Tính toán sự cố rủi ro của công trình xây dựng
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    Đánh giá mức độ an toàn (sự cố rủi ro) của hệ
kết cấu chịu lực của cầu cạn đỡ đường ống với các
điều kiện sau:
- Cầu gồm các dầm bê tông cốt thép liên tục 4
nhịp được gối trên các trụ bê tông;
- Thời gian sử dụng: 50 năm;
- Số nhóm kết cấu chịu lực cùng loại n = 5;
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 778 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính toán sự cố rủi ro của công trình xây dựng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 3 
TÍNH TOÁN SỰ CỐ RỦI RO CỦA CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG 
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN CHÍNH, ThS. NGUYỄN HOÀNG ANH 
Viện KHCN Xây dựng 
Tóm tắt: Trong tính toán thiết kế các công trình 
xây dựng mặc dù đã sử dụng các hệ số tin cậy đối 
với tải trọng, vật liệu, điều kiện làm việc để bảo đảm 
độ an toàn sử dụng cho công trình. Tuy vậy, công 
trình vẫn tiềm ẩn khả năng xảy ra sự cố rủi ro. Tính 
toán và dự báo sự cố rủi ro sẽ đưa ra được kế 
hoạch khai thác, bảo trì và sửa chữa hợp lý nhằm 
bảo đảm an toàn và nâng cao hiệu quả khai thác 
công trình. Bài báo trình bày phương pháp tính toán 
sự cố rủi ro đối với công trình xây dựng. 
1. Đặt vấn đề 
Trong lĩnh vực xây dựng cũng như trong các 
ngành công nghiệp khác vẫn thường xảy ra các tình 
huống sự cố. Số liệu thống kê cho thấy khoảng 80% 
sự cố của công trình xây dựng là do thiếu sót và sai 
lầm của con người kể từ khâu khảo sát, thiết kế, thi 
công xây dựng đến sử dụng [3]. 
Đối với nhà và công trình để đảm bảo an toàn 
thì các kết cấu chịu lực cần chịu được tải trọng và 
tác động trong những trường hợp bất lợi và không 
xuất hiện sự cố rủi ro vượt ngưỡng quy định. Độ an 
toàn của kết cấu được xem là bảo đảm nếu sự cố 
rủi ro thực tế ở trong vùng giá trị cho phép. 
Vùng giá trị sự cố rủi ro cho phép thể hiện mức 
độ an toàn kết cấu của nhà và công trình. Để áp 
dụng vào tính toán đánh giá tình trạng kỹ thuật của 
công trình cần có thông tin về giá trị sự cố rủi ro 
thực tế, giá trị này được xác định bằng sự kết hợp 
giữa con người và máy tính, thông qua các phương 
pháp toán học và công nghệ thông tin cùng với kiến 
thức và sự nhạy cảm của chuyên gia. 
2. Sự cố rủi ro và cách tính toán rủi ro 
Sự cố rủi ro là một đại lượng véc tơ, chịu sự 
điều chỉnh của các yếu tố chủ quan như thiết kế, thi 
công, tư vấn giám sát, các yếu tố kinh tế như chi phí 
bảo đảm an toàn kết cấu, sự tổn thất do sự cố, và 
các yếu tố không chịu sự điều chỉnh là xác suất xuất 
hiện các tác động ngoài tính toán thiết kế. 
Gần 80% trường hợp sự cố của nhà và công 
trình xẩy ra do kết quả giao nhau của hai sự kiện 
độc lập: sự kiện xuất hiện mà thiết kế không lường 
trước được và sự kiện do lỗi của con người gây ra 
trong quá trình thi công xây dựng và sử dụng. Khi 
sự cố xẩy ra thì thiệt hại phụ thuộc vào cả rủi ro 
khách quan và chủ quan. 
 Dự báo sự cố rủi ro đối với công trình xây dựng 
theo cách tiếp cận bằng phương pháp xác suất cổ 
điển không thể thực hiện được do hai nguyên nhân. 
Thứ nhất sự cố của nhà và công trình là sự kiện ít 
xẩy ra, thứ hai sai sót của con người trong quá trình 
thiết kế, thi công và sử dụng cũng không xác định 
được qua ứng xử của kết cấu. Do sự cố và mức độ 
tình trạng kỹ thuật của kết cấu nhà và công trình có 
mối liên quan chặt chẽ nên việc đánh giá sự cố rủi 
ro được tiến hành theo cách tiếp cận lôgic – xác 
suất, dựa trên cơ sở lý thuyết xác suất (định lý giả 
thuyết, định lý xác suất toàn phần,), phương pháp 
lý thuyết tập hợp và phương pháp ra quyết định 
trong trường hợp không xác định. 
 Đại lượng sự cố rủi ro thực tế, hao mòn vật lý 
và tuổi thọ còn lại của nhà và công trình cũng liên 
quan với nhau. Để xác định các đại lượng này cần 
sử dụng quy luật phân bố rủi ro được thể hiện qua 
chỉ số tích phân mức độ an toàn của công trình. 
2.1 Quy luật phân bố sự cố rủi ro 
 Nhà và công trình được thiết kế và xây dựng 
được tính toán với hệ số an toàn để chịu các tải 
trọng và tác động bên ngoài, song thực tế cho thấy 
trong một số trường hợp độ dự trữ an toàn không 
bù được những sai sót do con người gây ra. Hơn 
nữa những sai sót này là những nguyên nhân chủ 
yếu gây ra sự cố công trình. 
 Tài liệu [4] cho thấy khi kết thúc công tác xây 
dựng công trình thì sai sót thực tế do con người, 
xác suất sự cố thực tế Ptt so với lý thuyết Plt tăng 
lên vài lần (hình1). 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
4 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
Hình 1. Xác suất sự cố lý thuyết Plt và thực tế Ptt 
Trên hình thể hiện quy luật phân bố tác động F 
và khả năng S của công trình, ký hiệu f là hàm mật 
độ xác suất của F và S. Sai sót của con người làm 
suy giảm khả năng S của công trình và làm tăng xác 
suất sự cố so với giá trị tính toán thiết kế. 
Xác suất sự cố thực tế của công trình đối với 
tập hợp không hạn chế các ngôi nhà mới xây dựng 
có thể viết dưới dạng: 
tt lt bsP P P  
trong đó: Pbs – Xác suất bổ sung sự cố sai sót 
do con người (thiết kế, thi công, giám sát, sử 
dụng,). Để xác định Pbs sử dụng giả thiết (công 
thức bayet) để tiên nghiệm xác suất sự cố xảy ra. 
Xét hai sự kiện ngược nhau: C – có sai sót 
trong xây lắp kết cấu chịu lực của nhà, C* - không 
có sai sót. Các sự kiện C và C* tạo thành nhóm sự 
kiện không tương hợp trong quá trình xây dựng, 
đến trước lúc xây dựng thì tập hợp C là tập hợp 
rỗng. 
Gọi: P(C*) = v – xác suất trong ngôi nhà được 
xây dựng không có sai sót, 
P(C) = (1 – v) – xác suất của sự kiện ngược lại. 
Trước lúc xây dựng, xác suất sự cố và không 
sự cố của nhà được xác định theo lý thuyết là Plt và 
(1 – Plt). Từ công thức Bayet [1], [2] ta có: 
*( / ) / ( / ) (1 ) ( / )bs lt lt ltP P P C A P P C A P P C A     
trong đó: P(C/A) – xác suất sự kiện C nếu xẩy 
ra sự cố, P(C/A*) – xác suất sự kiện C nếu không 
xẩy ra sự cố. 
Đặt P(C/A*) = v thì P(C/A) = 1 – v. 
Thay các giá trị này vào biểu thức Bayet cùng 
với việc chấp nhận rằng xác suất Plt có số mũ là 
khoảng 10-6 [4], ta có: 
(1 ) /bs ltP P v v  
Cộng Pbs và Plt thu được Ptt / Plt = 1 / v, trong đó 
v được hiểu là mức độ tin cậy của kết cấu chịu lực. 
Các đại lượng Ptt và Plt là các số nguyên 
dương. Đại lượng Plt đạt được khi không có một sai 
sót nào xẩy ra trong quá trình xây lắp kết cấu chịu 
lực. Thực tế cho thấy luôn tồn tại sai sót vì vậy giá 
trị Ptt / Plt luôn lớn hơn 1. 
Vì Ptt / Plt cho thấy xác suất sự cố thực tế lớn 
hơn xác suất sự cố lý thuyết bao nhiêu lần, đại 
lượng này là chỉ số tích phân thể hiện tình trạng kỹ 
thuật của kết cấu chịu lực của công trình và có thể 
xem nó là giá trị rủi ro “r” của công trình: 
/ 1 /tt ltr P P v  (1) 
Để tìm quy luật phân bố đại lượng r của tập hợp 
không hạn chế các ngôi nhà mới xây dựng khi thiếu 
các số liệu thống kê, sử dụng các tiên đề sau: 
Tiên đề 1: Xác suất của giá trị r ≤ 1 bằng không 
(là điều hiển nhiên vì thực tế trong quá trình xây lắp 
không thể tránh sai sót). 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 5 
Tiên đề 2: Đường cong phân bố là không đối 
xứng, mode của đại lượng ngẫu nhiên r dịch 
chuyển về bên trái so với giá trị trung bình. 
Theo các tiên đề đáp ứng phân bố Renlay [2] có 
dạng sau: 
 2 2 2( ) ( 1) / .exp ( 1) / 2f r r r       (2) 
Trong biểu thức trên thông số  liên quan đến 
giá trị kỳ vọng toán của rủi ro R theo công thức: 
1 1,25R   (3) 
Để xác định giá trị trung bình của rủi ro R sử 
dụng công thức (1) có: 
1/R Mv (4) 
Trong đó: Mv - giá trị trung bình (kỳ vọng toán) 
của đại lượng ngẫu nhiên v mà giá trị bằng số của 
nó nằm trong khoảng 0 đến 1. 
2.2 Giá trị sự cố rủi ro tiêu chuẩn 
Giá trị sự cố rủi ro tiêu chuẩn là giá trị rủi ro 
trung bình khi đạt đến giá trị này thì kết cấu chịu lực 
chuyển sang trạng thái khác. Theo định nghĩa thì rủi 
ro tiêu chuẩn là một đại lượng bất biến vì nó không 
phụ thuộc vào giải pháp kết cấu cũng như số tầng 
của công trình. Những giá trị này được sử dụng để 
đưa ra yêu cầu về mức độ an toàn của kết cấu khi 
đánh giá tình trạng kỹ thuật của chúng. 
Giá trị rủi ro tiêu chuẩn bao gồm: 
- Rủi ro tự nhiên Rbt là giá trị rủi ro của công trình 
sau khi kết thúc xây dựng. 
- Rủi ro giới hạn cho phép Rcf khi vượt giá trị này 
công trình chuyển từ tình trạng bình thường 
sang tình trạng hư hỏng. Khi đó công trình cần 
được tiến hành sửa chữa. 
- Rủi ro giới hạn Rgh khi đạt đến giới hạn này 
công trình sẽ mất khả năng chịu lực. 
Để tìm giá trị rủi ro tiêu chuẩn sử dụng quy luật 
phân bố (2). Khi đó giá trị rủi ro bình thường bằng 
giá trị rủi ro tự nhiên đối với nhà mới xây dựng, 
được biểu thị qua kỳ vọng toán của quy luật phân 
bố rủi ro đối với tập hợp không giới hạn nhà mới 
xây dựng (hình 2). Trong hình 2: r – giá trị rủi ro; f(r) 
– hàm mật độ xác suất rủi ro. 
Hình 2. Dạng quy luật phân bố sự cố rủi ro của các ngôi nhà mới xây dựng 
và sự xuống cấp của chúng trong quá trình sử dụng 
Với các tập hợp như vậy, quy luật phân bố của 
đại lượng v có thể xem là đối xứng qua giá trị 0,5. 
Điều đó có nghĩa là không phụ thuộc vào dạng 
đường cong phân bố của đại lượng ngẫu nhiên v, 
giá trị trung bình của Mv bằng 0,5. Từ công thức (4) 
rủi ro tự nhiên của công trình xây dựng đồng nghĩa 
với rủi ro bình thường Rbt có giá trị bằng 2. Nói cách 
khác xác suất thực tế về rủi ro của công trình sau 
khi kết thúc xây dựng trung bình vượt 2 lần so với 
xác suất dự kiến khi thiết kế. 
Nguyên nhân công trình bị xuống cấp là do vật 
liệu bị lão hóa, hao mòn vật lý và do sử dụng không 
đúng quy định. Dưới tác động của các yếu tố nói 
trên giá trị trung bình của sự cố rủi ro tăng lên (dịch 
chuyển về phía phải). Khi này tính bất định về tình 
trạng kỹ thuật của kết cấu chịu lực của nhà và công 
trình thông qua đại lượng entropy tăng lên. Trong 
trường hợp chung (khi có quy luật phân bố bất kỳ) 
thì entropy thông tin của quy luật phân bố xác định 
theo [6]: 
2( ) log ( )i iH P A P A  (5) 
trong đó: P(Ai) – xác suất sự kiện xác định từ 
quy luật phân bố và được hiểu là sự cố rủi ro nằm 
trong vùng giá trị “i”. 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
6 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
Trong hình 3 thể hiện đồ thị của hàm H(R) được 
xây dựng bằng thử nghiệm trên máy tính từ các 
công thức (2), (3), (5), đường chấm thể hiện mối 
quan hệ giữa entropy thông tin và giá trị kỳ vọng 
toán R của quy luật phân bố sự cố rủi ro. Đồ thị 
nhận được của phương trình gần đúng (đường liền 
trong hình 3) có dạng: 
2,15( ) log .H R R (6)
Hình 3. Quan hệ giữa entropy thông tin và giá trị sự cố rủi ro trung bình của công trình xây dựng 
Đồ thị ở hình 3 đặc trưng cho mức độ phát triển 
bất định tình trạng kỹ thuật của kết cấu chịu lực phụ 
thuộc vào giá trị sự cố rủi ro trung bình của công 
trình, biểu thức (6) thực chất là quy luật suy giảm 
của kết cấu chịu lực của công trình. 
Để ứng dụng vào thực tế đường cong lý thuyết 
của quy luật phân bố trong hình 3, chia đường cong 
này làm 3 đoạn thẳng, ở mỗi điểm gấp khúc, tốc độ 
của entropy thay đổi. 
Nghiên cứu sự cố rủi ro của các công trình mới 
xây dựng, công trình đã và đang sử dụng cũng như 
các công trình bị hư hỏng ở những thời gian khác 
nhau, cùng với việc phân tích kết quả các nghiên 
cứu cho phép lựa chọn điểm gấp khúc (giá trị 
ngưỡng sự cố rủi ro), trong hình 4. Ở đây tình trạng 
kỹ thuật của công trình được đánh giá như sau: 
- Công trình bảo đảm an toàn nếu kết cấu chịu 
lực không bị nứt; 
- Công trình bị hư hỏng nếu kết cấu chịu lực có 
những vết nứt nhưng chưa đến mức gây sập đổ kết 
cấu; 
- Công trình nguy hiểm nếu kết cấu có những vết 
nứt có thể gây sập đổ kết cấu. 
Trong hình 4 thể hiện biểu đồ lý tưởng về quan 
hệ “entropy – sự cố rủi ro”, được gọi là “mô hình suy 
giảm kết cấu chịu lực của công trình”. 
Mô hình này cho phép xác định được các nội 
dung sau: 
Hình 4. Mô hình suy giảm khả năng chịu lực và các giá trị ngưỡng sự cố rủi ro 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 7 
a. Thời gian sử dụng công trình từ thời điểm kết 
thúc xây dựng đến khi đạt đến sự cố rủi ro ở điểm 
gấp khúc đầu tiên (R=19) xác định dự trữ an toàn 
Tat của công trình. Trong giai đoạn này, kết cấu chịu 
lực của công trình không có vết nứt và có thể khẳng 
định rằng kết cấu chịu lực có đủ khả năng chịu các 
tác động đã được thiết kế, mặt khác do có dự trữ về 
độ bền nên nó còn có khả năng chịu được cả 
những tải trọng và tác động chưa được kể đến khi 
thiết kế. Tình trạng kỹ thuật của công trình ở giai 
đoạn này có thể xem là an toàn và giá trị sự cố rủi 
ro bằng 19 được chấp nhận là giá trị rủi ro giới hạn 
cho phép Rcf. 
Khi công trình đạt tới giá trị sự cố rủi ro giới hạn 
cho phép thì giá trị hao mòn vật lý là 50%. Ở mức 
hao mòn này, yêu cầu phải tiến hành sửa chữa lớn 
với mục đích khôi phục khả năng chịu lực của kết 
cấu. Nếu không thực hiện các biện pháp gia cường, 
sửa chữa thì sự cố rủi ro tiếp tục phát triển cho đến 
khi đạt giá trị giới hạn Rgh = 83, xác định độ dữ trữ 
giới hạn Tgh của công trình. 
b. Khi công trình có sự cố rủi ro vượt giá trị giới hạn 
cho phép thì tốc độ phát triển của entropy thông tin 
sẽ chậm lại, nó cho thấy công trình đang chuyển từ 
trạng thái an toàn sang trạng thái hư hỏng, trong kết 
cấu chịu lực xuất hiện các vết nứt là nguyên nhân 
gây ra các sự cố. Ở tình trạng hư hỏng kết cấu mất 
dần khả năng chịu tải và đến khi sự cố rủi ro tiếp tục 
phát triển thì kết cấu mất hoàn toàn khả năng chịu 
lực. 
c. Khi công trình có giá trị sự cố rủi ro đạt đến giá trị 
giới hạn Rgh = 83 thì không chỉ mức độ bất định tình 
trạng kỹ thuật của kết cấu chịu lực đạt giá trị cực đại 
mà giá trị hao mòn vật lý cũng đạt đến giá trị tương 
ứng. 
Khi R>Rgh về lý thuyết thì kết cấu mất khả năng 
chịu lực và sự phát triển của entropy thông tin bị 
dừng lại. Điều đó có nghĩa là công trình đã ở vào 
tình trạng nguy hiểm. 
Các đại lượng sự cố rủi ro Rbt, Rcf, Rgh là bất 
biến vì chúng không phụ thuộc vào kết cấu loại nhà 
cũng như số tầng của nhà. Hai đại lượng Rbt và Rcf 
là giới hạn dưới và trên của vùng giá trị sự cố rủi ro 
của công trình. Khi mà giá trị sự cố rủi ro thực tế ở 
trong vùng giá trị này thì mức độ an toàn về kết cấu 
được cho là đạt yêu cầu. 
Mức độ tin cậy tiêu chuẩn của các nhóm kết cấu 
khác với các giá trị tiêu chuẩn sự cố rủi ro là các giá 
trị này biến động. Chúng phụ thuộc vào loại kết cấu 
và số tầng của nhà và công trình. Để xác định mức 
độ tin cậy của hệ kết cấu chịu lực có n các nhóm kết 
cấu được bố trí theo mô hình nối tiếp. Sử dụng giả 
thiết là sai sót của con người gây ra ở nhóm kết cấu 
này không phụ thuộc vào sai sót xẩy ra trong nhóm 
kết cấu khác. Với mô hình và giả thiết nêu trên cho 
phép đánh giá mức độ tin cậy v của kết cấu chịu lực 
theo lý thuyết độ tin cậy ta có: 
v p (7) 
trong đó: ∏p - là tích độ tin cậy tất cả các nhóm kết 
cấu của công trình 
Thay công thức (7) vào biểu thức (4) thì sự cố 
rủi ro trung bình của công trình sẽ là: 
 1 / 1 / ( )R Mv Mp   (8) 
Xét trường hợp tình trạng kỹ thuật giả định của 
công trình khi tất cả các nhóm kết cấu chịu lực có 
độ tin cậy trung bình Mp như nhau và bằng pbt. 
Trong trường hợp này sự cố rủi ro của nhà R sẽ 
bằng Rbt, công thức (8) có dạng Rbt = 1 / pbt
n, từ đây 
xác định độ tin cậy bình thường của kết cấu chịu 
lực. Kết quả là: 
pbt = (Rbt)
-1/n, tương tự có pcf = (Rcf)
-1/n (9) 
2.3 Phương pháp tính sự cố rủi ro thực tế của 
công trình [3] 
Biết được sự cố rủi ro thực tế có thể đánh giá 
tình trạng kỹ thuật của công trình theo 3 khả năng: 
an toàn, hư hỏng và nguy hiểm. 
Trong việc đánh giá tình trạng kỹ thuật của nhà 
và công trình sử dụng các tiêu chí sau: 
- Các giá trị trung bình sự cố rủi ro của công trình 
gồm có: sự cố rủi ro bình thường Rbt = 2, sự cố rủi 
ro giới hạn cho phép Rcf = 19 và sự cố rủi ro giới 
hạn Rgh = 83; 
- Độ tin cậy tiêu chuẩn của các nhóm kết cấu chịu 
lực gồm có: độ tin cậy bình thường pbt = 2
-1/n, độ tin 
cậy giới hạn cho phép pgh = 19
-1/n, trong đó n số 
nhóm kết cấu cùng loại kết cấu chịu lực của công 
trình. 
Để xác định giá trị trung bình sự cố rủi ro thực tế 
R cần thực hiện khảo sát sơ bộ và khảo sát chi tiết 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
8 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
kết cấu chịu lực của công trình. Theo kết quả khảo 
sát, trong mỗi nhóm kết cấu chịu lực tìm ra kết cấu 
bị hư hỏng nhiều nhất và ít nhất theo đó xác định 
mức độ hư hỏng, độ tin cậy của kết cấu. 
- Đối với từng nhóm kết cấu, theo bảng [3] xác 
định mức độ hư hỏng của các nhóm kết cấu và 
tương ứng là độ tin cậy p1 và p2 của chúng; 
- Xác định độ tin cậy trung bình của từng nhóm 
kết cấu theo công thức: 
Mp = (p2 – p1) / 2; 
- Tính sự cố rủi ro trung bình của công trình theo 
công thức: R = 1 / ∏(Mp), trong đó ∏(Mp) là tích độ 
tin cậy trung bình của tất cả n nhóm kết cấu chịu 
lực. 
- So sánh giá trị sự cố rủi ro trung bình R với giá 
trị sự cố rủi ro trung bình quy định để đánh giá tình 
trạng kỹ thuật của công trình với 3 khả năng sau: 
+ Nếu Rbt < R < Rcf – tình trạng an toàn; 
+ Nếu Rcf < R < Rgh – tình trạng hư hỏng; 
+ Nếu R > Rgh – tình trạng nguy hiểm. 
Để bảo đảm độ tin cậy và chính xác của kết quả 
tính toán sự cố rủi ro, thực hiện mô hình hóa các 
tình huống rủi ro và thử nghiệm trên máy tính theo 
phương pháp Monte – Carlo. Thử nghiệm tuân theo 
biểu thức toán học (1), biểu thị mối liên hệ giữa sự 
cố rủi ro với độ tin cậy của các nhóm kết cấu chịu 
lực theo công thức: 
rtt = 1 / vtt = 1 / ∏p (10) 
trong đó: ∏p – tích độ tin cậy của tất cả các nhóm 
kết cấu chịu lực. 
Quá trình thử nghiệm bao gồm các bước sau: 
- Theo giá trị p1 và p2 cụ thể hóa luật phân bố xác 
suất độ tin cậy p của kết cấu trong các nhóm f (p) = 
1 / (p2 – p1); 
- Đối với mỗi nhóm N lần biểu thị đại lượng ngẫu 
nhiên p theo công thức: 
p = p1 + q (p2 – p1), trong đó q – đại lượng ngẫu 
nhiên phân bố đều trong khoảng [0;1]; 
- N lần thử nghiệm sự cố rủi ro của công trình 
theo công thức (rtt)j = 1 / ∏(p)j; trong đó ∏(p)j – tích 
n giá trị của p được biểu thị trước đó, bao gồm cả i 
lần thử nghiệm sự cố rủi ro (i = 1, 2, , N; N = 104); 
- Theo chuỗi thống kê từ N giá trị ngẫu nhiên sự 
cố rủi ro rtt dựng biểu đồ phân bố sự cố rủi ro thực 
tế và biểu đồ xác định giá trị trung bình của sự cố 
rủi ro R*; 
- So sánh R* với giá trị sự cố rủi ro tìm được R và 
theo số phần trăm chênh lệch của các đại lượng 
này xác định độ chính xác và độ tin cậy của kết quả 
tính toán sự cố rủi ro thực tế của công trình. 
3. Ví dụ tính toán sự cố rủi ro 
Đánh giá mức độ an toàn (sự cố rủi ro) của hệ 
kết cấu chịu lực của cầu cạn đỡ đường ống với các 
điều kiện sau: 
- Cầu gồm các dầm bê tông cốt thép liên tục 4 
nhịp được gối trên các trụ bê tông; 
- Thời gian sử dụng: 50 năm; 
- Số nhóm kết cấu chịu lực cùng loại n = 5; 
Tên gọi và thứ tự các nhóm kết cấu cho trong 
bảng 1. 
Bảng 1. Tên gọi và thứ tự các nhóm kết cấu cùng loại của cầu cạn 
Bộ phận công trình Số thứ tự và tên gọi các nhóm 
Phần ngầm cầu cạn 
1. Nền 
2. Móng 
3. Trụ 
Phần thân cầu cạn 4. Các tấm dưới dầm 5. Các dầm 
Yêu cầu về an toàn kết cấu cho trong bảng 2. 
Bảng 2. Yêu cầu về an toàn kết cấu của cầu cạn 
Các chỉ số an toàn tiêu chuẩn Giá trị các chỉ số 
Sự cố rủi ro bình thường Rbt = 2 
Sự cố rủi ro giới hạn cho phép Rcf = 19 
Mức độ tin cậy bình thường pbt=(Rbt)-1/n=2-1/5=0,871 
Mức độ tin cậy giới hạn cho phép pcf=(Rcf)-1/n=19-1/5=0,555 
Sự cố rủi ro giới hạn Rgh = 83 
Thông tin kết quả khảo sát tình trạng kỹ thuật của các nhóm kết cấu chịu lực của cầu cạn cho trong bảng 
3, trong đó các giá trị ở cột 3 và 4 được xác định theo bảng 2 của tài liệu [3]. 
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 9 
Bảng 3. Thông tin kết quả khảo sát 
Nhóm kết 
cấu 
Hư hỏng trong nhóm kết cấu Mức độ hư hỏng trong nhóm 
Nặng nhất Nhẹ nhất 
1 2 3 4 
1 Đất nền bị ẩm ướt đến độ sâu 0,4 m 7.2 6 
2 Bê tông bị no nước 4.3 4.1 
3 Có các vết nứt hình nêm với bề rộng đến 0,5 mm; Trụ bê 
tông chia thành khối, cường độ bê tông thay đổi từ 18 
MPa (ở dưới mối nối) đến 6 MPa (trên mối nối) 
8.3 
8.2 
4 Bê tông bị xốp, bị ăn mòn, có nhiều vết nứt với bề rộng 
đến 1 mm 
9.2 9.1 
5 Bê tông dầm bị xốp, cốt thép dưới bụng dầm bị lộ và bị rỉ. 
Ở cánh dầm khoảng cách 0,8 m từ thân có các vết nứt 
đến 2 mm 
10.1 
9.2 
 Kết quả đánh giá qua các dữ liệu khảo sát thực hiện theo nguyên tắc được quy định [3] thể hiện ở bảng 4. 
Bảng 4. Kết quả đánh giá qua số liệu khảo sát 
Số thứ tự nhóm Giá trị mức độ tin cậy Độ tin cậy trung bình của 
kết cấu trong nhóm Mp 
Kết cấu hư hỏng nặng 
nhất p1 
Kết cấu hư hỏng nhẹ nhất 
p2 
1 0,441 0,500 0,471 
2 0,644 0,730 0,687 
3 0,343 0,365 0,354 
4 0,303 0,322 0,313 
5 0,267 0,303 0,285 
Giá trị sự cố rủi ro thực tế của kết cấu chịu lực 
cầu cạn xác định theo công thức: 
R = 1 / Π(Mp) = 1 / (0,471.0,687.0,354.0,313.0,285) 
= 97,86 
Kết luận: Sự cố rủi ro của cầu cạn vượt giá trị 
giới hạn, cho thấy cầu đang ở tình trạng nguy hiểm, 
không còn khả năng tiếp tục sử dụng. 
4. Kết luận 
 Tính toán được sự cố rủi ro trong các công trình 
xây dựng giúp cho người thiết kế, thi công và sử 
dụng đánh giá được tình trạng kỹ thuật của công 
trình ở các thời điểm khác nhau, trên cơ sở đó đưa 
ra các biện pháp can thiệp, xử lý kịp thời nhằm bảo 
đảm an toàn sử dụng và kéo dài tuổi thọ công trình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đào Hữu Hồ (2008). Xác suất thống kê (in lần thứ 
11). Nhà Xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội. 
[2] Болотин В.В (1982). Методы теории вероятности и 
теории надежности в расчетах сооружений. М. 
Стройиздат. 
[3] А.П Мельчаков (2006). Расчет и оценка риска 
аварии и безопасного ресурса строительных 
объектов. Издательство ЮУрГУ. 
[4] Аугусти Г., Баратта А (1988). Вероятностные 
методы в строительном проектировании. 
Стройздат. 
[5] Paula.Tobias, David C.Trindade. Applied Reliability. 
Chapman & Hall/Crc. 
[6] Вентцель Е. С., Овчаров Л. А (1999). Теория 
вероятностей. М. Наука. 
Ngày nhận bài: 26/10/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 12/12/2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1487665677nguyenxuanchinh_0588.pdf 1487665677nguyenxuanchinh_0588.pdf