền phạt từ
50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng
đối với cá nhân, từ 100.000 đồng đến
2.000.000.000 đồng đối với tổ chức. Mức
phạt cụ thể chủ yếu được quy định trong các
nghị định theo từng ngành, lĩnh vực riêng
biệt. Riêng ở cấp địa phương cũng có trường
hợp chính quyền cấp tỉnh đã ban hành theo
thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật
về XPVPHC trên địa bàn, trong đó có quy
định chi tiết về mức tiền phạt cụ thể theo
lĩnh vực quản lý. Đơn cử như: Nghị quyết số
07/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của
Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội về
mức tiền phạt đối với một số hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
và Nghị quyết số 08/2014/NQ- HĐND ngày
11/7/2014 quy định về mức tiền phạt đối với
một số hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực văn hóa.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 22(398) T11/2019
Trong khoảng 04 năm qua, trên địa bàn
cả nước đã phát hiện: 36.789.227 vụ việc
vi phạm hành chính, tổng số vụ việc đã xử
phạt là 28.493.927 vụ việc (chiếm 77.45%
số vụ vi phạm), tổng tiền phạt thu được là
38.543.430.058.702 đồng12. Đáng lưu ý,
có một số lĩnh vực có số lượng vi phạm
hành chính rất lớn, đơn cử như lĩnh vực
giao thông. Theo một số liệu thống kê cho
thấy: tính trong hai năm kể từ khi triển khai
thực hiện Nghị định số 46/2016/NĐ-CP về
XPVPHC trong lĩnh vực giao thông đường
bộ và đường sắt, lực lượng Công an đã xử
lý trong lĩnh vực đường bộ hơn 7,87 triệu
trường hợp vi phạm, phạt tiền hơn 4.618 tỷ
đồng; tước hơn 589.738 giấy phép lái xe,
tạm giữ hơn 939.116 phương tiện. Trong
lĩnh vực đường sắt đã xử phạt hơn 2.928
trường hợp vi phạm, phạt tiền hơn 1,6 tỷ
đồng13. Thực tế cho thấy, hình thức xử phạt
bằng tiền đã góp phần quan trọng vào việc
duy trì kỷ cương, trật tự, an toàn xã hội.
Tuy nhiên, cũng phần nào giống như giai
đoạn trước đây, “do đa dạng về hành vi vi
phạm và đối tượng vi phạm nên việc các
nghị định về XPVPHC quy định cách thức
định lượng mức độ nguy hiểm của hành vi
vi phạm trong nhiều trường hợp, lĩnh vực
không thống nhất và không phù hợp. Điều
này tạo ra sự khó khăn khi xác định mức
phạt tiền phù hợp với mức độ nguy hiểm
của hành vi vi phạm để đảm bảo tính răn đe,
nghiêm minh và công bằng của pháp luật”14.
Nên trong thời điểm hiện nay, đây vẫn chính
là một “nút thắt” cần tháo gỡ.
Cụ thể: mức phạt tiền hiện nay đối với
một số hành vi vi phạm còn quá thấp, tình
trạng này dẫn đến tâm thế “khẩn trương nộp
12 Bộ Tư pháp, Báo cáo số 09/BC-BTP, ngày 08/01/2018 về tổng kết thi hành Luật XLVPHC 2012, HN, tr. 6.
13 Anh Vũ, Đưa lao động công ích vào chế tài xử phạt người vi phạm giao thông?, https://www.moitruongvadothi.vn/
do-thi/giao-thong/dua-lao-dong-cong-ich-vao-che-tai-xu-phat-nguoi-vi-pham-giao-thong-a45995.html, truy cập ngày
19/4/2019.
14 Bùi Tiến Đạt (2008), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: lý luận và thực tiễn (Luận văn thạc sỹ luật học - Khoa
luật ĐHQGHN), HN, tr. 58.
15 Chung Hoàng, Phương Loan, Phạt tiền cao: Người giàu nhờn, người nghèo sợ,
Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=131.
phạt”, cũng như tâm lý “nhờn luật” vì thế mà
tăng cao, gây bức xúc trong dư luận. Điển
hình như: nếu cá nhân có cử chỉ, lời nói trêu
ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác thì chỉ có thể sẽ bị phạt cảnh cáo
hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000
đồng (theo quy định tại Điều 5 Nghị định số
167/2013/NĐ-CP của Chính phủ, quy định
XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự,
an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo
lực gia đình); hay như: mức xử phạt đối với
một số hành vi vi phạm pháp luật nghĩa vụ
quân sự đã khá lạc hậu. Hiện mức phạt tối đa
đối với hành vi “không chấp hành lệnh nhập
ngũ” hiện nay là 2,5 triệu đồng. Có trường
hợp không chấp hành lệnh khám sức khỏe
03 năm liên tục nhưng chỉ bị phạt tổng cộng
3,4 triệu đồng. Với mức tiền phạt thấp như ở
một số lĩnh vực vừa dẫn chứng trên, rất khó
để những cá nhân, tổ chức vi phạm sẽ “e dè”
trong việc tái diễn hành vi vi phạm tương tự
của mình.
Trái ngược với mức xử phạt thấp, một
số trường hợp vi phạm hành chính hiện nay
bị xử lý với mức phạt quá cao. Chẳng hạn:
“nhiều người vi phạm luật giao thông bị bắt
nộp phạt cao thì mới được lấy lại phương
tiện, nên đã chấp nhận bỏ phương tiện để
không phải nộp phạt. Nhà nước vừa không
thu được tiền phạt, còn phải chi phí cho việc
tạm giữ một lượng lớn phương tiện”15.
Gần đây, trong Dự thảo Nghị định quy
định XPVPHC trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp;
hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình;
thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã, cụ thể là tại “điểm e khoản 1
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 22(398) T11/2019
Điều 15 của Dự thảo quy định về mức phạt
tiền đối với hành vi “không đeo thẻ công
chứng viên khi hành nghề công chứng” với
mức phạt từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000
đồng. Đây là mức phạt tiền khá nặng đối với
hành vi vi phạm tác động đến lợi ích công
cộng khá thấp”16. Nói cách khác, mức tiền
phạt trong trường hợp này đã có dấu hiệu
“vượt quá mức răn đe cần thiết” nếu được áp
dụng trên thực tế.
Một vấn đề nữa cũng đáng lưu tâm là
cách thức phạt tiền. Hiện nay, các cơ quan
chức năng đang áp dụng hai cách thức phạt
tiền đối với vi phạm hành chính là “phạt
nóng” và “phạt nguội” (chủ yếu đối với
lĩnh vực giao thông). Nhưng xét về mặt tâm
lý, việc “phạt nóng” đa phần sẽ có tính răn
đe cao hơn so với cách thức “phạt nguội”.
Tuy nhiên, có một nghịch lý kèm theo đó là
“phạt nguội”, nhờ sự hỗ trợ của các phương
tiện kỹ thuật thường có tính chuẩn xác cao
hơn là “phạt nóng”.
Song song đó, trong quá trình tiến hành
XPVPHC bằng hình thức phạt tiền, có trường
hợp người thi hành công vụ không thực hiện
đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, dễ
dãi cho qua hoặc nhận hối lộ làm giảm
tính nghiêm minh của pháp luật. Đặc biệt
là việc đưa ra mức tiền phạt khi có tình tiết
giảm nhẹ hoặc tăng nặng còn mang tính tùy
nghi cao17. Từ đó, phần nào ảnh hưởng đến
tính răn đe của hình thức phạt tiền.
3. Kiến nghị
Để bảo đảm tăng cường tính “răn đe”
của chế tài xử phạt vi phạm hành chính, góp
phần giảm thiểu vi phạm hành chính có thể
xảy ra, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị
16 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Góp ý Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã. Xem thêm tại:
lien-quan-den-dieu-kien-dau-tu-kinh-doanh-ve-kham-benh-chua-benh-trang-thiet-bi-y-te-va-pham, truy cập ngày
24/9/2018.
17 Xin xem thêm: Một số bất cập và hướng đề xuất khi xác định mức tiền phạt trong trường hợp có tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trong bài viết: Những nội dung cần sửa đổi trong Luật XLVPHC năm 2012, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Số 01/2019, tr.7-10.
sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính. Việc tuyên truyền phải
làm cho đối tượng cảm nhận được “cảm giác
sai trái” và sự e ngại các thiệt hại về kinh
tế nếu thực hiện hành vi vi phạm; ưu tiên
tuyên truyền pháp luật về XPVPHC theo
từng nhóm ngành, lĩnh vực có số lượng vụ
việc vi phạm hành chính cao, phổ biến. Hình
thức tuyên truyền cần đảm bảo tính hiệu
quả, thiết thực, có trọng tâm. Cùng với đó,
chúng ta cần nâng cao tính minh bạch, tăng
cường trách nhiệm, đạo đức thực thi công
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trong quá
trình XPVPHC. Bởi khi cán bộ, công chức
thực thi pháp luật nghiêm minh thì tính chất
răn đe của hình thức phạt tiền sẽ ngày càng
được đảm bảo tốt hơn.
Hai là, nghiên cứu, rà soát, cân nhắc lại
mức phạt tiền với mức độ nặng/nhẹ tùy vào
từng hành vi vi phạm cụ thể. Thiết nghĩ, cần
đánh giá một cách tổng thể sự phù hợp của
mức tiền phạt tối đa và tối thiểu trong các lĩnh
vực với tình hình thực tiễn của đời sống kinh
tế - xã hội. Qua đó, xem xét mức tiền phạt
trong lĩnh vực nào cần tăng lên, lĩnh vực nào
cần giảm xuống. Đặc biệt, như đã đề cập,
đối với trường hợp “nhờn luật” thì mức phạt
tối đa vẫn khó có thể đảm bảo tính răn đe đối
với người vi phạm. Trong những trường hợp
này, cần có cách thức giải quyết phù hợp và
thích đáng hơn. Chẳng hạn, người thi hành
công vụ, cơ quan công quyền cần phải có
đầy đủ thông tin của người vi phạm; từ đó,
có thể tính toán lại mức tiền phạt theo cách
“tích lũy điểm phạt”; hoặc nhân theo “hệ số
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 22(398) T11/2019
vi phạm” (tính theo số lần vi phạm) hay căn
cứ vào “lịch sử vi phạm hành chính” để đưa
ra mức tiền phạt nặng hơn.
Ba là, việc xử phạt đối với những hành
vi vi phạm đã bị xử lý nhiều lần (như vượt
đèn đỏ, chạy quá tốc độ cho phép), ngoài
phương án tăng mức tiền phạt thì cũng cần
phải tăng mức xử phạt bổ sung thậm chí nên
thay đổi hình thức phạt tiền bằng hình thức
xử phạt khác. Nói cách khác là “nên nghiên
cứu để không áp dụng duy nhất hình thức
phạt tiền đối với cùng một hành vi vi phạm
hành chính”18. Đơn cử như có thể áp dụng
18 Quách Tiên Phong (2011), Nâng cao hiệu quả áp dụng của các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 10.
19 Hình thức xử phạt này đã từng được quy định trong Nghị định số 143/CP, ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ;
Pháp lệnh số 15/1999/PL-UBTVQH10, ngày 03/9/1999 về lao động công ích.
biện pháp xử phạt “lao động công ích”19.
Tuy nhiên, nếu tái áp dụng hình thức này,
cần phải giải quyết được những vấn đề then
chốt nhất đặt ra như: lao động công ích là
những công việc gì? thời gian cụ thể ra sao?;
kèm theo đó, cơ chế giám sát, đánh giá kết
quả phải đơn giản, dễ thực hiện, tránh làm
phát sinh chi phí, tốn kém. Đồng thời, cũng
rất cần thiết phải có cơ chế bảo vệ người vi
phạm, nhằm tránh khả năng xâm phạm đến
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barry Elliott, Deterrence Theory Revisited, https://acrs.org.au/files/arsrpe/RS030055.pdf.
2. Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo Tổng kết thi hành Luật XLVPHC 2012, Hà Nội.
3. Chung Hoàng, Phương Loan (2011), Phạt tiền cao: Người giàu nhờn, người nghèo sợ, http://
duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=131.
4. Bùi Tiến Đạt (2008), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: lý luận và thực tiễn (Luận văn thạc sỹ
luật học), Hà Nội.
5. John C. Ball, Deterrence Concept in Criminology and Law, https://scholarlycommons.law.northwestern.
edu/cgi/viewcontent.cgi?article=4387&context=jclc.
6. Quách Tiên Phong (2011), Nâng cao hiệu quả áp dụng của các hình thức xử phạt vi phạm hành chính,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10.
7. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2018), Góp ý đối với Dự thảo Nghị định quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành
án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã,
dinh-sua-doi-bo-sung-mot-quy-dinh-lien-quan-den-dieu-kien-dau-tu-kinh-doanh-ve-kham-benh-chua-benh-
trang-thiet-bi-y-te-va-pham.
8. Roger C. Cramton, Driver Behavior and Legal Sanctions: A Study of Deterrence, https://scholarship.
law.cornell.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=2348&context=facpub.
9. Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật Hành chính, Tp.HCM, Nxb. Hồng Đức,
tr.532.
10. Anh Vũ (2019), Đưa lao động công ích vào chế tài xử phạt người vi phạm giao thông?, https://www.
moitruongvadothi.vn/do-thi/giao-thong/dua-lao-dong-cong-ich-vao-che-tai-xu-phat-nguoi-vi-pham-giao-
thong-a45995.html.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
44 Số 22(398) T11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_ran_de_cua_hinh_thuc_phat_tien_trong_xu_phat_vi_pham_ha.pdf